Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2010

MỪNG NĂM MỚI

Có điều gì rất bồi hồi
Khi năm đã hết
Năm đã qua và năm sắp tới
Có điều gì bâng khuâng
Ngày đã qua và ngày sắp tới
Tháng cuối của một năm

Từ ngọn núi cao, muông thú
Gởi lời về bình nguyên
Từ biển mênh mông, những bầy cá lớn
Gởi lời về lục địa
Từ rừng xanh thẳm, những loài chìm
Gởi lời về ruộng đồng
Từ vũ trụ xa xăm, những hành tinh
Gởi lời về trái đất
Chúc mừng năm mới tới

Tình yêu của tôi
Bước ra đường
Với cành hoa
Cũng mở lời chúc tụng

Láng giềng của tôi, những chú chó con mới chào đời
Chạy ra khỏi nhà
Vang những tiếng kêu mừng rỡ

Có điều gì kỳ diệu vừa xảy ra
Sáng nay
Một ngày mới của năm

TỪ HOÀI TẤN

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2010

VÍ DỤ EM

Chạy ngang qua quán mười một giờ đêm
Người con gái mặc áo phông quần bó
Ví dụ khách lữ hành
Không nhìn thấy
Chỉ là một vệt sáng
Như sao băng em chợt tắt

Tháng chạp sắp hết những ngày cuối
Gian hàng bày biện rực rỡ
Trong ước vọng mùa xuân em
Đôi cánh soãi bay một trời hạnh phúc mới
Ví dụ về một loài chim
Không có trong sách đỏ

Tia nắng của ngày rực sáng đêm
Những người đi bộ trong công viên
Hái những vì sao khuya
Sắp hàng chào đón nàng trở lại
Không gian buổi hẹn hò đầu tiên
Ví dụ về những đôi mắt
Sáng như những vì sao khuya
Tưởng chừng không năm tháng

Yêu em
Hãy cứ tạo ra nhiều giả thiết
Để set up một cuộc tình

TỪ HOÀI TẤN

Buổi trưa về đại lộ

Tôi đi trên con ngựa sắt cũ kỹ
Từ ngõ hẻm ngoại ô
Bảy giờ sáng
Cháu gái đã đi học
Con cái đã đi làm
Tôi cũng đi
Trên con đường hàng ngày nhiều người qua lại
Ngày nào cũng như nhau
Người và người
Chuyển động không dứt

Trời hôm nay tốt
Mùa mưa đã hết
Bạn nhắn tin trên máy
Gặp gỡ thường kỳ
Nhìn buổi sáng đi qua trên những cành cây ngọn lá
Cho đến khi mặt trời nóng lên
Con đường đông xe trở lại

Tôi về qua đại lộ
Buổi trưa
Con ngựa sắt khò khè
Mỗi ngày bước đi như sự thể hiện cần thiết

TỪ HOÀI TẤN

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2010

Việt Linh : Bà chúa của Sơn Nam

Sơn Nam và Việt Linh ở Kiên Giang năm 1992. Ảnh tư liệu của tác giả

SGTT - Đưa tang ông, với lý do không có nhiều hiểu biết về con người đáng kính, lạ thường này, tôi hầu như từ chối mọi phỏng vấn nghi thức. Nhưng từ thẳm sâu, tôi biết mình sẽ viết về ông – người đã gọi tôi là... “quỷ cái”!
Đó là năm 1988, khi phim Gánh xiếc rong của tôi không được phép phát hành. Trong một buổi cà kê ở phòng kế hoạch hãng phim Giải Phóng, Sơn Nam nhìn tôi, cười mim mím: “Đường Lý Chính Thắng giờ có thêm con quỷ cái, vị chi ba con”. Thì ra ông cộng tôi với hai “con quỷ” trước là K.H ở báo Tuổi Trẻ, T.T của báo Phụ Nữ TP.HCM – cùng có trụ sở trên đường Lý Chính Thắng. Hôm đó, không chỉ phong tôi là “quỷ” – từ mặc định của ông cho những nàng “có vấn đề” – Sơn Nam còn nghiêng ngó mấy vân tay quỷ, phán một câu rất vui: “Người này, nếu ở ngoài đời (ông làm như tôi đang đi tu hay ở trong tù) thì dù giựt hụi người ta, nhưng rủ chơi lại, người ta cũng chơi”. Tôi hỏi ý bác sao. Ông chỉ cười mim mím. Sơn Nam là vậy, luôn lấp lơ, bí ẩn…
Tôi gọi ông bằng “bác” vì ông thuộc thế hệ đàn anh của ba tôi. Và thật ra, ngoài một số tác phẩm của ông mà tôi đã đọc, một số lần gặp nhau ở phân viện Tư liệu phim (7 Phan Kế Bính, quận 1) mà ba tôi phụ trách, tôi không thân thiết với ông, cho đến khi được ông gọi là “quỷ cái”. Và rồi một cơ duyên nữa khiến chúng tôi gần nhau hơn: thời đó, cuối những năm 80 của thế kỷ trước, các truyền thuyết hương xa bỗng dưng ăn khách khi chuyển thành điện ảnh. Giám đốc hãng phim bảo tôi kiếm một đề tài tương tự. Sau nhiều cân nhắc, tôi chọn tiểu thuyết Bà chúa Hòn của Sơn Nam. Vì nhan sắc tuyệt trần – theo Sơn Nam tả – của cô bé tên Huôi mà số phận sắp đặt lớn lên thành bà chúa. Vì vẻ đẹp tuyệt mỹ – cũng theo Sơn Nam tả – của đất trời Nam bộ. Vì nỗi thống khổ của dân đen trước một vương triều thâm thối… Tóm lại, Bà chúa Hòn đủ chất liệu cho bộ phim lôi cuốn.
Đọc kịch bản xong, Sơn Nam cười mim mím: Hấp dẫn a… Nhưng khác quá. Tôi mừng húm, chỉ sợ ông nói “ngộ”, bởi tôi biết ông hay dùng chữ “ngộ” để đưa đẩy xã giao những chuyện không thích. Cái sự khác đó như vầy: từ câu chuyện của Sơn Nam, tôi phóng tác thành câu chuyện khác. Tôi chọn cái lâm ly tình yêu, tội ác thay cho cái ly kỳ điển tích, tập quán… khó tái hiện với kinh phí thấp. Tôi chọn cho nhân vật cái gia phả thuần Việt thay cho lý lịch Triều Châu nguyên bản mà tôi không am hiểu. Cô gái của tôi vì vậy tên Lam chứ không phải Huôi. Quan trọng hơn, từ nỗi hứng được ông gọi là “quỷ cái”, tôi cũng biến Lam thành quỷ – những con quỷ chịu mang tiếng quỷ để làm được cái gì không – quỷ cho đời. Con quỷ Lam của tôi đã hy sinh tình riêng, thí chúa, cứu dân.
Cái khác nữa, hình như lớn nhất, là nhân vật Bá Vạn: Bá Vạn trong sách mưu mô, liên minh thí chúa với Huôi vì tư lợi. Bá Vạn trong phim nghĩa tình, đa cảm, mang tiếng bạo quan để chờ dịp giúp dân.
Kịch bản được duyệt, bản quyền được ký. Chúng tôi tổ chức đi chọn cảnh và mời ông hướng đạo. Một tuần lang thang từ thành phố tới Hà Tiên, “pho từ điển sống miền Nam” không ngó ngàng kịch bản, chỉ say sưa cổ tích, ẩm thực... của vùng đất ông tin là phước địa – niềm tin đã khiến ông suốt đời mê đắm làm người kể chuyện và nghiên cứu. Cứ vậy chúng tôi đi cùng những câu chuyện của ông, kịch bản tưởng như bị quên béng. Nhưng một ngày, bỗng dưng ông hỏi tôi có biết tại sao ông thích kịch bản này không, dù nó khác xa tiểu thuyết. Tôi nửa đùa nửa thật chắc tại bác thích viên quan già Bá Vạn (trong phim Bá Vạn… yêu bà chúa trẻ). Sơn Nam cười mim mím, nói thích nhứt đoạn Lam mới lên ngôi, sau khi truất được chúa Hòn. Đoạn đó như vầy:
Đêm hoa viên tĩnh lặng. Lam ngồi úp mặt bên hồ sen, người co dúm như hứng chịu sức nặng gì ghê gớm. Bá Vạn đứng không xa, nhẹ nhàng an ủi:
- Bà hãy khóc đi… Ít ra cũng có lúc bà được sống cho chính mình.Lam bật khóc thành tiếng. Bá Vạn nhìn Lam, mắt đỏ hoe:- Bà thật bất hạnh…Lam tức tưởi chụp tay vị quan già:- Ông Bá Vạn! Bao giờ? Bao giờ tôi mới được làm cô gái bình thường, được cởi cái danh vị nữ vương này?Bá Vạn nhìn Lam, xa vắng:- Tôi còn mong điều đó hơn bà…Lam ngạc nhiên, gay gắt:- Ông nói sao? Chính ông bắt tôi làm bà chúa kia mà!Bá Vạn tránh mắt Lam, buồn bã:- Bà hiểu vì sao tôi phải làm như vậy. Nếu chỉ sống cho mình, bà đã không làm chúa. Tôi cũng vậy. Nếu được sống cho mình, tôi đã không phải dằn nén một câu nói, mà đáng lẽ từ lâu, tôi phải nói với bà…Lam nhìn viên quan, bối rối:- Ông… muốn nói gì? Bá Vạn bất đồ nắm tay Lam, thổn thức:- Lam… Tôi yêu bà…
Cũng trong chuyến đi, thấy ông tiện tặn còn hơn đám làm phim tiện tặn, tôi trêu nghe đồn bác có “lương tháng” to bự lắm. Ông cười mim mím, nói tổng biên tập một tờ báo lớn quyết định bồi dưỡng các nhân vật anh yêu quý. Sơn Nam là một và duy nhất không quyền thế trong số đó. Ông khoe tiền khá lắm. Nói khá có lẽ do ông không biết những con số đồ sộ khác, hoặc do ông quen đạm bạc. Ông than “mắc cỡ lắm” khi tháng tháng phải ren rén vô gặp cô tài vụ, ren rén bước ra mau để không ai nhìn thấy… Biết ông túng thiếu mà tự trọng, nhiều người, trong đó có tôi, hay tặng tiền ông bằng cách khẽ đưa vào túi áo để ông khỏi chạm tay cầm. Thường thì ông ngó lơ, lí nhí nói “Cảm ơn”, hoặc “Tử tế ha” rồi lảng qua chuyện khác. Bà con Việt kiều ở Pháp rất ái mộ ông, đặc biệt gia đình bác sĩ H. Lâu lâu, họ nhờ tôi chuyển tặng ông món tiền đáng kể. Rất khó gặp Sơn Nam nên tôi phải nhờ tiếp qua anh N. Tôi ngại nói anh N. ghi mấy chữ, cũng như anh N. không thể bắt người bạn vong niên khả kính của anh ghi mấy chữ. Chúng tôi đành áy náy: Anh N. áy náy với tôi, tôi áy náy với gia đình bác sĩ H. Mãi gần đây, tình cờ đọc chuyện kể của ông Nam Sơn – một người quen của Sơn Nam – tôi mới bớt nặng lòng: “Mấy năm trước, có lần hay tin nhà văn Nguyễn Văn Sâm về nước, tôi có nhờ anh gởi ít tiền làm quà cho Sơn Nam. “Chả (Sơn Nam) nhận quà, lơ đãng nói chuyện khác, tuồng như không quan tâm”, Nguyễn Văn Sâm nói như vậy. “Ðó là cái kiểu Sơn Nam”, tôi trả lời Nguyễn Văn Sâm”.
Rất tiếc vì lý do kinh phí, kịch bản Bà chúa Hòn không được thực hiện. Nhưng nhờ nó tôi khám phá ra ở con người hắt hiu kia một tâm hồn đa cảm. Với tôi đó là một khám phá tinh khôi, dịu ngọt. Tôi cảm ơn Bà chúa Hòn, dù Lam hay Huôi, đã giúp tôi có cơ hội gần ông, ngộ ra con người làm bộ, làm như không để ý gì, không biết gì này hiểu hết mọi chuyện, rưng rưng hết mọi chuyện. Có lẽ vì vậy chăng mà cái kho kiến thức Nam bộ uyên bác, có vẻ như chỉ muốn lôi cuốn độc giả bằng chất quái lạ của ông luôn để lại những dư vang nhân bản. Tôi cảm ơn Bà chúa Hòn, dù Lam hay Huôi, đã giúp tôi hiểu Sơn Nam sôi động phù du chỉ là phần nổi của tảng băng, như hiểu đàng sau tiếng cười ha hả, xác nhận bị vợ đăng tivi tìm kiếm là nỗi cô đơn vô bờ bến. Nỗi cô đơn Sơn Nam.
Có chút duyên gì chăng khi mỗi năm tôi chỉ ở Việt Nam chừng hai tháng, nhưng trong hai tháng choi loi đó tôi đã có dịp tiễn ông lên cõi niết bàn. Mới đó mà đã hơn một năm. Mới đó mà đã 18 năm kể từ ngày hai bác cháu cùng đi chọn cảnh, mà dấu vết duy nhất còn lại là tấm ảnh này. Máy xấu, ảnh lem nhem nhưng vẫn thấy ba “nhân vật”: Hòn Phụ Tử đã rơi, Sơn Nam đã đi, chỉ còn lại con quỷ với tương tư bà Chúa...
Việt Linh

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Khổng Đức : KHÁI QUÁT NHỮNG TRƯỜNG PHÁI THI CA


Trường phái DaDa –
Từ Dada ( tình cờ tìm thấy trong từ điển, là trò chơi ngựa gỗ của trẻ con) do nhà thơ gốc Roumanie là Tristan Tzara đưa ra; từ phong trào chủ nghĩa hư vô (nihilisme) và khiêu khích ở Zurich (Suisse); nó công kích tất cả những giá trị nghệ thuật và luân lý. Ngoài Tzara ra còn có những họa sĩ như Francis Picabia, Marcel Du Champ, và Marx Ernest; những nhà thơ như Queneau, Michaux và Vian cũng chịu ảnh hưởng của phong trào. Những tín đồ của Dada tổ chức những khung cảnh khiêu khích như họ từng bày tỏ ở Paris. Trên khán đài người ta gỏ vào những chìa khóa, những thùng hộp để tạo thành âm nhạc ( Nguyễn Xuân Khoát bày ra môn gỏ nhịp là ảnh hưởng từ đây) đến khi quần chúng phản đối đồ điên.Khi đó Serner thay vì ngâm thơ thì đặt ngay một bó hoa bên chân một tượng gỗ trong tiệm may mặc.Có người đội cái mũ làm bằng bánh, đọc thơ, càng đọc càng rống to lên, trong khi đó Tzara vẫn tiếp tục đánh nhịp trên một cái thùng vĩ đại. Họ còn chế nhạo đủ thứ, cho đến thi nhân cũng không từ. Để làm một bài thơ theo phái Dada họ bày ra chuyện ;
Lấy một tờ báo Lấy một cái kéo
Chọn trong báo một bài nào có chiều dài dự tính cho bài thơ
Cắt bài báo ra
Cắt cẩn thận các từ tạo thành bài báo ấy
Và bỏ chúng vào một túi xách Hãy lắc nhẹ
Sau đó lấy ra từng từ đã cắt lúc nảy
Chép lại cẩn thận theo thứ tự khi những từ ấy lấy ra khỏi túi
Bài thơ thành hình như anh muốn
Như thế anh đã là một nhà thơ độc đáo khác phàm tục.
Ở VN Nguyễn Công Hoan cũng bắt chước trò chơi này làm thanh một truyện ngắn.
Cùng thời ấy, ở Paris những nhà thơ trẻ như Apollinaire, Cendrars nỗ lực tạo ra một hình thức thơ gọi là vô thức; người lãnh đao họ là André Breton. Năm 1919 Tzara có đến Paris trao đổi với họ về khuynh hướng Dada. Nhưng rồi vì chủ trương Dada không nghiêm túc nên đến năm 1921 thì Breton tách khỏi Tzara mà thành lập phái Siêu thực.

Trương phái siêu thực -
Nhóm Breton, Aragon, Soupault đứng ra thành lập phái Siêu thực
(Surréalisme), nó có ý hướng và mục đích rõ ràng, là chống lại chủ nghĩa hư vô của Dada, và nhắm vào việc muốn biến đổi thế giới. Cơ sở lý luận của họ là chủ thuyết trực giác của Bergson; và sinh mệnh xung động với tiềm thức của Freud. Siêu thực giải thích danh xưng của họ là vô thức hoạt động với tinh thần thuần túy, nó chỉ tiếp thu sự khải thị của tư tưởng, không để cho lý trí khống chế, cũng không tuân theo thứ mỹ học hay xu hướng đạo đức nào. Khẩu hiệu của họ là Tự do, Ái tình và Thi ca.
Gọi là tự do là không hề tiết chế, sử dụng tưởng tượng khiếp người. Gọi lá Ái tình , đối tượng của nó có thể là một người nữ nào đó, một thứ nghệ thuật nào, cũng có thể là các thứ hổn tạp, hoặc là đối tượng hư vô phiếu miễu. Và thi ca là diễn tả tự do, mà phương thức tốt nhất là tình yêu. Chủ trương sáng tác của trường phái siêu thực là “ viết lách vô ý thức”, giữa từ với từ, và câu với câu toàn trông vào sự “kết hợp ngẫu nhiên“. Nếu gieo ra một chữ không hợp ngữ vựng thì có thể tùy ý dùng mẫu tự nào đó thay thế, dù cho văn lý không thông, thực tại nó vẫn có giá trị, vì nó tuyệt đối phản ánh hoạt động tư tưởng của tác giả. Ngoài ra còn chủ trương ghi lại những ảo giác và mộng giác để trực tiếp biểu hiện sinh hoạt “ siêu thực”; phản ánh cá nhân và ngoại giới có sự liên hệ chân thực.
Siêu thực chủ nghĩa hình thành và xuất hiện là phản ánh tình hình xã hội sau đệ nhất thế chiến ở Âu châu; cuộc sống của thanh niên mang tâm trạng bàng hoàng bất an, họ chống lại nền văn minh hiện đại cho đó là thứ văn minh giết người. Phong trào Siêu thực sanh ra từ sự phản kháng đó. Phong trào mở rộng sang các ngành nghệ thuật khác như hội họa, chụp hình. Nhưng đến năm 1924 có bản tuyên ngôn ra đời cùng với tạp chí “La révolution surréaliste” thì chủ nghĩa siêu thực mới thực sự được công khai hóa. Tứ 1926 đến 1928 nhiều văn bản quan trọng ra đới chứng tỏ sinh lực và sự cấu kết chặc chẽ của nhóm. Đó là Nadja của Breton, Le paysan de Paris của Aragon, La liberté hay l’amour của Deonos, Capitale de la douleur của Eluard…Đến năm 1930 Breton lại đưa ra tuyên ngôn thứ hai và đổi tên tạp chí lại là Surréalisme au service de la revolution (Siêu thực phục vụ cho cách mạng) Sự kết hợp giữa siêu thực với cọng sản cũng chẳng được bao lâu. Trong khi Aragon tiếp tục tuân hành kỷ luật của Đảng thì Breton rút ra khỏi đảng năm 1933. Chủ nghĩa siêu thực lan rộng ra thành quốc tế hóa, nhiều nhóm siêu thực được thành lập ớ các nước. Nhưng cùng lùc phong trào mất tính năng động và tính cay độc của nó, và trở thành một cơ cấu văn hóa, Và sau đệ nhị thế chiến thì phong trao siêu thực nguội tắt vì có những phong trào mới lấn chiếm. Mãi đến năm 1968, là sau hai năm Breton (!966) qua đời, mới có đôi khẩu hiệu treo trên vách trường đại học muốn phục hồi chủ thuyết siêu thực.

Phái tượng trưng –
Đại biểu phái tượng trưng thời kỳ đầu là Mallarmé, Beaudelaire,Verlaine, Rimbaud. Chủ nghĩa tượng trưng là một phản ứng chống lại chủ nghĩa thiên nhiên, được coi như là quá gần gũi với thực tại. Tượng trưng trình bày một lối thoát mới của thi ca hướng về thế giới ý niệm, cũng có thể nói nó là sự trở về với chủ nghĩa lãng mạn. Thật ra nó khác biệt với lãng mạn; chủ nghĩa tượng trưng cho rằng con người không thể cảm thông với thiên nhiên, với tha nhân, và cả với Thượng Đế. Thế là với mọi cố gắng của giác quan, nó tìm cách vượt cái thực tại mà khám phá ra một thế giới chính xác hơn cái thế giới mà chúng ta đang sống. Sự tìm kiếm cái chân lý cao cà chỉ đến được khi người ta chân thành sùng bái cái đẹp, điều đó nó giải tỏa tính phàm tục và công cọng của nhà thơ. Sự tôn sùng cái đẹp thật ra đã có từ trước, đó là môn phái Parnasse với chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Parnasse là tên một ngọn núi ở Hy Lạp xưa, trong thời của Apollon, vị thần của sắc đẹp. Người ta chọn từ Parnasse là để chỉ rằng cái đẹp không thể nào đến được, muốn đến phải khó nhọc lắm. Nhưng với phái tượng trưng, nó chỉ là sự bảo vệ phòng ngự chống lại sự phô bày, một phương tiện giữ một khoảng cách liên hệ đến tình cảm, biểu hiện một lối đi thần bí hướng về một thế giới khác.một sự tìm kiếm. Đặc điểm chính của chủ nghĩa tượng trưng như sau :
1.- Nhà thơ tượng trưng có một quan niệm cấp thiết về thi ca, nó không phải là một trò giải trí mà là một sự tìm kiếm biểu hiện những cảm xúc thần bí của thế giới.
2.- Thi ca tượng trưng không phải là bản năng mà là trí tuệ. Đặc tính của trí tuệ có thể đi đến bí ẩn.
3.- Thơ tượng trưng tránh sự miêu tả. Để tôn kính vẻ thần bí, thi nhân không dùng những từ để giải thích mà chỉ khêu gợi ra. Những phù hiệu bảo đảm sự tương thông giữa thế giới hữu hình (visible) với thế giới vô hình (invisible).
4.- Trong sự tìm kiếm sự hài hòa vũ trụ mới thấy rằng âm nhạc của ngôn ngữ có một vị trí đặc biệt; nên nhấn mạnh vấn đề nhạc trong thơ.
Về sau đầu thế kỷ 20 thành ra phái Ý tượng, nhưng vẫn bị coi như là chi nhánh của tượng trưng, hay hậu kỳ tượng trưng. Trường phái nầy lại hưng thịnh vào khoảng thập niên 20 của thế kỷ 20. Ảnh hưởng lớn nhất là Eliot ở Anh Mỹ, bài thơ Hoang nguyên Wash-land ( terre désolée) dài 450 câu xuất hiện sau Đệ nhất thế chiến, dùng điển cố trong thần thoại tôn giáo để tượng trưng xã hội hiện thực.

Sau Đệ nhị thế chiến, ở Nhật lại mượn danh nghĩa bài thơ của Eliot lập thành một thi đàn chính thống từ 1947 đến 1955. Thành viên của họ là Điểm Xuyên Tín Phu, Điền Thôn Long Nhất, Bắc Thôn Thái Lang, Tam Hảo Phong Nhất Lang và Hắc Điền Tam Lang v..v…. Trong chiến tranh phần lớn bọn họ bị Quốc Quân chủ nghĩa xua ra chiến trường và áp bức đủ thứ, uất ức và tích lủy lắm nổi khổ sở đau thương. Do đó họ mượn thi ca bày tỏ những cảm khái ức tích trong phế phủ, dùng nhân sinh quan trong thời chiến cũng như những hoang phế trong trận chiến hình thành nhận thức hiện thực, nhận thức chính mình; chủ đề duy nhất của họ là cả một vùng hoang phế hiện đại. Họ đối với hiện thực từ bất an đến bất mãn, đối với cuộc sống tiến hành quan sát và suy tư, do không nhìn thấy được cảnh hiện thực trước mắt biến đổi, họ tiếp thu sự thống khổ và hy vọng của Eliot. Họ không tả sự xung động kịch liệt biểu hiện bên ngoài, cũng không hình dung cảnh dầu sôi lửa bỏng mà chỉ thể nghiệm tâm lý cộng đồng nghệ thuật có sức cảm nhiễm. Họ có những tác phẩm nổi tiếng như “ Nhật ký cứu hộ tàu bè” của Điềm Xuyên Tín Phu; “Nóng búc suốt 40 năm “ của Điền Thôn Long Nhất, “ Bài ca đêm tháng năm” của Tam Hảo Phong Nhất.
Đến năm 1952 - 1955 lại thành lập “ Liệt đảo phái” là thi phái chống Mỹ và tranh thủ dân tộc độc lập.

Phái kết cấu chủ nghĩa -
Khoảng thập niên 60 của thế kỷ 20 bắt đầu lưu hành một ngành lý luận vân nghệ thuộc chủ nghĩa kết cấu (structurisme). Chủ nghĩa này đối với thơ cách luật và tự do gia dĩ giải phẩu các điểm bất đồng. Thuyết minh thành công hai điểm bất đồng là tính hợp lý của thi thể hình thức tồn tại; trong thi cách luật ngôn ngữ của thơ khác với ngôn ngữ thực dụng hằng ngày. Kết cấu chủ nghĩa theo góc độ của ngôn ngữ học mà nghiên cứu hiện tượng này. Tác giả cách luật thì hướng lực chú ý của bản thân ngôn ngữ vào yếu tố hình thức, như âm vận, từ hối và cú pháp v..v… Khiến nó thoát ly hình thức tự nhiên, mà tiến nhập vào tiềt luật của thứ nhân tạo, làm cho sự linh hoạt của ngôn ngữ ấy biến đổi nhiều; về hình thức lại quy định quá gay gắt, đem so với ngôn ngữ thực dụng hằng ngày, hầu như biến thành một thứ trái lại ngôn ngữ thường dùng thành ra một thứ ngôn ngữ độc đặc lạ lùng . Thơ tự do lại dùng thứ ngôn ngữ của tản văn, thế mà vẫn thành thơ. Theo một khía cạnh khác của kết cấu, dùng tâm lý đọc mà giải thích. Khi dộc giả đọc thơ, chúng lại có một hình thức kỳ vọng hóa, dùng hình thức chia câu thơ viết xuống dòng; thế là đối với độc giả đọc thơ có thái độ tâm lý chỉ thị và đề tĩnh. Do đó mặc dù những câu tản văn không có thuyết minh thời gian, địa điểm, bối cảnh, v..v…độc giả cũng không thể coi như đang đọc văn xuôi, mà đâm ra nghi vấn. Họ biết rằng thời gian, địa điểm, nhân xưng v..v… trong thơ đều không chỉ rõ hoàn cảnh hiện thực, mà chỉ khiến cho độc giả tưởng tượng ra hoàn cảnh, hư cấu của thơ. Câu cú ngữ ngôn trong tản văn (văn xuôi) thì không thể không hoàn chỉnh; nhưng trong thơ thì lại tự hoàn chỉnh, lý giải thơ chung qui là giả định nó bao hàm ý nghĩa lớn trên mặt chữ nghĩa nên phải đào tìm ý đó ở ngoài ngôn từ.

Tân siêu thực ỏ Mỹ -
Vào thập niên 70 của thế kỷ 20, phái tân siêu thực trở thành trường phái chính trong phong trào thi ca ở Mỹ; đai biểu gồm có cá thi nhân : Brey , Simpson, Merwen, (?) , v..v…. Bọn họ kế thừa chủ nghĩa Siêu thực của Pháp do Breton chủ trương, hấp thu tư trào triết học tồn tại chủ nghĩa (hay cũng gọi là hiện sinh ) và Phân tâm học của Freud. Phái này theo thuyết phi lý tính, khía cạnh siêu thực, phê bình xã hội, cho rằng chân lý của thi ca là trở về với bản tính. Thi ca cần phải dựa vào bản năng, miêu tả cái gọi là cá nhân siêu thực, và những ý tượng chôn dấu nơi vô thức. Lược đổ biểu diễn của nó là ít trở về với lý tính mà hướng nhiều về bản năng “xưa cũ”, cái nguyện vọng của tự ngã, né tránh cái thế giới hiện đại làm cho con người mờ mịt, không biết đến sự hổn loạn, động đảng, càng tiến sâu vào các tầng lớp để khỏi bị cái tình tự tôn giáo xâm phạm và khôi phục “sự vô tử” và “tín ngưỡng”.Thi phong của trường phái này là mang yếu tố chất phác, dùng ngôn ngữ sáng tạo của khẩu ngữ hóa, câu cú không còn là khó hiểu, nhưng những ý tượng mà họ vận dụng cũng rất khó, đó là vì họ dùng ý tưởng ở tầng sâu, nó xuất phát từ tiềm thức mà chưa trải qua sự gia công, nó là tỉ dụ nguyên thủy, chủ yếu là sử dụng những liên tưởng phi lý tính. ám thị của logic, dùng hình thức mật mã ngôn ngữ nên hóa ra thần bí. Ngay trong ngôn từ dùng họ cũng vứt bỏ những từ có ý giàu sang, nhắm vào sự siêu thoát trần thế là nguyện vọng, và thuyết minh nỗi đau khổ sâu sắc của thi nhân. Trước mắt thi phái siêu thực đang chiếm cứ một địa vị quan trọng trên thi đàn ở Mỹ.

Khổng Đức
(Tháng 1-2010 )

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2010

XUÂN NGỘ

Sáng nay ngày mới bắt đầu
Những êm ái đợi dãi dầu phù hoa
Những mùa lợp tuyết xuân xa
Nẻo ngần ấy đã đi qua một thời
Không im lặng không nói lời
Từ em tiếng hát giữa trời sao băng
Sáng nay ngày mới đi ngang
Bóng người ngàn dặm thoắt vần vũ bên
Vầy vui xuân cuộc tình mình
Tuổi người dừng lại trước linh lung đời
Sáng nay ngày nở nụ cười
Chào em cây lá hát lời tình ca

TỪ HOÀI TẤN