Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Giới thiệu tập thơ "mây trong những giấc mơ" của Lữ Quỳnh

 
MÂY TRONG NHỮNG GIẤC MƠ
Tập thơ 
LỮ QUỲNH
Va9n Mới xuất bản 2015

Tranh Bìa : ĐINH CƯỜNG
Phụ bản: ĐINH CƯỜNG, LÊ KÝ THƯƠNG, NGUYỄN TRỌNG KHÔI
Thiết kế bìa : PHẠM CAO HOÀNG
Dàn trang : LÊ GIANG TRẦN

110 trang, 36 bài thơ kèm ký họa của LÊ KÝ THƯƠNG
Các bài viết của MINH NIỆM, ĐINH CƯỜNG, NGUYỄN LƯƠNG VỴ

Cám ơn bạn Lữ Quỳnh gởi tặng và 
Trân trọng giới thiệu với bạn đọc
Liên lạc tác giả: email: songsuongmu@yahoo.com

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Giới thiệu tập tiểu luận triết học của Võ Công Liêm

Mới gia nhập văn đàn trên dưới 15 năm, nhưng tác giả Võ Công Liêm đã có một sức viết đáng kinh ngạc. Viết đủ mọi thể loại thơ văn truyện ngắn tạp văn và cả hội họa. Người ta nhận thấy nơi anh sự chân thành của một người muốn đến với văn học bằng nỗ lực học hỏi của bản thân, bằng nhiệt tình không vụ lợi của một người viết muốn trải hết lòng mình. Có lẽ đối với các độc giả khó tính hay với các nhà phê bình văn học, các tác phẩm của Võ Công Liêm chưa đạt thành, nói cách khác chỉ là những bước thử nghiệm ban đầu. Nhưng tôi cho rằng sự " ham đọc, hiếu học, ưa suy nghĩ " và viết được như vậy cũng là điều đáng trân trọng.

Thang11 này, NXB Hội Nhà Văn xuất bản cho anh 1 tác phẩm, xin được giới thiệu sau đây: 


Tác phẩm các những bài viết ngắn diễn đạt cái sự hiểu của tác giả về các trường phái triết học Tây phương cận đại như hiện sinh, phân tâm học, .. những tư tưởng nổi danh của các triết gia như Sartre, Camus, Nietzsche, Descartes, Heidegger, Jaspers ...và nhìn tác phẩm Truyện Kiều qua lăng kính hiện sinh.

Và như tác giả đã viết trong lời tựa đầu sách : " ...Tôi không nói một điều gì trong tập tiểu luận này mà chỉ là người viết lên những dữ kiện triết học mà thôi. Ở đây viết bằng sự học hỏi đã qua, bằng một mở mang, thu thập trong một tư duy triết học. Và, từ đó nảy sinh những gì nảy sinh trong lãnh vực triết học mà tôi đã theo đuổi những năm sau cùng như một hoài bảo với mong muốn được tiếp thu " ... (trang 4 & 5)

Năm nay tác giả đã ngoài 70 tuổi, tuổi xưa nay hiếm, tôi cho rằng hoạt động trí tuệ này là điều đáng quý nhất là với những vấn đề của tư duy triết học
Xin giới thiệu cùng bạn đọc và xin hãy mở lòng cùng với tác giả như là một sự ủng hộ.
Tác phẩm cũng rất có ích đối với các bạn trẻ bước đầu tìm hiểu thế giới triết học đương đại , vẫn còn giá trị và đang xảy ra.

THT
(tháng 11-2015)

Giới thiệu Sách: 
- TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC - Tiểu luận Võ Công Liêm - NXB Hội Nhà Văn Việt Nam, 252 trang, gồm 23 bài viết hầu hết đã được đăng trên các diễn đàn mạng trong và ngoài nước.
- Tranh Bìa và trình bày Võ Công Liêm và Văn Hồ
- Phát hành tại Việt Nam tháng 11 năm 2015

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
- Thơ Võ Công Liêm, Tác giả xuất bản 2008
- Tạp văn Võ Công Liêm , NXB Hội Nhà Văn 2010
- Tranh Vẽ Võ Công Liêm, NXB Hội Nhà Văn 2013
- Truyện ngắn và tùy bút Võ Công Liêm, NXB Hội Nhà Văn 2015
- Tư tưởng triết học, tiểu luận Võ Công Liêm, NXB Hội Nhà Văn 2015



-

Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Dân Sài Gòn còn chơi "mút mùa Lệ Thủy"?

TTO - Có bạn cho rằng "mút mùa Lệ Thủy" (na ná "chơi tới" hiện nay0 do nghệ sĩ cải lương Lệ Thủy nổi tiếng trước và sau 1975 có hơi rất dài, ca một câu dài "mút chỉ đường tàu", "mút chỉ cà tha" (ý nghĩa tương đương). 
Đường Hàm Nghi, Sài Gòn khoảng cuối thập niên 60 thế kỷ trước. Trong ảnh vẫn còn đường rầy xe lửa và đa số khách bộ hành đi trong đường đinh khi qua đường - Ảnh tư liệu
"Hết sẩy" (rất tuyệt vời) - nhiều bạn đọc thốt lên khi đọc bài "Người Sài Gòn giờ không thấy xài mấy tiếng lóng này nữa". Và thú vị hơn khi nhiều bạn kể ra hàng loạt tiếng lóng Sài Gòn xưa chưa "đi vùng 5" (chết).
Theo bạn đọc, Dominic On, trước năm 1975, chính quyền VN cộng hòa ở miền Nam chia các khu hành chính quân sự thành 4 vùng chiến thuật, không có vùng 5 nên "đi vùng 5" ám chỉ "đi về miền cực lạc" (chết).
Tiếng lóng này, cũng theo Dominic On, tương đương với từ "ngủm củ tỏi", "đi bán muối" cũng nói một người đã chết, như cá bị ướp muối (!).
"Hôm kia, ông nhạc gia của người bạn tới Mỹ. Khi hàn huyên, tôi nghe ông nói mấy từ "Tây hạ thành", thực tình không hiểu nhưng không dám hỏi. Hôm nay, đang đi tìm nghĩa của mấy từ này thì lại gặp ở đây. Xin cảm ơn. Những bài báo như vầy rất quý đối với tôi".                           
TTruong
 
Tuy nhiên, bạn Thanh Minh giải thích do làm muối là diêm dân, đồng âm với "Diêm vương" (người quản lý cõi âm) nên bán muối là đi gặp Diêm vương.
Bạn hongan60 lại cho rằng: Trước năm 1945, thực dân Pháp độc quyền buôn bán muối nên nếu ai vi phạm luật cấm đó sẽ bị xử tử, là "đi bán muối". Bạn suongmai lại bảo do nhiều người đi bán muối xa không về...
Ai đúng ai sai chưa rõ nhưng chắc chắn tiếng lóng này giờ vẫn còn không ít bạn trẻ Sài Gòn "vẫn xài tốt".
Thế là một loạt tiếng lóng Sài Gòn xưa nửa thế kỷ đã được kể ra, như có bạn giải thích "mút mùa Lệ Thủy" như "chơi tới" hiện nay do nghệ sĩ cải lương Lệ Thủy nổi tiếng trước và sau 1975 có hơi rất dài (mà soạn giả Viễn Châu bảo "được báo giới Sài Gòn trước đây phong tặng là giọng ca chuông ngân"), ca một câu dài "mút chỉ đường tàu" (ý nghĩa tương đương) nên mới nói "mút mùa Lệ Thủy" ám chỉ quãng thời gian, quãng đường...  mút cuộn chỉ (ví dụ: "chơi... mút mùa Lệ Thủy" để chỉ những chuyện diễn ra rất dài, dài tới tới...).
Nghệ sĩ Lệ Thủy thời son trẻ - Ảnh tư liệu  

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Nhà thơ DƯƠNG KIỀN qua đời

Qua FB của Nguyễn Trọng Khôi:


TIN BUỒN
Được chị Truong Kim Anh cho biết, phu quân chị: 
nhà văn, nhà thơ, luật sư DƯƠNG KIỀN
đã qua đời lúc 10:55 ngày 17 tháng 11 năm 2015 tại Na Uy.
Chúng tôi xin chân thành chia buồn cùng chị Trương Kim Anh và gia đình. Nguyện xin hương hồn anh Dương Kiền sớm nghỉ yên trên cõi vô cùng.

 

phan kim thịnh - nguyễn miên thảo - viêm tịnh - từ hoài tấn - nguyễn văn trai -phạmchu sa - phù hư - rừng -  lê ký thương - lê thánh thư - nguyễn tịnh đông - hạ đình thao - trần dzạ lữ -và thân hữu tại Việt Nam


Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

Nhà nghiên cứu Cao Huy Vĩnh: “Thiếu tác phẩm đỉnh cao, công chúng mất phương hướng”

(LĐCT) - Số 46 NHẬT LỆ (thực hiện)
Nhà nghiên cứu Cao Huy Vĩnh
 Không thoát ra khỏi “vòng kim cô” của chủ nghĩa lý lịch, sau giải phóng, nhà báo, nhà nghiên cứu Cao Huy Vĩnh long đong, lận đận trên con đường làm nghề. Nhưng ông nhanh chóng thoát ra khỏi hoàn cảnh, tự mình tìm ra cái mới để chơi. Thú chơi của một người nghiên cứu văn, triết, Hán nôm lại bắt đầu từ những chuyện mà chẳng ai nhìn thấy. Thoạt đầu, ông nổi tiếng với những bài tiểu luận phê bình trước năm 1975 về văn học cổ điển, sau đó là công trình “Văn học sử 20 năm miền Nam”, một công trình có giá trị mà rất tiếc, đến bây giờ bản thảo thất lạc khá nhiều.

Sau giải phóng, nhiều trí thức chế độ cũ khác, ông lên nông trường sản xuất, tham gia các khóa học sinh ngữ để chờ tái bổ nhiệm dạy học. Tuy nhiên, nghề báo đã chọn ông, từ thuở ông mở sạp bán báo phụ vợ. Từ mô hình sạp báo, ông đã biến nó thành mô hình tờ Tin nhanh World Cup Italia 1990 được Việt hóa hấp dẫn và cùng với nhà báo Tường Vy, cùng cả êkíp Báo Tuổi Trẻ đạt được thành công rực rỡ. Một thời gian dài, ông viết và biên dịch cho Báo Lao Động ở chuyên mục thể thao. Một con người tài cao, học rộng nhưng lại rất khiêm nhường.
Mới đây nhất, ông lại xuất bản trên mạng tập “Hồ sơ hậu chiến”, nói về số phận kỳ lạ của 7.000 người từng trải qua cuộc chiến ở cả hai phía, thu hút sự quan tâm của độc giả.

Vì sao có một thời gian viết báo hết công suất mà ông vẫn có thể làm được tuyển tập Guinness Việt Nam - điều mà trước đó chưa ai làm?
- Guinness Việt Nam bắt đầu hình thành trong đầu tôi là nhờ cái sạp báo. Hồi đó, tôi giữ một chân ở Báo Giác Ngộ, nhưng tờ báo mỗi tháng ra một lần, không đủ sống, đành phải bán báo thêm phụ vợ. Mỗi lần báo bán ế, tôi ngồi đọc cả đống báo, thấy có nhiều thông tin hay, liền bật ra, a mình làm cái này chơi. Thế là ra đời Guinness Việt Nam. Ra được 2 tập, trong năm 1990 và 2000, do NXB Trẻ ấn hành. Sau này, người ta bắt đầu làm nhiều, thấy quá nhàm nên thôi không ra tập tiếp nữa.

Lúc làm Guinness, ông nghĩ đến những giá trị nhất thời hay còn cả về sau?
- Đúng là Guinness có những giá trị của nó. Tôi chỉ lấy thông tin trên báo chí, chứ nếu muốn hay, phải đến tận nơi, gặp gỡ nhân vật, chụp hình, phỏng vấn… thì sẽ có nhiều điều thú vị. Nhưng thời đó điều kiện chỉ có thế. Người ta thích vì nó lạ. Tại thời điểm đó, các kỷ lục về thể thao được người ta chú ý đến rất nhiều. Càng về sau, mới mở rộng ra nhiều kỷ lục khác. Mở ngoặc một chút, thời những năm 1980, chuyện tường thuật thể thao hầu như không hề có trên đài truyền hình, phát thanh. Nhờ có vốn sinh ngữ, tôi nghe đài nước ngoài, sau đó ghi lên bảng dựng ở sạp báo, có lời bình cho hấp dẫn, và ghi tên cầu thủ ghi bàn. Tôi chủ trương đã làm thì phải làm cái mới, cái chưa ai làm thì mới đột phá được. Nếu đi theo cái cũ thì khó ăn lắm. Khi chưa ai làm Guinness thì mình làm, còn khi quá đông người nhảy vô thì nghĩ cái khác mà chơi.

Sau Guinness, ông còn làm tuyển tập “1.000 nhà thơ Huế đương thời”, gây ấn tượng cho độc giả?
- Đó là cách tri ân Huế, coi như món quà cho quê hương. Nhờ sự cộng tác với các bạn tôi mới hoàn tất 3 tập. Không phân biệt chức tước hay già trẻ, chỉ cần bài thơ đạt tiêu chuẩn hay theo ý mình. Tôi tự bỏ tiền ra in, hòa vốn là mừng. Hồi đó, in thơ là liều lắm, không NXB nào dám bỏ vốn ra in đâu vì sợ lỗ là cái chắc.
Trong cuốn “Văn học Việt Nam - tổng quan” in tại Mỹ năm 1987, nhà văn Võ Phiến (1925 - 2015) cho rằng, “thời kỳ 1954 - 1975 (ở miền Nam - BT chú thích), gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt 20 năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp”. Võ Phiến nhiều lần nhắc đến tên ông trong cuốn sách một cách trân trọng và có cả tiếc nuối: “Ông Cao Huy Khanh (tức Cao Huy Vĩnh. BT chú thích) có nghiên cứu về bộ môn tiểu thuyết cùng các tiểu thuyết gia trong thời kỳ này, nhưng sách chưa kịp phát hành thì miền Nam sụp đổ”. Thời ấy, tiểu thuyết ở miền Nam có nhiều thành tựu, Võ Phiến đã trích dẫn sự nhìn nhận của Cao Huy Khanh là “tiểu thuyết chúng ta có quá nhiều sắc thái, nhiều tính chất, nhiều đặc điểm khác biệt”. Võ Phiến còn kết luận rằng, “Biên khảo về tiểu thuyết miền Nam Việt Nam sau 1954 thì hình như chỉ mới có Cao Huy Khanh”…

Không chỉ viết báo chuyên về thể thao, văn hóa, ông còn là nhà phê bình với nhiều bài tiểu luận gây tiếng vang trước 1975. Ông có thể cho biết về các nhân vật mà ông từng nghiên cứu?
- Công trình trước năm 1975 mà tôi thực hiện là một số bài tiểu luận, phê bình gây được tiếng vang vì ít nhiều có cái lạ. Hồi đó, tôi sử dụng phương pháp hiện đại, áp dụng phân tâm học, phê bình kiểu hiện sinh về phân tâm học. Phương pháp đó khá mới thời đó. Tôi viết về Hồ Dzếnh, Bùi Giáng, Tế Hanh… Theo quan điểm của tôi, khi viết bài phê bình, tôi chỉ lấy tác giả đó làm cái cớ thôi, để đưa cái chủ quan của mình vào. Nên nó không phải phê bình lý luận khoa học bình thường, mà giống như một dạng cảm xúc phối hợp tác phẩm nên mới dễ đọc.
Bùi Giáng thì tôi không đánh giá cao ở tài thơ, mà con người ông mới lạ, mới đáng phục. Là người nửa tỉnh, nửa mê nhưng thực chất ông không điên. Còn sự nghiệp thơ văn của ông chủ yếu là lục bát, nhưng ông có thế mạnh là sức viết rất khỏe - có cả chục ngàn bài. Điều này trong lịch sử văn học VN chỉ có hai người đạt được thôi, là Tản Đà và ông. Còn về dịch, ông dịch nhiều cuốn giá trị, nhưng chủ yếu vẫn thêm vào sáng tác của mình, như một kiểu dịch phóng tác.
Bài viết “Chân trời cũ” nói về bài thơ “Chiều” của Hồ Dzếnh, có lối viết vừa nghiêm túc, vừa tưng tửng. Hay “Mái hiên người” viết về bài thơ “Trên sân ga” của Tế Hanh. Ở Huế, tiếng còi tàu kinh hoàng lắm, cả trăm năm nó vẫn như vậy. Mượn cớ bài Tế Hanh để viết ra những ý nghĩ, suy tư của mình.

Thế còn công trình “20 năm Văn học sử miền Nam từ 1954 - 1974”?
- Mới làm được một phần ba thì đất nước thống nhất, nên thôi luôn. Tôi làm văn học sử theo quan niệm truyền thống, dùng lịch sử, thời đại, tiểu sử tác giả để phân tích, chia làm các giai đoạn, cột mốc… Tuy nhiên, dự án vừa mới đăng vài ba số thì bị ngưng...

Theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn, bây giờ nhìn nhận lại, thời đó, văn học miền Nam đã có những thành tựu nhất định, có thể nói là phát triển lên đỉnh, với nhiều tác giả lớn, có ảnh hưởng đến văn học về sau. Quan điểm của ông ra sao?
- Văn học sử thời đó chia ra làm 3 giai đoạn. Thời gian đầu, dựa vào nhóm nhà văn từ Bắc di cư vào Nam, cụ thể là nhóm Sáng tạo. Nhóm này gồm Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền… Trong đó, nổi bật nhất là Thanh Tâm Tuyền, một người rất đứng đắn, có trình độ. Ông nổi bật với thơ tự do “Mặt trời cô đơn”, và văn thì có cuốn “Bếp lửa”. Trong Nam, phát triển sau hơn một chút là nhóm “Bách Khoa”, tức nhóm làm bán nguyệt san Bách Khoa, đứng đầu là ông Võ Phiến, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Ngu I, Võ Hồng, Lê Tất Điều... Võ Phiến là chuyên gia truyện ngắn, phân tích tâm lý rất hay. Lớp văn trẻ sau này có Y Uyên viết về chiến tranh cũng rất đặc sắc, nhưng bị chết trận. Nhóm Văn nghệ xuất hiện sau khi nhóm Sáng tạo tan rã, có Viên Linh, Du Tử Lê… Ngoài ra có những nhà văn nữ có cá tính như Nhã Ca, Thụy Vũ, Túy Hồng…

Ông đánh giá thế nào về sự ảnh hưởng của các nhà văn thời đó đến thế hệ sau? Bản thân nhiều nhà phê bình cho rằng, thời đó, mặc dù cũng bị kiểm duyệt, nhưng các nhà văn miền Nam vẫn có những tác phẩm đỉnh cao?
- Trong lịch sử có một chân lý kỳ cục, từ thời Roma cho đến bây giờ, là những người đi chinh phục, sau khi chiến thắng thì lại bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa của những kẻ bị chinh phục. Người đi chinh phục thường mạnh về quân sự, nhưng họ không thể mạnh về văn hóa.

Có người nói báo chí, xuất bản miền Nam hồi đó rất phát triển, liên tục cập nhật các trường phái, trào lưu trên thế giới. Ông có thể cho biết nguyên nhân tại sao?
- Báo chí miền Nam thời trước ít được tổ chức đàng hoàng, mà hầu hết chụp giật, chỉ gói gọn vài người viết bài, chụp ảnh, chứ không nhiều ban bệ như báo chí thời bây giờ. Sở dĩ, xuất bản thời đó phát triển, là bởi cũng nhờ cơ chế tự do, không bị o ép. NXB hay nhà văn cá nhân vốn thiên biến vạn hóa. Cứ để người ta tự do, nếu có những sai phạm thì sẽ bị cơ quan chức năng xử lý, còn không, thì để họ tự xoay xở, sống còn. Muốn vậy, các NXB phải tự thân vận động, tìm những tác phẩm hay nhất, mới nhất về dịch. Vì thế mà thời đó, các trào lưu văn chương thế giới đều được cập nhật khá sát sao.
Còn nói về dân trí, thời đó, đội ngũ trí thức đông hơn, văn hóa đọc cũng phát triển. Từng làm nghề giáo qua hai chế độ, tôi thấy thời đó có những thầy cực giỏi, mà có những thầy cực dốt. Còn ngược lại, giờ không có thầy dốt, nhưng thầy giỏi cũng không có.

Theo ông, do đâu mà thời nay, phê bình văn học không phát triển?
- Phê bình bây giờ không phát triển là do công chúng không còn chú ý đến văn chương nhiều nữa. Thứ hai, không dễ phê bình, phải có học thuật, có trình độ, mà nhất là muốn phê bình văn học VN phải hội đủ hai yếu tố, phải có kiến thức về văn chương Việt Nam, và cả phương pháp Đông Tây hội tụ. Điều đó không đơn giản. Người ta thườngchỉ giỏi một trong hai thứ đó thôi. Những người Tây học thì viết không ai hiểu. Những người không biết tiếng Tây thì là ông đồ gàn. Thứ ba nữa là có cả yếu tố chính trị.

Phải chăng, văn học thời kỳ nào cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam, nhắc đến nó phải vẽ nên những nét tổng thể của bức tranh hoàn chỉnh, cũng như không thể thiếu văn học miền Nam trước ngày thống nhất hay văn học hải ngoại đương đại…
- Thực ra, những thành tựu chính đạt được tính ra ở văn học miền Nam, còn văn học hải ngoại thì theo tôi nghĩ, văn nghệ sĩ mà xa rời cái gốc của mình thì viết khó mà hay được nữa. Điểm khác biệt giữa nhà văn ở hai miền chính là ở chỗ lòng yêu nước thể hiện qua thái độ và tư tưởng hành động khác nhau. Trải qua 20 năm đổ xương máu giành độc lập, bao nhiêu thù hận, bao nhiêu đổ vỡ, đến bây giờ người ta mới tạm nguôi ngoai, mới nói đến hòa hợp dân tộc.

Bao nhiêu năm viết về văn hóa văn nghệ, thể thao, ông có nhận xét gì khi thời nay, rác văn hóa tràn ngập, trong khi chẳng có ai buồn dọn dẹp hay ra tay để làm sạch môi trường văn học nghệ thuật?
- Quan trọng nhất là sự tự do, để người hành nghề tự định đoạt, xoay xở, đừng kèm cặp, chỉ đạo nhiều quá. Trình độ văn hóa bây giờ đi xuống, vì ngay cả những tác phẩm chân chính cũng không có nhiều, không định hướng được khán giả, buông lỏng về mặt quản lý. Văn hóa nghệ thuật xuống cấp, lại thực dụng nữa, chính vì thế mà xã hội không có được tác phẩm đỉnh cao, công chúng mất phương hướng thì nhảy từ cái này qua cái kia… là điều dễ hiểu.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn : laodong.com.vn

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015

Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung ở Huế


Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã bỏ ra 30 năm để đi tìm những dấu vết cung điện Đan Dương - nơi được cho là lăng vua Quang Trung. Ảnh: Đ.K

Đã rất nhiều năm qua, việc tìm kiếm lăng mộ hoàng đế Quang Trung vẫn là vấn đề trăn trở và nhiêu khê của giới sử học ở Huế. Đại để là có 2 địa điểm được giới nghiên cứu mổ xẻ, tranh cãi nảy lửa là: Lăng Ba Vành và cung điện Đan Dương.

Kỳ 1: Bí ẩn cung điện Đan Dương thời Tây Sơn
Đâu là nơi vua Quang Trung được chôn cất?
Với ý tưởng “sống cái nhà, già cái mồ”, người dân Việt ước mong làm sao tìm cho được dấu tích lăng mộ vua Quang Trung để hằng năm thắp cho ông một nén hương. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã bỏ ra trên 30 năm để trả lời câu hỏi có hay không cung điện Đan Dương thời Tây Sơn ở Huế. Ông Xuân đã lý giải rất công phu trong các công trình được in thành sách dày hàng trăm trang.
Theo nghiên cứu của ông Xuân và những cứ liệu lịch sử, thời chúa Nguyễn mặc dù xây dựng thủ phủ của xứ Đàng trong ở Kim Long (dưới chân chùa Thiên Mụ ), nhưng do bất tiện là hằng năm bị lụt lội nên vào năm 1680, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) cho xây dựng một hành cung ở địa điểm kín gió, cao ráo ở trên gò Dương Xuân bên bờ nam sông Hương. Hành cung được đặt tên là phủ Dương Xuân.
Qua thời gian, phủ Dương Xuân không ngừng được trùng tu, mở rộng. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) sùng đạo Phật nên cho lập thêm một ngôi chùa nhỏ ở gần phủ, về sau mang tên chùa Thiền Lâm. Hòa thượng Thích Đại Sán từ Trung Quốc được chúa mời sang hoằng dương đạo Phật và trú tại chùa Thiền Lâm. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Hoạt (1738 - 1765), phủ Dương Xuân được nâng cấp thành một cung phủ nguy nga tráng lệ.
Vào mùa đông năm 1749, Chúa tiếp nhà buôn Pháp nổi tiếng Pierre Poivre tại đây. Đây cũng là lần đầu tiên một cung phủ của chúa Nguyễn được ghi chép, mô tả tỉ mỉ trong kỉ hành của một người phương Tây. Năm 1774, Thuận Hóa - Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777) lọt vào tay quân Trịnh. Nhiều cung phủ hai bên bờ sông Hương bị phá dỡ lấy gỗ làm củi đốt. Riêng phủ Dương Xuân không bị phá vì là nơi đồn trú của quan quân chúa Trịnh.
Năm 1786, Nguyễn Huệ từ thúc quân Tây Sơn ra giải phóng Phú Xuân và lên lập hành dinh ở phủ Dương Xuân. Sau cuộc “phù Lê - diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ dẫn quân trở về Phú Xuân mang theo nhiều vàng bạc châu báu và công chúa Lê Ngọc Hân. Để cất giữ của cải, Nguyễn Huệ cho xây quanh phủ Dương Xuân một bức thành cao trên 6m. Ông ở trong phủ với bà vợ chính họ Phạm, còn công chúa Ngọc Hân trú ở chùa Kim Tiên. Nguyễn Huệ cho đại trùng tu Phủ Dương Xuân.
Đến cuối năm 1788, ông lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung, công chúa Ngọc Hân được phong Bắc cung Hoàng hậu, phủ Dương Xuân được xây dựng lại và được đặt tên là cung điện Đan Dương. Vua Quang Trung ngã bệnh và mất vào ngày 29.7.1792. Để giữ kín sự kiện này với những lực lượng thù địch, triều Quang Toản (vua Cảnh Thịnh, 1792 - 1795) đã quyết định bí mật táng vua Quang Trung ngay trong khuôn viên cung điện Đan Dương. Từ đó, cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương của vua Quang Trung.
Clip: Các nhà nghiên cứu đi khảo sát thực địa nơi ông Nguyễn Đắc Xuân nhận định đã từng tồn tại cung điện Đan Dương


Vì sao cung điện Đan Dương bị xóa sổ?
Sau những biến cố lịch sử, những bí mật chung quanh lăng Đan Dương không còn được giữ nữa. Năm 1799, Hoàng hậu Lê Ngọc Hân qua đời và được an táng cạnh lăng Đan Dương theo nguyện vọng của bà. Nhưng sau đó, bà được bí mật đưa về chôn cất ở làng Nành (Bắc Ninh) dưới danh nghĩa là một người bình dân. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, sau 24 năm nằm gai nếm mật chống Tây Sơn, khi Nguyễn Ánh trở về lại Phú Xuân, ông đã trả thù nhà Tây Sơn một cách nghiệt ngã.
Sách Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, Đệ nhất kỉ cho biết: “Tháng 11 Tân Dậu, hủy Tây Sơn tặc Nguyễn Văn Huệ mộ, trác quan lục thi kiêu kì thủ vu thị” (dịch là phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng (hòm), phơi thây, bêu đầu ở chợ). Lăng mộ vua Quang Trung đã bị hủy, nhưng lăng mộ đó ở đâu thì không thấy ghi lại trong Thực Lục. Phải đợi đến hơn 50 năm sau (1852), Nguyễn Trọng Hợp và các sử thần viết bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập) có hé lộ thông tin lăng mộ vua Quang Trung được táng ở bờ Nam sông Hương.
Trong Đại Nam Liệt Truyện (sơ tập), viết về triều Tây Sơn có ghi lại rằng, việc lãnh tụ phong trào này đã bị trả thù thế nào và tóm lược những việc mà vua Gia Long đã “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn. Cùng với đó, những con người liên quan đến triều Tây Sơn đều bị giết, lăng mộ bị quật phá đổ bỏ và cái tên quê hương Tây Sơn cũng bị đổi thành An Tây…
Như đã nói ở trên, mặc dù nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tìm thấy những cứ liệu về sự tồn tại của một cung điện Đang Dương - nơi được cho là lăng mộ vua Quang Trung, nhưng do nó đã bị đập phá, vết tích không còn nữa nên việc xác định địa điểm của cung điện này vẫn là một bí ẩn. Mới đây, Sở VHTTDL tỉnh Thừa Thiên - Huế, Hội Khoa học lịch sử tỉnh đứng ra tổ chức hội thảo để nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trưng ra những gì mình có được về sau mấy mươi năm đi tìm vết tích cung điện Đan Dương trên thực địa. Và cũng như những cuộc hội thảo đã diễn ra trước đó, lần này những tranh cãi gay gắt giữa các nhà nghiên cứu - những người nặng nỗi niềm với một bí ẩn của lịch sử VN - lại nổ ra. (Báo LĐ&ĐS sẽ thông tin vào kỳ tiếp theo).
Lăng Ba Vành là lăng vua Quang Trung?
Cũng là một người đã nhiều năm bỏ công đi tìm lăng mộ vua Quang Trung, ông Trần Viết Điền - thầy giáo dạy Vật lý ở Huế - khẳng định, lăng Ba Vành ở đồi Thiên An (phía Tây TP.Huế ) thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế chính là lăng mộ vua Quang Trung. Nguyên nhân: Lăng Ba Vành được cho là lăng Đức ý hầu Lê Quang Đại - một vị quan dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nhưng ông Điền đã đưa ra rất nhiều chứng cứ quan trọng để chứng minh rằng, lăng Ba Vành không phải là lăng mộ của vị quan họ Lê mà chính là lăng mộ vua Quang Trung.

Ông tìm đến khảo cổ học và đã chứng minh gạch xây lăng Ba Vành chính là gạch thời Tây Sơn. Tìm đến phong thuỷ để chứng minh đất lăng Ba Vành chính là một cát địa chỉ dành riêng cho đế vương. Sử dụng kinh dịch và nhiều cứ liệu lịch sử để chứng minh từ cổng tam quan, tân nguyệt trì (ao trăng non trước lăng), 9 con rồng... ở lăng Ba Vành là lăng một hoàng đế. Tuy nhiên, cho đến nay, các luận chứng chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua Quang Trung của ông Điền chưa được công nhận.

Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2015

Người Sài Gòn giờ không thấy xài mấy tiếng lóng này nữa

TTO - Tiếng lóng là ngôn ngữ “phi chuẩn mực”, thường bị chê là cách nói không đàng hoàng, lộn xộn, khó nghe và khó hiểu. 

Những chiếc xe cyclo máy một thời là phương tiện phổ biến ở Sài Gòn giờ đã biến mất - Ảnh: LIFE
​Con cái mà nói tiếng lóng là bị cha mẹ la rầy, nhân viên mà văng những từ lóng khó hiểu là sếp không ưa, đi đến nhà người yêu mà nói tiếng lóng là bị mất điểm trong mắt ông bà nhạc tương lai.
Tuy vậy, người ta vẫn thích nói từ lóng, trước hết để tránh đề cập đến những chuyện không tiện nói huỵch toẹt, hai là để người thứ ba không chú ý, để câu chuyện đỡ nghiêm trọng, để cho vui, vân vân.
Thời nào có tiếng lóng của thời đó. Cách nay hơn nửa thế kỷ, Sài Gòn thêm nhiều người từ miền Bắc vào sống chung. Rồi lai rai người khắp các nơi, từ các tỉnh miền Trung cho đến Tây Nam bộ đến chia sẻ cái nắng cái gió Sài Gòn. Người đông, vốn từ ngữ trao đổi với nhau ngày càng phong phú.
Cuộc sống thay đổi với thời gian, nhiều từ lóng lúc đó thịnh hành, bây giờ hầu như không nghe ai nói nữa. Giới trẻ hôm nay nếu nghe lại có lẽ không biết nói gì.
Những bác  tài xế cyclo máy Sài Gòn xưa trên đường phố Sài gòn trước 1975  - Ảnh tư liệu
Xin tạm nêu ra vài từ:
Dầu cù là: bản thân dầu cù là không thể là tiếng lóng, nhưng ở đây có nghĩa là “Đảng Cần Lao”. Từ này xuất hiện cuối thập niên 1950, đầu 1960. Đó là khoảng thời gian cầm quyền ở miền Nam của chánh quyền Ngô Đình Diệm. Giới viên chức thường hỏi nhau: “Ê, ông có bôi dầu cù là không?”, là có ý hỏi: “Ông có chân trong đảng Cần Lao không?”. Có “bôi dầu cù là” thì thế nào cũng được nâng đỡ về mọi mặt vì Đảng đó do chính quyền Diệm – Nhu lập ra.
Dầu cù là vốn là loại dầu xức rất quen thuộc với đa số người Sài Gòn thập niên 1950, 1960 - Ảnh tư liệu
Tây hạ thành: mỉa mai những cái gì cổ lổ, cũ kỹ quá xá. Chẳng hạn như có người mặc cái áo cũ mèm, người ta bảo: “Cái áo đó có từ hồi Tây hạ thành”, tức là có từ cả trăm năm, từ khi người Pháp đánh thành Hà Nội. Không chỉ nói về những món đồ, từ này còn nói về khái niệm phi vật thể, kiểu như ông nào đọc diễn văn dùng nhiều từ cổ quá lủng củng và có khi biền ngẫu thì bị gọi là dùng ngôn ngữ “Tây hạ thành”. Từ này na ná như từ hiện nay cũng còn một số người xài: thời Bảo Đại ở truồng.
Con cháu nhà Hán: Trong cuốn “Hán Sở tranh hùng” có chuyện vua Hán Cao Tổ vốn họ Lưu, sau này phá tan được nhà Tần lên làm vua lập nên nhà Hán. Vì vua nhà Hán họ Lưu nên người ta dùng chữ “con cháu nhà Hán”  để chỉ những người có tánh “lưu ...manh” khó chơi.
Phỗng: Khi đánh bài tổ tôm, khi ta đánh ra hai quân bài giống nhau, người khác đánh ra một quân giống hệt, ta có quyền “phỗng”. Đáng lẽ quân bài đó người ngồi mé trên ta có thể ăn để ghép vào cỗ bài của họ nhưng ta có đôi sẵn trong tay, ta có quyền kéo quân bài đó về phía mình, đó là ”phỗng”. Người ở mé trên mình bị nâng mất quân bài đáng lẽ mình được, tức là bị phỗng tay trên. Từ này người gốc Bắc nói nhiều hơn.
Cũng như tiếng lóng, bây giờ ít người trẻ hôm nay biết "mía ghim" và xe Velo Solex rất phổ biến trên đường phố Sài Gòn xưa - Ảnh tư liệu
Khổng tử viết: Thập niên 1950, 1960 cả nước mới thoát ra khỏi chế độ phong kiến chỉ năm mười năm, nền nho học đã tàn lụi trước đó xa hơn chút nhưng vẫn còn kha khá những người theo nho học, nệ cổ.
Có anh đạo đức dù không tới nơi nhưng lúc nào cũng làm ra vẻ nhà nho đạo mạo nghiêm cẩn. “Khổng tử viết” tức là “Đức Khổng tử có nói”, trong các sách Tứ thư, ngũ kinh, các danh sĩ Trung Hoa xưa mỗi khi muốn dạy ai thường lấy câu này ra để dựa cho chắc ăn.
Thế là khi dân Sài Gòn ngán các anh hủ nho nói trên khi họ muốn lên lớp ai thì gọi là “Khổng tử viết”, muốn chỉ cho thấy rằng anh đọc sách nho học như con vẹt, chẳng thèm suy nghĩ gì.
Hia: Có nghĩa là cắt xén. Ai có tóc dài, râu dài thì bị nhắc phải ...hia bớt đi, phải cắt ngắn đi. Hia còn có nghĩa là ném, vứt, lại có nghĩa là khuân vác. Ví dụ như: “túm cổ, hia ra ngoài!”, hay “hia vài bao vô đây!”. Không ai biết tại sao có từ này, nhưng giới lính tráng miền Nam trước đây dùng nhiều.
Nghe lại những từ lóng này, có thể hình dung những ngữ cảnh cụ thể mà bây giờ những người trẻ không thể hình dung ra được.
Còn bạn, bạn còn biết những tiếng lóng nào một thời làm mưa làm gió đất Sài Gòn mà giờ "tuyệt chủng" hoặc hầu như rất hiếm người xài? Và tiếng lóng này ám chỉ gì; xài trong những trường hợp nào?
Đ.T (Theo tạp chí Chọn Lọc 1965)