SGTT.VN - Sài Gòn không chỉ là danh từ, mà còn là tính từ. Trước hết, tính từ đó chỉ một trạng thái thay đổi thay liên tục.
Trên thực tế, điều này thể hiện qua hệ thống cửa nhà,
đường sá, hạ tầng nói chung không ngừng cung cấp cho người ta những cảm
quan mới về sự phát triển.
Những bổ sung, thay đổi trong biểu tượng văn hoá cũng
nói lên điều đó. Chợ Bến Thành, bến Nhà Rồng, nhà thờ Đức Bà hay nhà hát
Thành phố... những biểu tượng hôm qua đang được "bảo tàng hoá" trước
một Bitexco Financial Tower 262m, hình búp sen (nhưng ở một góc độ nào
đó, nó lại khiến ta liên tưởng đến ngón tay trỏ chỉ thẳng lên trời).
Bitexco lọt vào danh sách 20 cao ốc biểu tượng thế giới, là công trình
giúp nhận diện một Sài Gòn hiện đại. Một Bitexco không đơn độc, hướng
tầm nhìn ra sông Sài Gòn lộng lẫy, cho thấy sự xoay chiều trong nhãn
quan nhưng lại trung thành với một tinh thần "hướng giang" của đô thị
này.
Cũng thế, với thân phận những cây cầu trong thành phố.
Một thời nào đó, cầu Sài Gòn từng tượng trưng cho giá trị cửa ngõ hiện
đại, cầu Bình Lợi, Tân Thuận gợi nên chiều sâu, sự cổ kính thì nay,
những hình ảnh đó chỉ còn làm hậu cảnh cho những bức ảnh cưới của các
đôi uyên ương tín đồ của thời trang vintage, thay vào, là cây cầu Ánh
Sao lãng mạn kiểu phim Hàn ở khu Phú Mỹ Hưng, hay về mặt cường tráng thì
phải là cầu dây văng Phú Mỹ ở quận 7. Trong đời sống bộn bề, những cây
cầu mới ngoài tiếp tục cung cấp cảm xúc bay bổng thư thái mà sông mang
lại cho phố, còn cung cấp những tầm nhìn về phát triển trên nền tảng đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao về sự lưu thông với bên ngoài.
Cuộc đổ bộ của các công trình hôm qua vào thế giới bảo
tàng diễn ra thật nhanh chóng. Những di sản hôm qua từng soi bóng trong
lịch sử đô thị đang bị phung phí. Chỉ số ít được con người tìm cách đóng
gói bán cho lữ khách nuông chiều hoài niệm. Việc cập nhật những trào
lưu kiến trúc mới cần được tư duy một cách logic hơn: chúng không chỉ
đem lại diện mạo, hơi thở hiện đại cho hôm nay mà còn góp phần làm giàu
cho những... bảo tàng di sản của ngày mai. Tất nhiên, điều còn lại là
đừng để di sản ngày mai ăn hiếp, hạ độc những di sản hôm qua.
Sự nhanh chóng phai mờ của những biểu tượng kiến trúc
cũ và thay thế bằng những biểu tượng kiến trúc mới cũng ghi nhận đặc
điểm tâm tính của một thành phố nhạy cảm với cái mới. Ở đây, Sài Gòn lại
có thể xem như một tính từ khác để chỉ trạng thái cởi mở, sẵn sàng chấp
nhận cái khác biệt. Điều này không chỉ được nhìn từ hiện tại, mà có thể
nói, là một truyền thống, được thiết lập từ ngay trang đầu tiên của
lịch sử thành phố. Thuở sơ khai, khi quan đốc chiến triều Nguyễn –
Nguyễn Cửu Đàm – vung mác phát đám lau sậy rậm rì để xây Bán Bích cổ luỹ
để hình thành một đời sống thương cảng đô thị (1772), ta nhận ra, dưới
mỗi nét phác lên mặt đất là một biểu hiện của tinh thần quy hoạch mở cho
tương lai Sài Gòn mãi về sau. Sức sống thương cảng hiện hữu từ thuở đó.
Sự phóng khoáng của người di dân khẩn hoang lập ấp được thể hiện từ
trong ban sơ của cái gọi là đô thị.
Đến năm 1859, người Pháp đến Sài Gòn và thổi vào đó
tinh thần duy lý trong quy hoạch xây dựng, đưa ra nhiều quy định, chuẩn
mực cho cơ sở hạ tầng. Chỉ năm năm sau, những toà nhà lớn bắt đầu mọc
lên ở bến cảng sông Sài Gòn và dọc theo rạch Bến Nghé, đời sống giao
thương tấp nập nhộn nhịp, không khí buôn bán trao đổi sản vật, lương
thực, hàng hoá với các vùng miền trong nước, các quốc gia diễn ra thật
sầm uất(1).
Ngay cả khi có sự can thiệp lý tính trong quy hoạch cao
nhất, thì cái "mã gen Sài Gòn" – tinh thần thương cảng, hướng giang –
vẫn là thứ được tuân thủ xuyên suốt. Như một sự cân bằng hết sức tuyệt
vời: trong cái chi li của tay thước mét mực có cái phóng khoáng của tầm
nhìn, trong vô số cái quy phạm nghiêm ngặt chuẩn mực, có sự cởi mở hấp
dẫn những giá trị mới, lại luôn sẵn "chế độ chờ" để tiếp nhận sự đổi
thay. Nhìn xuyên qua những xáo trộn lịch sử chính trị trước năm 1975,
bước qua những thành kiến hậu quả của sự tuyên truyền hồ đồ, có thể thấy
rõ nhất diện mạo phong thái của một Sài Gòn văn minh, chững chạc và
tinh thần rộng mở, không ngừng tiếp nhận các giá trị khác biệt vào mình.
Chính ở đây, tính mở làm nên sự đô hội, sự đô hội làm nên tư duy đa
thể, vượt qua mọi thiên kiến, khống chế trở lại những can thiệp thô bạo,
duy ý chí.
Sức mạnh của tính cách Sài Gòn xuyên qua bể dâu thời
cuộc. Điều này được minh chứng bằng việc lịch sử là những bước chân rộn
ràng của cuộc Nam tiến, song nề nếp/tâm tính/tinh thần đô thị hoá thực
sự tốt đẹp, văn minh lại là những cuộc Bắc tiến, mà khởi nguồn, là Sài
Gòn. Sài Gòn không chỉ Sài Gòn hoá mạnh mẽ nơi chính những thị dân nhập
cư của mình, mà còn có sức lan toả những giá trị của mình một cách sâu
xa và âm thầm nơi những cư dân đô thị hiện đại khác.
Cần trở lại với một cội nguồn, là đời sống, tinh thần
thương cảng của Hòn Ngọc Viễn Đông, một trung tâm mở để thấy việc mở
rộng kích thước không ngừng trên bản đồ là một tiến trình hợp lý. Một
khi sức lan toả và hấp dẫn của sự phóng khoáng, tự do, văn minh nội tại
của nó đã được lan toả, mang đến những thành phố ở những vùng miền văn
hoá rất xa trên đất nước.
Thử lấy làm tiêu biểu. Một trong những đơn cử mang tính
đặc thù khi bàn về cấu trúc đô thị Sài Gòn thường được nhắc đến đó
chính là đời sống hẻm. Hẻm Sài Gòn không chỉ đóng vai trò như một quãng
lùi, xương nhánh về mặt lưu thông mà còn mang trong nó câu chuyện của
lịch sử quy hoạch và lịch sử cộng đồng. Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân, thành
viên trong ban chủ biên cuốn Văn hoá hẻm phố Sài Gòn – TP.HCM, cho
rằng: "Xét trong cái động và tĩnh của một đô thị thì hẻm chính là thành
phố tĩnh, đó là nơi con người ẩn mình, sống cho riêng mình và nếu có làm
việc, thì chủ yếu cũng dành cho một cộng đồng nhỏ chung quanh. Khi
người ta sống trong hẻm, người ta mở cửa nhiều hơn, hẻm càng đẹp, người
ta càng mở cửa (ngoại trừ một số hẻm công chức, nhà đối mặt nhà, đóng
cửa là chính). Hẻm lớn có cả đường cho xe hơi, có những cửa hiệu, tiệm
may, hàng quán xôn xao, còn hẻm nhỏ thì chẻ nhiều nhánh, ngoằn ngoèo, có
nơi ẩm thấp chật chội… Và đặc biệt, hẻm là nơi cư trú của phần lớn
người nhập cư, vì vậy mà rất nhiều bản sắc văn hoá ở đây được chia
sẻ".(2)
Có thể nói gọn nhất: chính đời sống nhập cư làm nên văn
hoá hẻm. Chính đời sống hẻm bảo bọc trong nó một thế giới hoà bình, nơi
những thị dân luôn thấy rõ tiểu sử của mình trong tiểu sử của kẻ đến
sau.
*
Trên cái mã gen của một đô thị thương cảng, trung tâm
giao lưu đã được thiết lập từ những ngày đầu và bồi đắp qua tiến trình
lịch sử, làm nên tập tính lấy giao lưu làm trọng của một vùng văn hoá
hội nhập. Sự rộng lòng với người – khác đã cho phép nó tránh được cơ
nguy cục bộ, bảo thủ, nhiệt tình với cái mới, dung dưỡng và quan trọng
là luôn sẵn không gian cho cái khác biệt cùng tồn tại sống động, hài
hoà.
Điều này thể hiện qua cấu trúc đô thị, từ trong đời
sống văn hoá hẻm, và lớn hơn, từ trong sự thay phiên đổi gác của những
biểu tượng kiến trúc. Dĩ nhiên, ngược lại, chính những dịch biến thuộc
về cấu trúc đô thị quy định trở lại không gian, tập quán, lối sống và
tính cách con người.
Đến đây, Sài Gòn còn là một tính từ, chỉ sự rộng lòng với cái mới, cái khác.
Vì là một tính từ xuất phát từ nội tại, văn hoá Sài Gòn luôn đủ chống lại những áp đặt quyền lực mang tính nhất thời.
--------
(1). Đoạn này có tham khảo công trình Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu của Trần Hữu Quang, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2012.
(2). Hồn phố thị trong hẻm nhỏ, trả lời phỏng vấn, Sài Gòn Tiếp Thị, số ra ngày 30.4.2012.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
minh họa Leftstudio
sgtt.vn
Người Sài Gòn
SGTT.VN - Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại
học. Tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì
không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y. Chỉ lo cái chuyện
ăn uống giữa hai buổi thi.
Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra
quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm
dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở
trong cái xô để ở góc quán mà bụng vẫn trống không. Nhỏ lớn ở quê khi
nào đi đâu xa thì cơm đùm cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm
tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám vì sợ không
đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào
cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một
trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta
cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để
trên bàn chỉ còn đống vỏ.
Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái
vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thi thoảng lại liếc qua bà chủ
quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo
có đủ để trả không.
Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng
nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là
không biết có tính tiền nên lỡ ăn chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu
thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu.
Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.
Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không
phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có
lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú
vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở
hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên
kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn ráng vì trong túi không
còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ,
ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: Xích lô!
ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: Xích lô!
Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: Anh chị đi đâu?
– Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?
Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm
sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi:
Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho
nhiêu thì cho.
Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả
hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 15 đồng mọi khi vẫn đi. Cứ
chạy đi tui chỉ đường.
Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở
hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức
không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người.
Xuống giọng: Em mới chạy xe,
đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.
đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.
Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: Tui biết ông đuối
từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây
tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!
Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng.
Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!
Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện
cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ lớn
bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả
công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa
chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ
tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi,
kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc
cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn
Hạnh mới đây: "Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài
mệt quá!"
Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết
chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng
khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho
thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài
Gòn, đó là chuyện nhỏ.
Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một
bình nước suối trước nhà kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống
miễn phí. Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài
Gòn.
Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố
Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống hay nhét lại
cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn.
Bài: Nhị Nguyên
Ảnh: hà thành
Ảnh: hà thành
sgtt.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét