Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Bài viết lại : Về một tập thơ sẽ xuất bản



Một Thuở Thanh Xuân
            
Tôi được sinh ra ở vùng tản cư vào khoảng những năm 1949 -1950. Cha mẹ tôi sinh cơ dựng nghiệp từ những ngày lấy nhau ở làng An Truyền (tên gọi dân gian là làng Chuồn) huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Những năm đó phải theo gia đình ông bà Ngoại tôi về quê Hà Trữ để tránh giặc – đó là quê của bà Ngoại tôi. Và tôi được chào đời ở đó. Cha tôi kể lại rằng ông phải bồng tôi xuống hầm tránh pháo “ca nông”  của Pháp sau khi được lọt lòng.
Gia đình tôi trở lại làng Chuồn sau đó và chúng tôi trải qua một thời tuổi thơ êm đềm ở quê hương mặc dù thời gian này đất nước đang trải qua cuộc kháng chiến và đi đến kết thúc tạm thời bởi Hiệp định Geneve 1954.
Tôi không có được cuộc sống chung cùng với gia đình cha mẹ tôi và các em nhỏ. Năm 6 tuổi cha mẹ tôi bồng bế các em tôi lên đường lập nghiệp ở các khu dinh điền phía Nam – đó là các khu kinh tế mới được xây dựng để di dân từ miền Trung vào. Lúc đầu gia đình tôi ở quận Tánh Linh tỉnh Bình Tuy, sau đó di chuyển về địa điểm Mê Pu thuộc Võ Đắt - Võ Xu cũng thuộc tỉnh. Những năm 1960 và đầu những năm 1970 cha mẹ tôi lại có cuộc phiêu lưu mới vì sinh kế ở thành phố Kontum.
Tôi được tiếp tục việc học hành không gián đoạn mặc dù gia đình di chuyển nhiều lần các vùng khác nhau. Hai nơi cố định là Huế và Sài Gòn.
Tôi sống ở làng quê hầu hết những năm học Trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp – nghĩa là trong khoảng từ năm 1962 đến 1968. Đó là những năm tuổi trẻ đẹp đẽ của tuổi học trò. Và là những năm bước vào một nghiệp dĩ : thơ ca.
Như trào lưu thịnh hành dạo ấy, tôi cùng mấy người bạn thành lập một nhóm viết (bút nhóm, thi văn đoàn như tên gọi lúc đó) gồm những người ban đầu là Mường Mán, Nguyễn Miên Thảo, Từ Hoài Tấn, Hồ Hữu Kha (Hồ văn Kham, mất tích năm Mậu Thân 1968), Trầm Kha (Đại úy Nguyễn văn Đồng tử trận năm 1974 ở Trường Sa) – sau đó thêm Phạm Tấn Hầu, Ngụy Ngữ, Thái Ngọc San (mất 2005), Hồ Trọng Thuyên,  một tờ tập san viết tay (tôi viết và đóng tập),  một nhà xuất bản trên danh nghĩa (ít ra thì đã có in 1 tập thơ typo của Nguyễn Miên Thảo : Hãy thức dậy cùng ta thầm lặng đêm nay – có đăng quảng cáo trên báo Văn hồi đó). Chúng tôi đã có một đêm đọc thơ đáng nhớ ở giảng đường Đại Học Sư Phạm Huế mùa Đông năm 1967.
Đó là những năm chúng tôi bắt đầu tạo dựng tên tuổi văn học trên các tạp chí văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975. Những sáng tác thơ văn từ đó như một giai đoạn sung sức nhất của tuổi trẻ - những năm hai mươi của cuộc đời.
Tôi bắt đầu nghiệp dĩ từ những năm niên thiếu ở làng – một mình trong ngôi nhà của cha mẹ để lại khi lên đường mưu sinh ở đất phương Nam. Sau bao nhiêu cuộc bể dâu và biến động của một đời người, tôi còn giữ lại một số bản thảo ghi dấu lại một thời sáng tác. Đây là tuyển tập thơ của thời kỳ 1967 – 1974, được chọn lọc lại từ 3 tập thơ chép tay còn giữ lại được qua bao nhiêu đổi thay của thời cuộc (Tôi phải mở ngoặc ở đây với lời cám ơn sâu sắc đến bạn thân và cũng là bạn học của tôi – Trần Đinh Sơn – đã cất giữ cẩn thận giùm tôi trong gần 3 năm tôi buộc phải đi khỏi thành phố).
Tôi không có ý định xuất bản các bản thảo này, chỉ in theo dạng bản thảo lưu trữ vài chục tập, dành tặng thân hữu để kỷ niệm một thời kỳ - một thuở thanh xuân đáng nhớ. Và tuyển tập này sẽ được mang một tên chung : PHỤC HƯNG TÔI & EM.

Từ Hoài Tấn
Tháng 6 - 2013

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

Thơ Võ Công Liêm



            LỤT



mùa nắng hạ nước tràn qua góc phố

thổi mưa về nghe buốt lạnh đôi chân

nhớ

quê mình nặng hạt mưa bay mùa lũ tới

áo sờn vai ngậm đắng với tư bề

thương một nắng hai sương bên bờ lau sậy ốm

nhìn

nước trôi mà quạnh nhớ đôi hàng lệ

áo nghĩa thư giờ đây bay theo gió

có lui về biền biệt cuối chân mây

này em nhé! phong sương đời còn lại

xin cho ta lần lửa một đôi điều

khóc

khi mô nước về với dòng sông định mệnh ?

nhớ nhung hoài nắng gió mưa sa hai đầu núi giữa thân gầy

ta chỉ thấy sông chảy đá mòn qua kỷ niệm xoáy thời gian

uống

say mèm cho tới khi nước ngập dưới lòng chân

nhà sụp đổ đám trâu bò ngơ ngáo nhìn theo lá

tưởng là chơi mà đêm đen trào tới biết khi nào

chạy

mộng vỡ mê đường biết hỏi ai ?

lụt

cả châu thân cả thôn đoài

áo em ướt tình anh ướt

hoa với cành trôi theo dòng nước bạc

sợ chi mô ngày hóa kiếp ngước nhìn sông



thấy quê người lại nhớ quê ta

ôi! mênh mông phủ lấp cả con thuyền

ngày xưa đó ta đi cùng với lụt

đến bây giờ nước chảy huê trôi tình một nắm…



em có về thắp nhặt dùm ta nhé

giữa chốn ba đào nghe rộn tiếng tào khê ./.


VÕ CÔNG LIÊM (lụt . calgary.ab 23/ 6/2013

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Mời tìm đọc VĂN TUYỂN 2 mới phát hành


 
Tuyển tập VĂN TUYỂN 2
Với sự góp mặt của: Nguyễn Lệ Uyên, Chu Ngạn Thư, Bích Ngân, Viêm Tịnh, Trần Nhã Thụy, Nguyễn Miên Thảo, Mang Viên Long, Kim Tuấn, Đoàn Thạch Biền…

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

TIN BUỒN : HIỀN THÊ NHÀ THƠ TRẦN DZẠ LỮ TỪ TRẦN

ĐƯỢC TIN
CHỊ PHÓ THỊ TÍNH, HIỀN THÊ NHÀ THƠ TRẦN DZẠ LỮ
ĐÃ QUA ĐỜI VÀO LÚC 15 GIỜ 45 NGÀY 24.6.2013 ( NHẰM NGÀY 17 THÁNG NĂM,QUÝ TỴ), TẠI SÀI GÒN , HƯỞNG THỌ 63 TUỔI.
TANG LỄ TỔ CHỨC TẠI NHÀ RIÊNG 84/20 TRẦN HỮU TRANG,P 10, QUẬN PHÚ NHUẬN. 
XIN CHIA BUỒN NHÀ THƠ TRẦN DZẠ LỮ VÀ TANG QUYẾN
CẦU NGUYỆN HƯƠNG HỒN CHỊ AN NHIÊN CÕI VĨNH HẰNG
viêm tịnh - từ hoài tấn - nguyễn miên thảo - cao huy khanh - lê thị ngọc quí  - võ công liêm - văn viết lộc - hồ đăng thanh ngọc - kim long - dương đình hùng - phạm tấn hầu - lê thánh thư - huỳnh ngọc thương - hồ trọng thuyên - nguyễn văn trai - hồ minh dũng - hoàng lộc - đức phổ - nguyễn liên châu - trần áng sơn - nguyễn vân thiên - linh phương - vũ trọng quang - trần hữu dũng - phù hư - võ chân cữu - triệu từ truyền -  phạm mạnh hiên - trần vĩnh tựu - trần đình sơn - từ kế tường  - lữ kiều và vũ thanh hằng - trần duy phiên - lê tây sơn - nguyễn phú yên - võ quê - cao thoại châu - lê ký thương - bảo cường và thân hữu ...

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Cà Phê SỐNG CHẬM


Những vòng xe trên con đường có bóng cây đẹp nhất Sài Gòn, con đường Trần Quốc Thảo trải dài, lốm đốm nắng và rủ giọt trên những tàng cây xuống vũng mưa. Có khoảnh khắc nào bạn chợt ngẩn ngơ vì chiếc lá vàng rơi vội trên giỏ xe, trên tay áo? Chợt tự hỏi bóng cây kia đã bao tuổi để đứng thong dong giữa trời? Hay khoảng khắc nào vội dừng xe vào lề, để gọi cho người ấy, để gửi tin chúc mừng niềm vui ai đó, để chia sẻ một nỗi buồn hoặc…để khóc…khi tim chợt nhói lên vì nghĩ về kẻ dấu yêu. Nếu vậy sao không thử một lần vào cà phê SỐNG CHẬM ở số 63B Trần Quốc Thảo F.7, Q.3, hãy dừng ngay đó, góc Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, quẹo phải chỉ vài căn và bên tay phải bạn sẽ bắt gặp nó, nơi cung đường yên tĩnh nhất trên con đường lãng mạn này, một không gian SỐNG CHẬM với những hoài niệm trong từng ca khúc vượt thời gian, với những gương mặt thân thương đâu đó trên tường, những Phạm Duy, Trịnh, Thái Thanh, Khánh Ly, Từ Công Phụng, Văn Cao, Lê Uyên Phương… hoặc những Baez, Dylan, Mouskouri, Enya,… những con người đã cho chúng ta những giây trầm lắng để chợt nghĩ về mình, về người khác…và SỐNG CHẬM lại, để hiểu mình hơn để yêu mình hơn, để hiểu người hơn, để yêu người hơn và yêu đời hơn.

Không những vậy, bạn còn thưởng thức những tác phẩm Xuân họa chủ đạo trang trí của quán, được chủ quán tuyển chọn ý nhị nhưng vẫn mô tả được tính nghệ thuật đặc trưng của Nhật ở trường phái hội họa Phù Thế. Đặc biệt những bức tranh sơn dầu của quán không bao giờ là tranh chép…và sách.
Nói về Cafe sách thì SỐNG CHẬM là một trong những quán thật sự chuyên về sách, những cuốn sách có giá trị được tuyển chọn với mục đích mang đến cái nhìn khác đối với văn học và mỹ thuật cùng những tác phẩm triết học mang tính nhập môn và cơ bản cho những ai muốn dành chút thời gian eo hẹp của ngày để tìm hiểu. Tập "Tháng thơ SỐNG CHẬM" sẽ giới thiệu với bạn những bài thơ đặc biệt của các thi sĩ Sài Gòn vào mỗi tháng.
Ẩm thực nữa chứ, thời kinh tế eo hẹp, với mức giá cơm trưa sạch đẹp ngon mắt trên bộ chén đĩa gốm sứ Minh Long chỉ 30k, cùng những món uống đặc biệt mang chất phương Tây giá từ 35k đến 50k sẽ khiến bạn “vực được đạo“. Nhưng món đích thực của quán phải là phở-bún-miến măng gà mái dầu đầy hấp dẫn với giá 35k. Nếu bạn thường đưa bạn bè đến ủng hộ, bạn sẽ được nhận thẻ giảm giá 10%.
Và âm nhạc…mỗi tối từ 8h30h đến 10h30, sao ta không thử đến để lắng nghe tiếng ghi-ta bụi hòa với giọng ca bụi của nhà thơ, nhà văn, dịch giả và là nữ chủ, cùng các giọng ca bụi khác và nghe ngay chính giọng ca bụi của ta với những ca khúc mới nhưng cũ của những tác giả mới nhưng cũ…những kẻ sống và chết âm thầm cùng thời gian và những tác phẩm không muốn, không thể, không cần phổ biến của mình. Mọi thứ đều từ cái không chuyên mà thành, vậy sao ta không thử một lần cất giọng không chuyên xem ta có thành cái chi không. Mà thành cái chi là cái chi, chỉ cần chúng ta dám cất giọng, chỉ cần hát hết mình như trút được nỗi lòng là chúng ta đã tìm được ý nghĩa gì đó cho bản thân. Hãy cầm đàn lên, những cây đàn luôn chực chờ bạn ôm lấy nó ở các góc quán, để chỉ cần "khều, khều" và hát. Chủ quán cũng vậy, cũng "khều, khều" khi người đệm đàn chưa đến nhưng chỉ cần hứng lên thì cứ việc "khều, khều" và hát. Đã bảo "bụi" mà. Không gian nghệ thuật gần gũi thân thiện nhưng trầm lắng, không ồn ào náo nhiệt, sẽ khiến bạn được bình an và tận hưởng.
Giờ trưa, giữa Sài Gòn chật chội đắt đỏ thì tiện ích của quán sẽ còn khiến ai đó...mừng, vì sau khi ăn trưa, bạn có thể đăng kí với nhân viên một suất giường vải ở gác lửng bằng việc uống thêm một món uống, để vừa nghe nhạc du dương bên tai, vừa đọc sách và ngủ 10-15 phút để lấy sức vào giờ làm việc ban chiều.
Và còn nữa, nhiếp ảnh, góc nhiếp ảnh được chăm sóc, cứ 2 tuần một lần, bạn sẽ giật mình hoặc lắng đọng trước những bức hình đời thường mà ta vô tình để sượt qua mắt của thành phố nhộn nhịp nhất nước.
Không khí trong quán luôn được điều chỉnh để mọi khách được yên tĩnh nhất, những lời nhắc nhở của nhân viên và ngay khi mở cuốn menu, thì ta đã được chủ quán tế nhị nhắc nhở bằng dòng chữ: "Mong quí khách trò chuyện nhỏ giọng."
Và rồi ta sẽ ngả đầu vào lưng ghế, nhắm mắt để nụ cười hay nước mắt trôi xuôi nhẹ nhàng…hay để tận hưởng niềm vui được ở cạnh bè bạn hay người thân yêu.
Lát nữa đây, bước ra ngoài, đời sống lại mênh mông…
SỐNG CHẬM, tại sao không? Hãy thử SỐNG CHẬM, vào SỐNG CHẬM để biết SỐNG CHẬM thú vị biết chừng nào.


LYNH BACARDI

Các nhà thơ ở cafe Sống Chậm sáng 23 - 6 - 2013: Từ Hoài Tấn - Vũ Trọng Quang - Nguyễn Miên Thảo - Phạm Mạnh Hiên



Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Những quy tắc vàng của cuộc sống

Nếu công ty có luật lệ thì cuộc sống có quy tắc. Quy tắc có loại thông thường và loại quý giá hơn vàng, ta muốn hạnh phúc thì phải biết và chấp hành nghiêm chỉnh. Dưới đây, chúng tôi xin thống kê ra vài điều để bạn đọc tham khảo:

1. Cuối cùng mọi thứ sẽ ổn. Nếu nó chưa ổn, thì chưa phải cuối cùng.
2. Cấp trên bao giờ cũng đúng.
Nếu cấp trên sai, cấp trên sẽ đúng vào lúc khác.
3. Đừng quan tâm tại sao mình nghèo. Hãy quan tâm tại sao người khác giàu.
4. Đừng sợ kẻ thông minh. Hãy sợ kẻ ngốc tưởng mình thông minh.
5. Đừng là người đầu tiên cũng đừng là người cuối cùng.
6. Làm ra hiểu thứ mình không hiểu và làm ra không hiểu thứ mình biết rành rành.
7. Số tiền còn lại trong túi mình là điều tuyệt mật.
8. Chỉ nói về thất bại của mình khi đã thành công trở lại.
9. Đừng khi nào tham dự một bàn tiệc khi chưa biết rõ ai là kẻ trả tiền.
10. Không khi nào lấy vợ hoặc chồng cùng công ty.
11. Ra nước ngoài bao giờ cũng có mì gói trong va li.
12. Chỉ làm quen với các cô gái không có anh trai nếu mình là đàn ông.
13. Đừng kể những mơ ước nhỏ bé của mình cho bất cứ ai, vì thế nào cũng có ngày bị lôi ra giễu cợt.
14. Đừng phí tiền ăn một món sang trọng nếu không có người nhìn.
15. Khi xem một bức tranh, nếu chưa hiểu gì, hãy tin chắc những người chung quanh đều như thế.
16. Đừng đánh giá ai khi họ mặc quần áo. Hãy đánh giá khi họ cởi ra.
17. Cố gắng đọc một vài cuốn sách và nghe thuộc lòng vài bản nhạc cổ điển vì thực ra chúng rất ít.
18. Đừng tỏ ra giàu có. Hãy tỏ ra bí hiểm.
19. Khi chia tay, luôn luôn nói tốt về người cũ. Nếu họ quá xấu thì không nói gì.
20. Đừng tin vào quảng cáo. Hãy tin vào giá tiền.
21. Không tranh luận với kẻ có địa vị và kiến thức thấp hơn mình.
22. Hiểu thế nào là cao cấp mặc dù suốt đời không có tiền mua. Nếu không cao về tài sản, hãy cao về thẩm mỹ.
23. Muốn thử một cô gái, hãy dẫn cô ta vào cửa hiệu vì lòng tham là thứ khó giấu nhất trên đời.
24. Chỉ đánh nhau khi biết chắc mình có thể thắng hoặc hòa.
25. Đàn ông không bao giờ tiếc tiền với những cô gái không quan tâm tới tiền.
26. Nếu không làm cho mẹ chồng yêu, hãy nhanh chóng làm cho mẹ chồng sợ. Đừng cố hòa hợp vô ích.
27. Đối với phụ nữ, có hai thứ luôn phải để ý: khuôn mặt và bàn chân.
28. Muốn thân ai đó, phải có lúc cùng hư hỏng với người ta.
29. Cái gì mình ngu, hãy cố gắng biến nó thành phong cách.
30. Phải hiểu ai cũng là con ếch. Chỉ khác nhau cái giếng mà thôi.
31. Người phụ nữ duy nhất trên đời vẫn đẹp lúc già chính là vợ mình! 
Lê Hoàng
http://www.thanhnien.com.vn

Gương mặt thật của Đức Phật.

Gửi cho qúy vị email này ( từ bs Võ Văn Kim ) để biết gương mặt thật của đức Phật. Nét vẽ tuyệt vời của vị sư họa sĩ tài ba Purna, đệ tử của Ngài, cho ta thấy 100% dung nhan thật của Ngài. Hình vẽ này qúy gía vô cùng. Qúy vị nên giữ thật kỹ vì nó là một bảo vật vô song, duy nhất. Ngày nay, không ai biết mặt thật của Chúa Giê- Su ra sao mà chỉ tưởng tượng rồi vẽ ra hoặc tạc tượng.
Lời nói của Đức Phật cũng được diễn đạt ít nhất là 95% của nguyên thủy bằng cách đối chiếu và so sánh các kinh sách của hàng chục chi nhánh Tiểu Thừa và Đại Thừa chép trong 2 thế kỷ thứ 6 và thứ 5 trước Tây lịch ( câu nào mà mọi chi nhánh đều chép giống nhau thì đó chính là lời của Phật). Tiếc thay, bây giờ người ta không biết đích xác Chúa đã nói gì; lời trong Bible cũng chưa chắc là lời nguyên thủy của Chúa vì không có nhiều kinh sách khác nhau cùng thời để so sánh
.
 .Mặt thật Đức Phật là đây!.
srealimage.jpg
    Đầu năm Âm lịch Quý Tỵ 2013 xin khai bút về hai đề tài Phật giáo rất hữu ích:

    1/ Dung nhan thật của Đức Phật ra sao? Xưa nay, mặt mày Đức Phật được tưởng tượng từ gương mặt của một người đàn ông miền Bắc Ấn Độ, trang trí hoa lá cành rồi đem in và đắp tượng. Nhưng với cái gọi là “Phật ngọc hòa bình” thì mặt mày tượng Phật này lại rất giống mặt của người đàn bà Úc, chủ nhân của pho tượng!
    May thay, Viện Bảo Tàng Hoàng Gia Anh Quốc lưu giữ được bức chân dung của Đức Phật được phác họa bởi đệ tử của ngài là ông Phú Lâu Na (đính kèm). Thực dân Anh đô hộ Ấn Độ, thâu tóm các kho tàng quốc bảo của Ấn Độ, mà bức vẽ chân dung Đức Phật là một tài liệu vô giá, có một không hai trên thế giới được mang về mẫu quốc lưu trữ trong Viện Bảo Tàng. Nhờ vậy, ngày nay chúng ta mới biết mặt thật của Đức Phật từ nét vẽ tuy đơn sơ mà sinh động của ông Phú Lâu Na, một đệ tử của ngài
Từ mail của Cuong Nguyen

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

NHÀ VĂN LYNH BACARDI MỞ QUÁN

Nhà văn nhà thơ dịch giả Lynh Bacardi mở quán Sống Chậm ở số 63B Trần Quốc Thảo, quận 3, Tp Hồ Chí Minh. quán khai trương vào ngày 14/06/2013.
 Buổi sáng có cà phê giải khát, ban trưa có cơm văn  phòng, chiều tối có phục vụ thêm ca nhạc; khách muốn lai rai thì có bia, giá cả vừa phải, anh chị em văn nghệ đến ủng hộ sẽ có giá đặc biệt tương đương cà phê lề đường. Quán trình bày sang trọng thẩm mỹ, được chia làm hai phần, phần bên ngòai dành cho những ai thích không khí thoáng mát, bên trong có máy lạnh ấm cúng.
 Ngày khai trương và những ngày tiếp theo người ta thấy có sự hiện diện các khuôn mặt văn nghệ sĩ đô thành: Phan Ngọc Thường Đoan, Lưu Melan, Đốp, Ngọc Anh, Hồ Liễu, Nguyễn Tiến Văn, Khổng Đức,Từ Hoài Tấn, Nguyễn Miên Thảo, Phạm Mạnh Hiên, Linh Phương, Trần Hữu Dũng, Lê Thánh Thư, Vũ Hà Nam, Nguyễn Chương, Đình Nguyên, Nguyễn Viện, Lý Đợi, Nguyễn Minh Chí cùng dàn diễn viên xinh đẹp, Phạm Thiên Văn, Vũ Trọng Quang...
 Các nhà văn thơ nữ đua nhau mở quán; ngoài Lynh Bacardi, còn có Chiêu Anh Nguyễn ở Tân Phú, Khuơng Hà Bùi ở Trương Định, sắp tới vào đầu tháng 7/2013 Lưu Mêlan khai trương quán tại Nguyễn Thiện Thuật có thêm đặc sản Ninh Thuận.  

Mời quý thân hữu, bạn bè bốn phương đến ủng hộ cho các nữ sĩ.
Dĩ nhiên là có giá đặc biệt cho anh em văn nghệ sĩ.
 
 
 
 

Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

Khai mạc phòng tranh “Về với Sông Hương”

Nhân dịp kỉ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Sông Hương, chiều ngày 16/6, Tạp Chí Sông Hương tổ chức khai mạc phòng triển tranh “Về với Sông Hương”, diễn ra tại trụ sở Tạp chí, số 9 Phạm Hồng Thái, Huế.
Khai mạc phòng tranh “Về với Sông Hương”
Tham dự triển lãm lần này có sự góp mặt của 15 họa sĩ: Đặng Mậu Tựu, Kim Long, Nguyễn Thượng Hải, Nguyễn Thượng  Hỷ, Trương Hoa Đôn, Nguyễn Tuấn, Tuyết Hiền, Lê Thừa Khiển, Lê Văn Ba, Nguyễn Bá Văn, Nguyễn Thanh Cảnh, Đặng Mậu Triết, Nguyễn Đăng Sơn và những người bạn Huế: Họa sĩ Lê Hiếu, Thùy Vân.
 
15 gương mặt hội ngộ "Về với Sông Hương"

Với 29 tác phẩm tại phòng triển lãm được thể hiện trên nhiều chất liệu: sơn dầu, sơn mài, acrylic, tổng hợp, phù điêu bôi giấy... đặc biệt còn có 8 tác phẩm tranh minh họa của họa sĩ Đặng Mậu Tựu đăng trên các số tạp chí Sông Hương, đã làm đa dạng thêm các thể loại tranh lần này.
 
Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc, Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương, phát biểu khai mạc phòng tranh
Cảm hứng chủ đạo của phòng tranh mang đậm dấu ấn Huế với bao nỗi hoài cảm, suy tư, những câu chuyện với nhiều phong cách đề tài thể hiện khác nhau của các họa sĩ trong một không gian hài hòa của phòng triển lãm. Nhiều tác phẩm trong số đó mang dáng dấp xứ Huế thơ mộng, trầm buồn và cả những cảnh tình của vô thức được biểu đạt qua nét vẽ của những họa sĩ luôn ấp ôm bóng hình Huế quê hương.
 
Họa sĩ Đặng Mậu Tựu, Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT TT-Huế, cùng chia sẻ với phòng tranh

Đây là cuộc hội ngộ lần thứ tư, cuộc hội ngộ đặc biệt của nhóm họa sĩ là những người con của Huế và những người yêu Huế, sau hai cuộc triển lãm thành công trước đó là Về lại (2008), Lại về (2010), Lại về lại (2012) đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người yêu nghệ thuật.
 
Họa sĩ Kim Long, đại diện nhóm họa sĩ phát biểu cảm nghĩ về Phòng tranh và Tạp chí Sông Hương

Triển lãm mở cửa chào đón công chúng yêu nghệ thuật đến hết ngày 22/6.
T.Giang
 http://tapchisonghuong.com.vn

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

HOÀI VỌNG Và NGU NGƠ trong TÁC PHẨM Của FRANZ KAFKA*


                 

    Trong tất cả thứ nghệ thuật của Kafka là lực thu hút độc giả mạnh nhất. Đoạn cuối trong tác phẩm của ông thường rỗng , hoặc cái vắng bóng trong phần cuối của câu chuyện như gợi cho ta thấy một sự giải thích có tính hàm chứa sự việc; tuy nhiên điều đó chưa hẳn là một phát hiện rõ ràng trong ngữ ngôn, nhưng trước đó lời văn tuồng như biện minh hơn là lý giải; đòi hỏi điều nầy là việc đọc lại từ những quan điểm khác nhau. Đôi khi có thể do từ  sự nghi ngờ của diễn dịch, đó là sự xuất hiện cần thiết cho hai thể cách đọc khác nhau. Ấy là những gì mà tác giả mong muốn và xem như hoài vọng. Nhưng đây không phải là điều để nói lên sai trái của tác giả mà cốt để lý giải những gì qua từng chi tiết trong tác phẩm của Kafka. Dấu hiệu đó thường hay xẩy ra một cách thông thường, và; dẫu sao cũng do từ diễn dịch mà ra, người nghệ sĩ có thể tái phục cách diễn tả chỉ trong một động lực nào đó: không có lời lẽ nào hơn để rút lại lời nói –there is no word for word rendering. Tuy nhiên; điều đó không còn là khó khăn để nhận biết mà đó chỉ là biểu tượng của một tác phẩm . Biểu tượng luôn luôn tỏ ra một cái gì siêu lý của con người, tạo ra ở chính nó để nói lên cái hiện thực nhiều hơn là ý thức. Cái đáng chú ý ở đây; nghĩa là hết sức an tâm để cầm giữ sự cớ của nó chớ không có tính khiêu khích, khởi từ trong tác phẩm không đem lại một định kiến nào hơn và cũng không tìm kiếm một ẩn giấu nào khác trong tác phẩm của ông. Đối với Kafka  đặc biệt ông đã hài hòa cái phép tắc của ông mỗi khi xử dụng ngôn từ để đưa tới kịch tính xuyên qua một ngoại giới của nó và ngay cả tiểu thuyết cũng vượt ra khỏi những thể thức thông thường như đã có trước đây.
Cái thoáng nhìn đầu tiên và bất chợt của độc giả là họ đã tìm thấy một cái gì phiêu lưu rối bời mà đó là những gì đạt tới của một trạng huống rúng động và vai trò cố chấp trong việc theo đuổi của vấn đề mà chính nó không bao giờ diễn tả một cách rõ ràng. Nhưng Kafka không biết những gì đã xẩy ra. Ông không còn nghi ngờ hay thèm khát một điều gì để phòng thủ cho chính ông, nhưng ông cũng không biết tại sao phải làm thế. Những nhà biện lý cho đó là trường hợp khó khăn cho Franz Kafka. Chính giữa lúc nầy ông không còn chểnh mảng chuyện tình yêu, ẩm thực hay đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết của mình. Thế rồi từ đó Kafka như người bị phán xét công việc đã làm. Nhưng phiên tòa vẫn chìm trong bóng tối, ông không còn biết gì thêm hơn. Kafka phỏng chừng như bị kết tội; mà kết tội gì. Cuối cùng ông nhận ra mình là con người kỳ lạ và khó hiểu. Ở lúc nầy ông đâm ra nghi ngờ mọi thứ và chấp nhận mọi thứ để được sống. Về sau bất cứ mảy may gì xẩy ra đều được chính quyền để mắt đến ông. Hầu như người ta vuốt ve, lịch sự để đẩy ông vào trong thế bí của kẻ ngu xuẩn cùng cực, đặc đầu ông lên đá, xé toạt họng ông ra. Và; trước khi hấp hối người ta còn  kết án ông bằng một câu nói chua cay: ’đồ chó má!’.
Như vậy cho ta thấy rằng khó mà nói lên được thế nào là hiện tượng trong một câu chuyện kể của một ai, gần như đây là chuyện hiển nhiên vừa mới xẩy ra một cách tự nhiên. Nhưng tự nhiên ở đây là một mức độ khó hiểu, cũng có một số tác phẩm thường tình chỉ dành cho một số độc giả đọc vô tư không cần lý luận. Với Kafka thì lại khác, dù vai trò dựng lên tự nhiên hay hư cấu là việc thường tình đối với ông. Bởi những kỳ cục đó nhưng rõ ràng là tương nghịch, nhiều cái lạ lùng, phiêu lưu trong từng nhân vật, nhiều ghi nhận cho thấy là chuyện kể rất tự nhiên: cân xứng qua từng vai trò đưa tới những ngã rẽ khác nhau và từ đó chúng ta cảm thấy khác lạ giữa cuộc đời của con người và một cái gì có tính chân thật với những gì mà người ta tiếp cận được; đó chính là loại người dễ chấp nhận. Trạng huống nầy hình như rất tự nhiên đối với Kafka. Đúng thế; một nhận thức đích thực rõ nét trong ’Vụ-Án/The Trial’ của Kafka. Người ta cho đó là hình ảnh của con người. Chắc chắn là thế. Hẳn nhiên truyện được thể hiện qua hai bề mặt giản đơn và đầy phức tạp. Thiết tưởng đây là một ý nghĩa đặc biệt của tiểu thuyết và có ít nhiều cá tính của Kafka. Chắc chắn là chuẩn mực, là một trong những tác giả nói lên được khuynh hướng ngay cả bản thân chúng ta cũng thế; điều mà ông đã tự thú. Kafka sống thực và ông đã kết tội ông. Kafka học tập ngay từ những trang viết đầu tiên của tiểu thuyết, ông viết ra như kẻ bị truy nã khắp nơi trên thế giới và nếu thực sự ông muốn chụp lên đầu chiếc mũ đó, tuy nhiên ông không quá ngạc nhiên –he nonetheless does so without surprise. Thật như thế! Kafka sẽ không bao giờ tỏ ra đầy đủ để kinh ngạc ở cái thiếu hụt của kinh ngạc –he will never show sufficient astonishment at this lack of astonishment. Đọc những gì của Kafka thì thấy được lòng hoài vọng và sự ngu ngơ trong tác phẩm của ông –Hope and The Absurd in the Work of Franz Kafka. Tương phản đó là dấu hiệu ngu ngơ trong tác phẩm đã được thừa nhận. Một trí tuệ dự phóng cũng là một tinh thần bi thảm cứng nhắc và; đó là những gì có thể hành động duy nhất bởi cái nghĩa lý của tương nghịch cố hữu mà điều đó được đối chiếu trên một màu sắc đầy sức mạnh để được bày tỏ, tránh những gì thường xẩy ra như cử chỉ tỏ thẳng vào cái tham vọng vô bờ bến đó.

Vì vậy; trong tác phẩm ’Lâu Đài/The Castle’ có lẽ  là một lý thuyết trong hành động, nhưng cái sự cớ đó chính là việc đầu tiên của tất cả cá tính phiêu lưu của một tinh thần cố tìm kiếm và theo đuổi cái gọi là ban ơn, khoan hồng. Trong cái phần cơ bản tối nghĩa nầy đặc Kafka vào một sự bí ẩn. Đây là một thế lung lay vĩnh cửu giữa tự nhiên và phi tự nhiên, giữa cá tính và vũ trụ tính, giữa thảm kịch và đời sống, giữa ngu ngơ và cô đơn là tất cả đã tìm thấy trong tác phẩm của Franz Kafka và cho thấy được hai bề mặt: âm vang của nó và nghĩa lý của nó. Đấy là những tương nghịch của hữu lý và vô lý điều đó phải được nói đến, cái tương nghịch phải được nói thẳng để hiểu cái ngu xuẩn trong tác phẩm.
Đây là thuật ngữ (lexicon) là điều rất khó để vẽ lên hay nói đến. Ở Kafka có hai thế giới một dành cho đời sống hằng ngày, trái lại; với mặt khác thì luôn luôn có một khao khát siêu nhiên*. Với lẽ đó cho chúng ta mục kích được những gì ở đây là một chuỗi dài vô tận qua khám phá của Nietzsche ghi lại:’Vấn đề lớn lao nhất là nằm trong đường phố/Great problems are in the street’. Nietzsche muốn nói gì? Ấy là con người phản kháng.
*Cái điều xứng đáng là báo cho biết rằng những tác phẩm của F. Kafka có thể hoàn toàn hợp pháp để làm sáng tỏ trong một cảm thức phê phán xã hội (chẳng hạn trong cuốn Vụ- Án/Trail) Vả lại; điều đó có thể được là không có một nhu cầu nào để chọn lựa. Cả hai lý giải đó là tốt đẹp. Ở một hạn kỳ vô lý, trong khi đó chúng ta nhận thấy; phản kháng chống lại con người cũng đồng nghĩa chống lại Thượng đế: cuộc cách mạng vĩ đại là luôn luôn thuộc về siêu hình trừu tượng. It is worth noting that the works of Kafka can quite as legitimately be interpreted in the sense of a social criticism (for instance in The Trail) It is probable, moreover; that there is no need to choose. Both interpretations are good. In absurd terms, as we have seen, revolt against men is also directed against God: great revolutions are always metaphysical.
Cơ bản của cái gọi là ngu xuẩn được coi như là một điều không chấp nạp dành cho con người cao thượng. Hai sự trùng hợp ngẫu nhiên trong truyện của Kafka là việc tự nhiên khi ông đưa ra. Cả hai điều đó như là giới thiệu một cái gì bên trong, nhớ cho; trong cách ngăn buồn cười đó chính là cách ly khỏi tinh thần thừa thải và thú vui qua mau của thể xác. Cái sự ngu xuẩn đó sẽ có thể tác hại đến tinh thần và thể xác mà hai trạng huống đó là một cái gì vượt trội đưa tới xáo trộn tư duy. Cho nên chi Kafka biểu lộ được cái gì là bi thảm qua từng ngày và ngu xuẩn qua từng lý luận. Hãy coi bi thảm Hy Lạp là những bài học đáng qúy. Bi thảm là định mệnh an bài như tự nó làm cho ta cảm thấy tốt hơn là cái bề ngoài giả dối của bộ mặt luân lý đạo đức và an nhiên tự tại. Định mệnh của Oedipus là cả một dự báo trước; nó thuộc một cái gì siêu nhiên, chính sự cớ đó mà Kafka sẽ bị qui tội sát nhân và tội loạn dâm. Tất cả thảm kịch đó là một cố gắng bày tỏ một hệ thống luân lý đạo đức mà; đi từ miễn trừ nầy đến miễn trừ khác, sẽ là vòng hoa của những anh hùng bạc số. Đơn giản rằng điều đó chỉ báo cho chúng ta biết là không có mệnh hệ chung ở đây để phải hãi hùng lo sợ bởi vì tất cả không có gì là chắc chắn cả. Nhưng nếu dữ kiện đó cần thiết là chứng minh được đến với chúng ta trong khuôn thước của đời sống: xã hội, tâm trạng, tình cảm gia đình thì rồi kinh hãi đó tất sẽ được thánh hóa. Trong phản kháng điều đó sẽ làm cho con người sửng sốt và rồi Kafka phải thốt: ‘Không thể được/That is not possible’ đó là yếu tố đưa tới tuyệt vọng, chắc chắn rằng ‘điều đó’ có thể là / there is an element of desperate certainty that ‘that’can be. Ấy là những gì bi thảm của Hy Lạp hay ít ra cũng là một khiá cạnh nào đó hay một diện mạo khác. bởi cái phương pháp nghịch lý đó may ra cho chúng ta hiểu một cách sâu rộng về Kafka. Luơng tâm nhân loại đôi khi cũng có khuynh hướng chán nản, buông xuôi; nhãn hiệu đó như định mệnh; chỉ có điều đè bẹp nó ra mà thôi. Song le; con người thời đại lấy lòng tin yêu, vẽ vang mà hiểu đôi điều cho chính bản thân Kafka, trong khi ông không đủ lực để thừa nhận những gì ông đã làm. Có thể nói nhiều hơn trên cái tương nghịch đó, bao quanh cái đặc mệnh bi thảm Hy Lạp và tất cả những gì sẽ thánh hóa trong huyền thoại như trường hợp Ulysses của nửa đoạn đường phiêu lưu gặp trắc trở và rồi họ tự cứu lấy họ. Điều đó không phải dễ để trở về nơi linh điạ Ithaca.
Lấy gì để hồi cố trường hợp đó và đồng lõa một cách bí ẩn để nối vào nhau giữa luân lý đạo đức và bi thảm hằng ngày.Tại sao ở đây Samsa, người hùng trong ‘Hóa Thân/Metamorphosis’là một kẻ thương doanh. Tại sao ở đây chỉ có cái điều làm cho ông ta trở nên rối loạn ngu ngơ(disturbs)trong cái cuộc phiêu lưu lạ kỳ biến mình thành lũ sâu bọ.
-ấy là nguyên nhân gây ra một khuấy nhiễu nhỏ nhặt- ‘slight annoyance’.
Tất cả nghệ thuật của Franz Kafka là những gì cá biệt của riêng ông. Trọng tâm trong tác phẩm ‘Lâu Đài/The Castle’ của Kafka chi tiết về cuộc đời hằng ngày (every-day life) là nổi bậc hơn hết và vẫn là tiểu thuyết lạ lùng đưa tới một kết thúc trống rỗng và cứ thế mà tiếp nối cho tới khi chấm hết, một thứ phiêu lưu cần thiết cho một linh hồn cần chinh phục cái tha thiết ân cần của nó; ấy là một sự thay mặt cho Kafka. Trong tập truyện ‘Vụ Án/The Trail’ vai trò người hùng với tên gọi Schmidt hoặc đó là Franz Kafka. Nhưng tên thường gọi vẫn là Joseph K. Ông không phải là Kafka và cũng không hẳn là Kafka. Ông là một người Âu châu bình thường. Giống như mọi người khác trên thế giới này. Nhưng thực thể ông là K. ai là X. của xác thịt nầy và ai sẽ quân bình dòng máu nầy mỗi khi nói tới Kafka.
Nếu như Kafka muốn bày tỏ cái ngu ngơ thì ông phải xử dụng một thể thức kiên cố; bởi trong cuộc đời đang sống vốn có những vô lý hoặc ngu ngơ. Thì ra đó là câu chuyện dựng nên bằng một thể loại trang trí lạ lùng. Nhưng trong đó như một chiếm cứ trọn gói rõ ràng để nói lên mực độ ngu xuẩn có hiệu lực níu kéo cả một thứ luân lý đạo đức thừa thải. Thế giới của Kafka là chân thực không thể tả hết cái vũ trụ nầy mà vũ trụ đó con người được phép chọn cho chính nó một nỗi thống khổ, hành hạ qua một cách thức câu cá trong bồn tắm, cái xa hoa đó biết rằng không bao giờ đạt tới. Cho nên chúng ta phải thừa nhận rằng tác phẩm của Kafka đã chứa cái chất ngu ngơ của con người nằm trong đó.
Vì thế; thế giới đó không thể có như chúng ta đã thấy; Kafka tiếp tục giới thiệu niềm hy vọng trong một thể thức khác lạ. Trong hai tác phẩm ‘Vụ-Án/The Trail’ và ‘Lâu-Đài/The Castle’ hoàn toàn không cùng một thể; mà mỗi cuốn có những cái tương hợp bổ sung cho nhau. Vụ-Án đưa ra vấn đề còn Lâu-Đài chắc chắn có mực độ, giải quyết. Thứ nhất là miêu tả để phù hợp cái phương pháp gần khoa học (quasiscientific) và không kết thúc. Thứ hai là làm sao có một mực độ chuẩn (a certain degree). Vụ-Án là thăm dò, Lâu-Đài là hình ảnh trị liệu. Nhưng phương thức nầy đề ra ở đây là không phải để chửa trị; mà ở đây chỉ đưa người bệnh trở lại một cuộc đời bình thường. Lãnh điạ Quan sát viên (Land Surveyor) K. không thể là hình ảnh khác, một hình ảnh khát vọng hơn là đau khổ.
Có rất nhiều người vây quanh để rồi tấn công ông, điều đó cố tránh xa và làm đau đớn không tên để gọi; nếu sự đau đớn đó được mô phỏng trong trường hợp như một sắc diện đặc ân. Kafka rơi dần vào trạng thái tương thức giữa đời đang sống và giữa đời đang chết.

Từ ngữ hoài vọng dùng ở đây không có chi là buồn cười cả. Trái lại; nó quá nhiều thê thảm, một điều kiện cách để cho Kafka miêu tả, một kiểu thức cứng nhắc xem như không hợp lý và quá nhiều công kích; hoài vọng ấy sẽ đến –the word ‘hope’ used here is not ridiculous. On the contrary, the more tragic the condition described by Kafka, the firmer and more aggressive that hope becomes. Trong ‘Vụ-Án’ đã nói lên sự thật ngu xuẩn, nhiều chuyển động khác và nhiều điều trái phép và hình như làm say mê để như thử ’nhảy phóc’  vào một vấn đề gì trong tập truyện ‘Lâu-Đài’. Nhưng chúng ta tìm ra ở đây một lần nữa cái trạng thái tinh anh có tính tương nghịch trong một tư duy hiện hữu như một bày tỏ; mà Kierkeggard đã có lần nói: ‘Hoài vọng thế gian phải giết chết; chỉ có thể cứu được với một hoài vọng trung thực’ (tấm lòng trong trắng) / Earthly hope must be killed; only then can one be saved by true hope’ (purity of heart). Để hiểu một cách thấu suốt; điều đó có thể diễn dịch ‘ Người ta phải viết ra rằng: ‘Vụ-Án là đảm nhận như một cam kết Lâu-Đài’.
Hầu như những gì người ta nói về Kafka thật ra đã xác định cụ thể tác phẩm của ông như tiếng khóc ai oán (desperate cry) và không mong đợi để lại gì hơn cho nhân loại. Nhưng đây là một hồi cố xét lại. Có hoài vọng và vọng hoài –there is hope and hope. Bởi nó chẳng là gì khác biệt cả. Trái lại tư duy của A. Malraux luôn luôn đem lại lợi ích. Nhưng một trong hai trường hợp nêu trên của Kafka là hoài vọng và là tuyệt vọng. Ở đây không phải là trò chơi bi thảm, mà nó là hiện hữu –it is not the tragic game it was to be. Có nghĩa rằng cuộc đời của tác giả sống còn cho đến hôm nay.
Có điều lạ; trong bất cứ tác phẩm nào của Kafka đều có một tư duy gần gũi với Kierkegăard hoặc của Chestov đều có một ít hiện sinh của những nhà văn và triết gia mà cả ba đều có định hướng tới cái ngu ngơ thường tình và có một hậu quả xẩy ra sau đó, có thể đây là một đoạn đường dài đưa tới một tiếng khóc khủng khiếp của hoài vọng (!).
Họ chấp nhận Thượng đế như món hàng tiêu thụ; khiêm ái với thượng đế để hoài mong được chiếu cố. Vì ngu ngơ của hiện hữu được bảo vệ, tự tin đối với họ mà chỉ có một ít sự thực dành cho cõi như-nhiên mà thôi. Đương nhiên trong cuộc đời đang sống thường vin vào Thượng đế để cầu xin; như thể có hiệu năng cho tất cả của cầu xin. Và; chính nhờ vào lòng kiên trì, chịu đựng với những gì của Kierkeggard, Chestov và Kafka được đời nhắc nhở đến hành trình của họ như một biện minh đặc biệt cho một quyền lực được nâng cao một cách vững chắc. (Chỉ có vai trò không hoài vọng trong ‘Lâu-Đài’ là nàng Amalia. Nàng là một với người Lãnh Điạ Quan Sát Viên hầu như là những kẻ phản đối mãnh liệt nhất / The only character without hope in The Castle is Amalia. She is the one with whom the Land Surveyor is most violently contrasted).
Kafka từ chối thượng đế luân lý cao cả, hiển lộ, đạo đức, tin theo; những thứ đó đã buông lỏng trong đôi tay của Kafka. Ngu ngơ được thừa nhận, chấp nhận và rồi chính con người đã khước từ nó, nhưng rồi chúng ta biết những gì sẽ ngưng lại hiện hữu của ngu ngơ. Trong giới hạn của điều kiện con người, hoài niệm gì lớn lao hơn hoài niệm dành cho một cuộc vượt thoát trong điều kiện đó? Tư duy hiện hữu là điều mong đợi. Nhưng ở đây không phải là cơ hội để thay đổi tư duy. Thế giới ngày nay mọi thứ được ban cho và không cần phải giải thích, một cái gì vốn đã phì nhiêu đầy đủ giá trị của nó hoặc những gì thuộc trừu tượng siêu hình đều mang ý niệm trống rỗng; đúng nghĩa của nó. Trong bất cứ trường hợp nào, hoàn cảnh nào chúng ta thấy được những gì trong tập quán tư duy của Kafka đều chứa đựng trong hầu hết tác phẩm của ông: thật vậy; có thể là khả năng hiểu biết để suy luận như một tiến trình cố hữu từ ‘Vụ-Án ’ đến ‘Lâu-Đài’, từ Joseph K. đến Lãnh Điạ Quan Sát Viên K. chỉ là hai cột mốc đơn giản để tấn công Kafka. Cuộc đời có vô số hào phóng, vô số ngu xuẩn tất thảy là ý niệm của mất mát. Có lẽ nơi đây là bí ẩn của lòng kiêu hãnh khô khan vô vị (aridity)liên đới trong những tác phẩm của Nietzsche. Trong trục nối nầy, Nietzsche xuất hiện như vai trò của người nghệ sĩ, bắt nguồn một hiệu ứng vô biên thẫm mỹ ngữ ngôn của ngu ngơ, bởi lẽ đó; thông điệp cuối cùng của Kafka là ngơi nghỉ trong tình trạng không sinh sôi, chế ngự được sự trong sáng minh mẫn và phủ nhận sự cố chấp của bất cứ những gì dự phần vào siêu nhiên để lý lẽ. Kafka tiêu hủy bản thảo là lý do không ngoảnh lại...

    Tuy nhiên đây là một việc làm đi trước hoàn cảnh của Kafka, đồng thời dựng nên một khung cảnh trong những tiểu luận nầy. Chính nơi đây đem đến cho chúng ta một tư duy vốn chất chứa từ lâu không lối thoát; trong cảm nhận của ngữ ngôn điều ấy có thể nói rằng những gì xẩy ra trong từng nhân vật đều là những vai trò cần thiết. Trong mọi tình huống đưa ra vấn đề ngu ngơ là một tổng thể toàn bộ, cái nghĩa bí ẩn trong ‘Lâu-Đài’ là một thứ nghệ thuật tự nhiên mà trong đó như đã là cái mốc, đọc ở đây chúng ta bắt gặp K. một Joseph K hay một Lãnh Điạ Quan Sát Viên K. là một tương thức cho một cảm thức rung động với nỗi niềm kiêu hãnh để rồi thừa nhận những gì của Kafka. Có thể là lớn lao hơn cả. Nhưng cùng thời sẽ cảm thấy và chấp nhận cao cả cho việc ngu ngơ như tên đã gọi, có lẽ không tìm thấy ở đây nhưng có thể tìm thấy trong một khoảnh khắc bất chợt, trong khi ấy tạo được điểm dừng của những gì bi thảm xẩy đến. Con người luôn luôn nhìn vào hoài vọng. Cuối cùng của Franz Kafka là quay mặt như một lý lẽ để thối thác sự việc. Kafka không thể tin vào bản cáo trạng của ông là xấu xa, ghê tởm và một thế giới rối bời mà cố ngăn chận điều dám hoài vọng – his  unbelievable verdict is this hideous and upsetting world in which the very moles dare to hope.
Cho nên nói Kafka là nói cái phi lý, cái ngu ngơ, nói đến nỗi đau của đời người luôn bất an; chính nhờ khai thác tận cùng nhân tính đó mà biến Franz Kafka thành hiện tượng mà mỗi khi nói đến hiện tượng tức là siêu lý; nhất là hiện tượng văn học, một sáng tạo của nghệ thuật văn học. Ông viết như một sự vắng mặt, vắng mặt ở đây là cái không cần diễn đạt, cái không cần phải báo trước hay cái không cần phải dừng như trong ‘Vụ-Án’ và ‘Lâu-Đài’ ông diễn tả theo khuynh hướng ấn tượng hơn khuynh hướng hiện thực bởi; trong truyện của Kafka đã hiện thực của hiện hữu. Chính qui cách hàm chứa của Kafka là hiện tượng và canh tân văn học nghệ thuật. Tại sao? Kafka đưa nhân vật vào truyện như hồn ma bóng quế, đưa vào những gì ngu xuẩn không còn lối thoát và trở thành cơn mê. Từ đó cái hoài vọng trở nên một thứ luân lý vô lý, ngu ngơ vô lý quyện vào nhau biến dạng dưới một hình thức trừu tượng siêu hình. Đối tượng nghệ thuật văn chương  của Franz Kafka là nói lên mặt thực (bên trong)của con người; là những gì vừa hủ hóa vừa tha hóa, vừa cô đơn, vừa vắng bóng tựu chung tất cả nằm trong trạng huống bi thảm. Hai tác phẩm ‘Vụ-Án’ và ‘Lâu-Đài’ là nói lên mặt thực cô đơn, hoang mang, ngu ngơ và vô lý. Vì vậy hoài vọng là ao ước nhưng để rồi hoài vọng trở nên vọng hoài. Đó là cái vô lý ngu xuẩn vô biên. Đọc sâu vào hai tác phẩm nầy cho chúng ta lạc vào mê cung của huyền thoại dù là huyền thoại Hy Lạp mà Albert Camus chịu ảnh hưởng không ít của Kafka qua tác phẩm ‘The myth of Sisyphus’. Văn của Kafka có cái ảo và thực bởi không gian và thời gian trong truyện được nhìn qua nhân dáng, qua trang phục. Kafka viết ra được thời gian vì thời gian không màu, không sắc Kafka thực hiện như một siêu lý cho tiểu thuyết. Về sau chúng ta bắt gặp qua một số văn nhân như Balzac hay Steindal và họa như Picasso, Chagall ảnh hưởng phần nào của Kafka . Đó là hình ảnh hiện thực mà Kafka khai sáng, mở đường cho thế hệ sau một văn phong tân kỳ và hàm chứa hơn phải nói bằng ngữ ngôn thông thường như đã xẩy ra ./.

VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab. hoàn tất 6/2013)
* FRANKZ KAFKA : (1883-1924) Nhà văn Tiệp gốc Do Thái học và viết tiếng Đức. Sanh trong gia đình tiểu thương.Học luật 1906. Đổ tiến sĩ 1908. Sức khoẻ yếu. Sinh thời viết một số truyện ngắn. Hai tác phẩm tiểu thuyết đưa tên tuổi ông lên đỉnh cao trên văn đàn thế giới: Vụ-Án/The Trial 1925 và Lâu-Đài/The Castle 1926 và nhiều tác phẩm giá trị khác.Thi hài chôn cất ở Tiệp.

SÁCH ĐỌC:  -   THE MYTH Of SISYPHUS by Albert Camus .Penguin Book. UK. England 2000.
                       -    FRANKZ KAFKA: Tuyển Tập Tác Phẩm. NXB  Hội Nhà Văn. HNVN 2004
PHIM ẢNH/MOTION PICTURE:
-          The Castle (1968 German/Swiss). Maximilian Schell và Cordula Trantow. Đ/d Rudolf Noelte.
-          Kafka (1991 Mỹ) 21th Century Fox. Jeremy Irons và Theresa Russel. Đ/d Steven Soderbergh.