Nguyễn Thanh Văn
Tạm đặt tên cho phần bài mới xong, giờ xin có đôi lời phân trần trước. Chỉ một góc của chủ đề đã mang mang thiên địa, tốn giấy bút các bậc tiền bối có thực học và thâm tu xưa nay, những nhân vật mà thiếu họ những tay mơ như người viết khó lòng có tư liệu để đọc, học và múa may đôi tí. Cũng giải thích thêm rằng nói chuyện một truyền thống Phật giáo lớn có ảnh hưởng tới Phật giáo Việt Nam, nhưng thực ra chỉ giới hạn trong các tiểu mục mà tôi chủ quan dành ưu tiên (dù thực tế với góc độ tư liệu và trọng lượng vấn đề, mỗi tiểu mục cần phát triển thành một bài viết đầy đủ). Giới hạn đến mức độ đó vẫn tiếp tục quá sức vóc người viết và số trang giới hạn, nên lại thưa tiếp bài chỉ có ước mong khiêm tốn bàn qua, bàn sơ vài chỗ, ráng né điểm phức tạp, khi tự thấy rành rành quá sức mình, nên chọn cách đặt câu hỏi có khi lại học được nhiều hơn chăng. Riêng chút hương vị hý luận trong bài viết thì rõ quá rồi, chối sao đặng – bởi bản thân “tản mạn” đã là hý luận rồi! Có người khuyên dù bể học mênh mông chóng cả mặt, cứ chân thật mà viết, nếu nhân sự tào lao mình bày biện ra mà có bậc thức giả có thêm một tới hai gợi ý cũng thoả mãn. Hy vọng của tôi cũng chỉ tới đó.
Cái thứ hai cũng cần thưa là nếu đúng ý ban đầu của người viết thì khái niệm Thiền học (Trung Hoa) phải hạn chế trong nghĩa lý lẽ, giáo pháp làm cơ sở cho Thiền và Thiền tông, hiểu như một bộ phận của Phật giáo. Tuy nhiên, xét ra từ bao thế kỷ rồi từ thời Thiền tông nở rộ ở quê xứ Trung Hoa và đất Phù Tang, người ta đã dùng khái niệm Thiền học để chỉ Phật học, đại khái như nói Thiền môn là chỉ chùa chiền, nên lướt qua sự “cố chấp” – và cũng có cớ mà lập luận như ý đồ trước đó – để đi nhanh vào câu chuyện có khi dễ nghe hơn chăng! Dù thực tế làm chúng ta phải loay hoay, khó yên tâm: tình hình tông phái ở Trung Quốc không phải có ngay từ đầu, thậm chí suốt thời gian dài dễ đoán ra cả giới tu sĩ lẫn tín đồ còn chưa rõ ý nghĩa khu biệt giữa “Tiểu Thừa” và “Đại Thừa” và cá biệt các luận sư còn xác định sai gốc tông phái của một số Kinh nhất định – các từ “Tiểu Thừa”, “Đại Thừa” bỏ vào dấu kép vì cũng như nhiều người, người viết không tán thành cách gọi này. Và ngay trong lịch sử tông phái không phải Thiền tông có ngay vị trí lừng lẫy một cách quá dễ dàng (chưa tính tới nay, Thiền tông ngay trên đất Trung Hoa đâu còn vị trí ngày nào). Nói một cách thẳng thắn, ngay khi một tông phái thắng thế thì không có nghĩa Lý Nghĩa, Giáo Pháp thuyết phục được “đối thủ” và cũng không phải thu phục hết lòng người. Có thể mạnh dạn bàn thêm sự xuất hiện của tông phái, Pháp chủ, các Ôn, các Tổ không phải bao giờ cũng là điềm lành của Chánh Pháp, nếu không cũng có khi ngược lại. Vậy tạm tiếp cận linh động y như thực tế vốn đã như vậy: Thiền tông là Thiền tông, nhưng Thiền học vừa là cơ sở giáo pháp của Thiền tông vừa có nghĩa là Phật học nói chung.
Người Việt và nói riêng Phật tử Việt không thể tìm hiểu Phật giáo Việt Nam và lịch sử truyền Phật pháp ở Việt Nam mà không nghiên cứu chủ đề tương đương trên đất Trung Quốc. Chỗ cho rằng ta đã tiếp nhận Phật pháp qua các vị sư Thiên Trúc trước khi nhận từ nguồn Trung Hoa và việc nhấn mạnh Trung tâm Luy Lâu như một bằng chứng về thế mạnh của Phật giáo Việt trước Phật giáo Hoa xin có dịp bàn sau – và nếu còn dịp lạm bàn, người viết ngờ rằng nên tiếp cận đúng khách quan lịch sử và bản chất phi quốc tịch của Phật pháp và Phật giáo thì hợp lý hơn âm hưởng yêu nước yêu nòi, e không thích hợp (âm hưởng ở góc độ công-dân-Phật-tử, chứ không phải đáng hoan nghênh hơn là ở tư cách Phật tử hay tu sĩ). Nhìn chung tư liệu và cách nhận định của chúng ta về Phật giáo Trung Quốc xưa nay chủ yếu đều từ nguồn của giới nghiên cứu Trung Quốc, nếu không nói thêm là tư liệu ta có được cũng không đầy đủ, ít hệ thống và khi có chỗ mâu thuẫn nhau thì né tránh thảo luận và kết luận. Truyền thống người ta có tập quán lưu trữ tư liệu nghiêm túc – đạo cũng như đời –, có hệ thống, có văn bản nên việc học hỏi và dịch thuật các công trình của người là đương nhiên. Diện mạo của Phật giáo và lịch sử truyền bá Phật pháp ở đất Trung Hoa hình thành trước hết là tựa vào công lao to lớn, kỳ vĩ của giới dịch thuật với các tên tuổi quá quen thuộc: An Thế Cao, Cưu La Ma Thập, Trúc Pháp Hộ, Huyền Trang… Ở nước ta, từ ngày các dịch phẩm của Cư sĩ Lê Đình Thám, quý Thầy Thích Minh Châu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Quang, Thích Nữ Diệu Không, Thích Thiện Hoa, Thích Quảng Độ, Thích Thanh Từ… ra mắt cho tới các nguồn kinh luận gần đây hơn qua công phu dịch thuật của các tên tuổi quý Thầy Thích Tuệ Sĩ, Thích Đức Thắng, nhóm của Thầy Thích Hạnh Bình…, chúng ta đang chứng kiến hiện tượng có khí vị hứng khởi tương tự và tôi đoán rằng tình hình dịch thuật ở Việt Nam sẽ có cao trào và còn hưng phấn nhiều thập kỷ nữa.
Đã biết có sự đồng hoá hai khái niệm Thiền học và Phật học nói chung, nhưng để sát với chủ đề bài viết xin bắt đầu từ thời kỳ được cho là xuất hiện bộ mặt độc đáo của Thiền tông Trung Quốc với hai nhân vật gây chú ý không thể không nhắc: Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Năng. Tôi trình bày theo cách riêng của mình: điểm qua các thông tin đã quen thuộc ở xứ ta kèm vài nhận xét vắn tắt.
– Ngài Bồ Đề Đạt Ma tới Trung Quốc là chuyện có thực. Cuộc gặp gỡ với Lương Vũ Đế có thêu dệt thêm chi tiết là cái chắc, nhưng giới nghiên cứu thống nhất là chuyện có thực. Cũng được chấp nhận “có thực” luôn là một loạt các chi tiết có tính huyền thoại được chứng minh đã được thêm thắt dần dà về sau, không tính tới vài chuyện kết luận ngay được là giả mà việc có người gặp Ngài ngồi trên chiếc giày xuôi – hay ngược – về Thiên Trúc là một ví dụ.
Tiểu sử không được xác nhận trong hồ sơ lưu trữ của Công an Ấn Độ của Bồ Đề Đạt Ma xét ra không quan trọng, chẳng ảnh hưởng chi uy danh của Ngài vì bậc tu hành phiêu bạt cứu đời, độ tha sá chi trò hộ khẩu và KT3 kiểu chính quyền Hà Nội. Nhưng lý lịch gắn với vụ truyền thừa từ thời Đức Phật và Ngài Ca Diếp thì không ít nhà nghiên cứu Phật học Trung Hoa đặt vấn đề. Trong bộ sách công phu về Thiền học Trung Quốc (Lịch sử Thiền tông Trung Quốc, NXB Phương Đông 2016 – Việt dịch: Thích Hạnh Bình và nhóm học viên), Ngài Ấn Thuận lý giải rất rõ, các bạn quan tâm đề tài nên đọc. Sau đây tiện tôi nêu vài thắc mắc và nhận xét liên quan.
LIÊN QUAN CHUYỆN BÌNH BÁT – CÀ SA VÀ VIỆC TRUYỀN THỪA
*Chủ trương Trung Hoa hoá Phật giáo của người Trung Quốc nhiều người biết, nhưng đừng quên do những mặc cảm riêng, các luận sư và tu sĩ nội địa vẫn cố nối kết gốc gác với Đất Phật xa xôi để “dợt l’air” với hai đạo nhà: Lão và Khổng và mượn Ấn Độ cái mà tâm thức sử sách rạch ròi kiểu Chinois thiếu và khao khát bù trừ: vị huyền hoặc tâm linh. Khi có cảm giác chạm sĩ diện thì có huyền thoại khác lấp vào: Phật tổ chính là Lão Tử ta vân du Tây Phương (chỉ Ấn Độ) hoá thành, còn ai vô đó!
*Tầm cho ra máu mủ hoàng gia với Đức Giáo chủ là để hợp pháp hoá, ngán chi các đời sau và đám chi thứ và cũng là cách hoá giải mặc cảm của con cháu – xin lỗi, của cụ Tổ – của một người quen của văn hào Lỗ Tấn: đồng chí AQ.