Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Chặng Đường 20 Năm Của Một Bài Hát

Tần Hoài Dạ Vũ



Thuyền em đi trong đêm là ca khúc của anh Nguyễn Phú Yên, một ca khúc, tôi và bạn bè thường hát với nhau vào những ngày ở Huế . Tuổi trẻ đẹp, họ sống bằng chính trái tim mình, kẻ nào chà đạp vào trái tim của chính họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc.
Nguyễn Hòa vcv

Huế những năm sau 1963. Đó là những năm tháng các trường học mở tung các cánh cửa, những cuộc hội thảo tưởng chừng muốn vỡ tung các giảng đường, những bước chân tràn ra đường phố. Xuống đường! Sinh viên, học sinh trở thành những quả pháo nổ tung vào thành trì tư tưởng của kẻ thù. Những tờ báo in ronéo, typo liên tiếp xuất hiện, lan vào tận những con hẻm, ngõ phố, xóm phường lao động như: Việt Nam! Việt Nam!, Văn Hóa Dân Tộc, Việt, Hành Động, Một Chỗ Chung, Vận Động, Tự Quyết, Tiếng Gọi Học Sinh… Sài Gòn tiếp lửa cho Huế. Những bài hát từ phong trào sáng tác của SVHS Sài Gòn vang tới tận Huế và vang tỏa khắp nước.

Giữa năm 1969, người sinh viên Trường đại học Sư phạm Huế nhỏ con, mảnh khảnh, có cái tên rất hiền lành – Nguyễn An – ra trường. Giã từ giảng đường trường đại học đến với bục giảng của trường trung học, mang theo tất cả những tình cảm yêu nước nung nấu, lý tưởng đấu tranh cho Độc lập, Tự do sục sôi. Trong căn phòng trọ bên dòng sông Cà Ty (tỉnh Bình Thuận), ở đoạn sông chảy ngang qua Trường Dục Thanh, đối diện căn phòng trọ, người thầy giáo Nguyễn An, với bút danh Nguyễn Phú Yên, đã viết bài hát Thuyền em đi trong đêm.

Bài hát được viết bằng tất cả tình cảm trào dâng của một tấm lòng ngưỡng vọng dành cho những người đi kháng chiến hơn là bằng kỹ thuật chuyên môn của âm nhạc. Cấu tứ của bài hát là kết quả của những tháng năm thao thức, trăn trở, làm báo, xuống đường. Và được gợi tả bằng con nước của dòng Cà Ty. Con sông có đặc điểm ban ngày nước trôi về biển theo nhịp thủy triều, có đoạn sông phơi bày cả lòng cát đá, nhưng khi đêm xuống, nước sông tràn trề, dòng sông réo trào, man mác. Trên dòng sông ấy, có những chiếc thuyền con đánh cá về muộn, ánh đèn nhấp nháy như là những tín hiệu âm thầm. Từ đó Nguyễn Phú Yên liên tưởng đến những cô gái giao liên đang ngược dòng sông đi về chiến khu Tam giác sắt, nằm không xa thị xã Phan Thiết về hướng Tây. Ấy là những cô gái yêu người đi cứu nước vừa bằng tình yêu riêng tư vừa bằng tình yêu đối với cuộc kháng chiến gian lao và oai hùng của dân tộc.

Thuyền em đi trong đêm ra đời trước hết phổ biến trong phong trào sinh viên. Lớp trẻ bấy giờ đón nhận nồng nhiệt vì bài hát phù hợp với tình cảm, ước vọng chung; và hình tượng nghệ thuật được khái quát mang tính trữ tình, phù hợp với tính cách lãng mạn cách mạng của lớp trẻ ở đô thị. Bài hát được hát đầu tiên ở Huế, rồi ở Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn trong những lần “hát cho đồng bào tôi nghe”, trong những đêm không ngủ, đêm đốt đuốc soi mặt kẻ thù. Không thể không nhớ tới những giọng hát sinh viên học sinh đã từng biểu diễn bài hát như Phương Lan, Phương Bích, Vương Thị Trai (Huế), Xuân An, Kim Phương, Thúy Liên (Sài Gòn)… và còn biết bao anh chị sinh viên học sinh nữa mà có lẽ tác giả bài hát không bao giờ biết đến.

Bài hát Thuyền em đi trong đêm sau đó được in trong tập Đồng bào ta cùng hát do Tổng hội Sinh viên Sài Gòn xuất bản. Rồi Đoàn Sinh viên Vạn Hạnh tổ chức in lại ở Huế. Sau đó in trong tập Tiếng ca giữ nước (tập nhạc của Tôn Thất Lập và Nguyễn Phú Yên). Trong phong trào những năm tháng ấy, cùng với bài hát Công trường chiều nay (Nguyễn Phú Yên phổ nhạc thơ Võ Quê), bài Thuyền em đi trong đêm được hát trong các chương trình văn nghệ sinh viên phục vụ đồng bào các đô thị. Năm 1974, tại Tây Đức, nhóm sinh hoạt văn nghệ Cửu Long xuất bản đĩa hát mang tên Thuyền em đi trong đêm. Đĩa hát gồm ba bài của ba tác giả: Hoàng Vân, Tôn Thất Lập, Nguyễn Phú Yên; được gửi tặng Tôn Thất Lập trên đất Pháp. Còn tác giả Nguyễn Phú Yên, mãi đến năm 1978 mới được các anh chị sinh viên ở CHLB Đức dự Festival ở Cuba gửi tặng qua nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Năm 1986, Hội Liên hiệp thanh niên VN cho in lại tập bài hát Hát cho đồng bào tôi nghe, trong đó có bài Thuyền em đi trong đêm.

Đến nay bài hát đã trải qua chặng đường 20 năm, để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các bạn sinh viên hồi ấy. Trong điều kiện sinh hoạt mới, những bài hát trong phong trào sinh viên học sinh trước đây ít có dịp được hát lại cho các bạn trẻ hôm nay. Điều đó cũng khiến cho các bạn ít hiểu được tâm hồn của anh chị lớp trước đã suy nghĩ, hành động, đã sống như thế nào trong hoàn cảnh chiến tranh xâm lược, phải đấu tranh cam go với kẻ thù và với chính lòng mình.

Với tôi, Thuyền em đi trong đêm bao giờ cũng gợi lại những kỷ niệm đẹp, êm đềm của những năm tháng thanh xuân chẳng thể nào quên được. Nhân ngày 9-1, xin gửi những kỷ niệm về một bài hát 20 năm trước đến các bạn trẻ hôm nay như một lời tâm sự.

Nghe : Thuyền em đi trong đêm
http://www.youtube.com/watch?v=uuV5A3vIztc
Nhạc và lời: NGUYỄN PHÚ YÊN


Thuyền em đi trong đêm

Đêm nay, đêm nay có thuyền em đi
Thuyền trôi nhanh đến nơi đầu sông.
Đường đêm lấp lánh sao trời
Mà em vui vững lòng đi tới
Mong ước sao được thấy người.
Trên vai em đôi gánh quà tươi
Trong tim em bao nỗi niềm vui
Có mấy khi về đây!
Người em ước mơ
Ngày đêm chiến đấu
Dưới bóng ngọn cờ.
Có hay rằng một người
Trên dòng sông đêm reo cười
Thiết tha yêu người suốt đời
Đã vì dân mà hiên ngang đấu tranh.
Những bước chân anh in trên ruộng đồng
Những ngày nắng hồng
Những chiều gió đông
Reo mừng chiến thắng
Anh mới vừa lập công.
Và có em một lòng thương yêu
Đứng mãi bên đời anh đây!

vanchuongviet.org


































































































































Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Thơ Võ Công Liêm


          STARBUCKS
                                                                 gởi: Sâm Thương và Nguyễn Xuân Hoàng.

bầy chim sẻ gọi những đám mây mù một sáng mờ sương
về trẩy hội đêm trăng lẽ sự
vách núi tựa lưng đèo đứng đợi tượng đá khỏa thân sầu
dậy bình minh trong tôi một sớm nào
người ngồi lặng ngắm dòng sông chết
khói mơ màng là mộng ảo xa bay
mời anh
hay
tôi mời tôi
con chim cô độc nhảy chồm hỗm trong tách cà phê tôi
phơi thú yêu thương vào ngực thở phả hơi cay
nước chết mang mang thân phận đoái hoài loài virus không tên
tiếng ụ con tàu trôi đại dương xanh con cá heo hỏi tôi rằng:
năm tới ngày tháng nào hạnh đến thăm? chiụ!
nhắp một ngụm đen sì đắng vị mùa sang
ghế hoang
vắng ngày em tắm nắng
hóa thạch
đêm hiếp dâm tình cờ lên châu thổ đồng chua
tôi nhập cuộc một mình trong thung lũng cỏ ướt
em không đến
một ngày rất hoen sâu:
sa tầm sương thổi gió mây ngàn lữ
điếu vọng tàn cơn phủ ngập hóa sinh
sở thất về ngụ cõi ngân khoan mục
qụy chân vào ngã mạn có hề chi?
hoang lạc
tiếng kèn rít trong tôi chao nghiêng vực thẳm
starbucks! những vì sao vắng bóng

người về hay người đi giữa dốc đá miên man trốn gió
tôi lặng đứng
truy điệu
những trái tim đen một thời hoang phế
rướm máu .
VÕ CÔNG LIÊM  (ca.ab. 30/4/75-12)

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Cao Huy Khanh VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 – 2012: NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 110 – 16.4.2012 

1.101 - Phan Văn Tư
MẢNH ĐẠN NẰM TRONG PHỔI 36 NĂM
Nông dân sinh 1952 tại Vĩnh Long. Sống ở Vĩnh Long (2008).
     Không chỉ một mà tới 2 mảnh đạn nằm trong phổi 36 năm do năm 1972 đi phát cỏ làm ruộng thì bị trúng nhiều phát đạn vào ngực không biết từ đâu, của “phe” nào. Được đưa đi cứu cấp, chạy chữa xem như lành rồi.
     Nhưng không ngờ thực ra vẫn còn 2 mảnh đạn nằm sâu trong phổi không bị phát hiện. Mãi đến năm 2008 bản thân thấy bỗng nhiên hay đau ngực và ho ra máu mới đi khám bệnh chụp X-quang, bác sĩ viện quân y mới tìm ra 2 “thủ phạm giấu mặt” này. Được tiến hành giải phẫu an toàn. 

1.102 - Phi Nhung
HOÀI NIỆM ĐỜI MỒ CÔI
Ca sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Phạm Phi Nhung sinh 1972 tại Pleiku. Sống ở Mỹ (2012).
     Trước 75, mẹ lấy chồng Mỹ nhân viên dân sự sinh ra mình rồi cha bỏ về nước để lại 2 mẹ con bơ vơ. Sau đó mẹ lấy chồng khác người Việt sinh thêm 5 con.
     Năm 2000 mới 11 tuổi thì mẹ bị tai nạn qua đời nên 6 chị em phải qua sống nương nhờ nhà ông ngoại bà ngoại, riêng mình phải bỏ học ra ngoài đi làm thuê việc lặt vặt lấy tiền nuôi đàn em khác cha. 
     Đến năm 1989 một mình đi Mỹ theo diện con lai.
     Trên đất Mỹ bắt đầu làm nghề lao động chân tay vất vả để sống còn từ quét dọn vệ sinh, bồi bàn đến may vá, tiếp viên nhà hàng. Có tìm người cha Mỹ nhưng vẫn biệt vô âm tín.
Theo đạo Thiên Chúa nên có tham gia hát trong dàn đồng ca nhà thờ nhờ hồi trươc thường quen hát ru em ngủ. Qua đó ngẫu nhiên được 2 đàn chị ca sĩ Hươg Lan và Trizzie Phương Trinh phát hiện thấy mình có giọng hát khá tốt  nên hết lòng dìu dắt (bắt đi học thanh nhạc bài bản đàng hoàng), giúp đỡ cho bước vào nghề ca hát.
Từ năm 1993 dần có tiếng tăm trình diễn sân khấu, thu băng đĩa ăn khách và cả đóng phim nữa, có chỗ đứng trong làng ca sĩ hải ngoại.
Nhờ hát được cả tân nhạc lẫn cải lương, giọng ca buồn có nét riêng và đặc biệt chất trữ tình dân quê chất phát mà thật thà từ tiếng hát đến phong cách biểu diễn (mặc áo bà ba, đội nón lá…): “Tôi cũng thấy mình quê trong bản chất không thay đổi được. Lắm khi cũng tự an ủi thì quê cũng hay chứ có gì mà phải suy nghĩ!”
Nhưng ấy chính là “thương hiệu” của cô, gần giống như Hương Lan vốn là thần tượng thủa nhỏ của mình.
Làm được bao nhiêu tiền đều dành dụm gửi về nuôi các em, xây nhà cho các em ở Pleiku.
Năm 1998 trở lại quê hương lần đầu tiên, lên Pleiku thăm mộ mẹ và ông bà ngoại. Những lần về sau bắt đầu trình diễn sân khấu được nhiều người ái mộ.
Năm 2007 gặp một sự cố đời tư (bị lừa tiền, người yêu bỏ rơi…) làm suy sụp tinh thần phải nghỉ hát ba năm, còn tính đi tu nữa tưởng đã mất hết tất cả. May mà sau đó được bạn bè, đồng nghiệp động viên an ủi mới gượng dậy được để tiếp tục sự nghiệp.
Đến nay vẫn chưa lấy chồng để toàn tâm toàn ý lo cho các em. Không chỉ thế, còn nhận thêm 13 trẻ mồ côi làm con nuôi xây nhà ở Bình Phước cho ở chung.
Như một sự hoài niệm về thời thơ dại cùng các em phải sống đời mồ côi: “Tôi không nghĩ mình làm được điều gì lớn lao mà thấy đây là việc mình cần làm thôi. Cuộc sống của tôi vất vả nhưng cũng gặp được những tấm lòng thì mới có được ngày hôm nay.”

1.103 - Phương Hồng Ngọc
MỘT LẦN HỤT ĐI PHÁP
Ca sĩ Việt kiều Pháp sinh 1964 tại Cần Thơ. Sống ở Mỹ (2012).
     Trước 75 là nữ ca sĩ chuyên hát phục vụ thương bệnh binh VNCH trong phong trào “Em gái hậu phương”. Lấy chồng là diễn viên kịch nói Ngọc Đức sinh 2 con.
     Sau 75 tiếp tục ở lại TPHCM đi hát sô ở các tỉnh.
     Cha là người Việt lai Pháp (ông nội lính Pháp viễn chinh lấy vợ Việt rồi ở lại VN luôn) nên năm 1977 gia đình được phép về Pháp lại nhưng lúc đó mình đang đi hát xa nhà hay tin về không kịp nên đành phải ở lại.
     Đến năm 1982 mới được cha bảo lãnh cùng chồng con qua Pháp.
     Tại Pháp may mắn được đi hát phục vụ kiều bào nên sống cũng tạm được. Nhưng hạnh phúc gia đình lại đổ vỡ, ly dị chồng rồi lấy chồng khác cải đạo Công giáo, sinh thêm một con gái. Theo chồng mới chuyển qua Mỹ sinh sống.
     Từ năm 2001 thường xuyên về VN vì chồng có công việc đầu tư kinh doanh ở TPHCM. Nhân đó tham gia nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo, trẻ em khuyết tật nạn nhân chiến tranh…

1.104 - Ronald Humphrey
LÀM GIÁN ĐIỆP CHO CỘNG SẢN VN
Nhà báo Mỹ sinh 1936 tại Mỹ. Sống ở Mỹ (2012).
     Trong chiến tranh VN từng làm phóng viên ở VN, từ đó lấy vợ VN sinh 4 con.
     Trước 1975 trở về Mỹ thì VN giải phóng nên vợ con bị kẹt lại TPHCM. Tiếp tục làm trong ngành báo chí ở Phòng Thông tin Mỹ, viết bài thể thao cho báo The Seatle News. Lấy vợ Mỹ rồi ly dị.
     Năm 1987 bị FBI bắt giữ cùng với Việt kiều David Duong (Trương Đình Hùng, con của Trương Đình Dzu một chính trị gia đối lập chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu trước đây) vì tội gián điệp tuồn tài liệu mật về chính quyền Mỹ lấy từ Phòng Thông tin Mỹ cho cộng sản VN. Qua sự móc nối của Đại sứ VN ở Liên Hiệp Quốc và Đại sứ VN tại Pháp.
     Ra tòa năm 1982 biện hộ sở dĩ làm việc này để “trao đổi” với phía VN đáp lại bằng cách cho vợ con qua Mỹ đoàn tụ với mình. Lãnh án 15 năm tù.
     Tuy nhiên sau đó được giảm án ra tù sớm. Và vợ con ở VN cuối cùng cũng được qua Mỹ đoàn tụ. 

1.105 - Sơn Nam
NHÀ NAM BỘ HỌC “CHẬM MỘT CHUYẾN ĐÒ”
Nhà văn tên thật Phạm Minh Tài sinh 1926 tại Kiên Giang – Mất 2008 ở TPHCM (83 tuổi).
     Từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở quê nhà Rạch Giá, có lúc làm tỉnh ủy viên ở Phòng Văn nghệ Xứ ủy Nam bộ dưới quyền ông Võ Văn Kiệt (sau này là thủ tướng chính phủ thời Đổi mới).
     Nhưng 1954 không đi tập kết mà ở lại Kiên Giang rồi 1955 lên Sài Gòn bắt đầu theo nghiệp viết văn, viết báo.
 Đang làm báo thì do từng có quá trình hoạt động cùng cộng sản đánh Pháp nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm đưa vào sổ đen là thành phần bị nghi “thân Cộng”, vì vậy năm 1960 bị bắt giam ở nhà tù Phú Lợi tại Bình Dương.
Tuy nhiên sau khi điều tra kỹ thấy không có dấu hiệu “Việt cộng nằm vùng” gài lại miền Nam nên 18 tháng sau được thả về. Thực tế không hề nghe nói được Cộng sản giao nhiệm vụ gì ở miền Nam hoặc do bị “mất liên lạc” (?) nên không có hoạt động chống chính quyền.
Chỉ thấy từ đó tiếp tục viết báo chuyên tâm khai thác mảng đề tài lịch sử, văn hóa, phong tục, sinh hoạt dân Nam bộ mà bản thân mình gắn bó từ nhỏ (bút danh lấy họ Sơn là họ của bà mẹ nuôi người Khmer Nam bộ) qua sáng tác chủ yếu ký, truyện ngắn và bài khảo cứu. Nội dung gần gũi với cuộc sống người nông dân Nam bộ tay lấm chân bùn nghèo khó từ đời này qua đời khác: “Tôi là một đứa con có hiếu với dân ở dưới.”
Tất cả bài báo, sách in đều nói chuyện đời xưa đời nay chung chung với mục đích đề cao nền văn học dân tộc, văn hóa dân gian, văn hóa Nam bộ tránh đề cập đến vấn đề chính trị. Đồng thời giữ vững tư cách một “nhà báo tự do”, “nhà văn độc lập” không chạy theo chế độ VNCH cũng không tỏ ra thiên Cộng rõ ràng.
Lần lượt in nhiều tác phẩm giá trị: Sáng tác gồm “Hương rừng Cà Mau”, “Chim quyên xuống đất”, “Hình bóng cũ”, “Bà Chúa Hòn”…; khảo cứu có “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”… Văn phong độc đáo rặt chất Nam bộ dân dã mà tinh tế, sâu sắc.
Là người cầm bút chuyên nghiệp hoàn toàn sống bằng nhuận bút nên cảnh sống khá vất vả với gánh nặng gia đình nuôi vợ con. Bản thân người gầy còm đen đúa “xấu xí” giống hệt nông dân nghèo suốt đời chỉ đi bộ (không biết đi xe máy, có đi thì nhờ người khác chở) lang thang cả ngày ngoài đường lê la nơi này nơi nọ tìm chi tiết, đề tài, cảm hứng từ cuộc sống để viết. Từ đó có biệt danh “Nhà văn đi bụi”, “Ông già đi bộ”!
Sau 1975 gặp lại các đồng chí, bạn bè cũ một thời kháng chiến chống Pháp nhưng không được chế độ ưu ái vì xét ra chẳng có công trạng gì trong thời đánh Mỹ, nếu không nói là có khi còn bị nghi kỵ “hợp tác” với chế độ Sài Gòn! Bởi thế đã bị loại khỏi bộ “Từ điển Văn học” 2 tập đồ sộ in năm 1984, một thời gian dài vẫn nằm ngoài Hội Nhà văn VN!
Với thân phận “nửa nạc nửa mỡ” không phải Việt Cộng nằm vùng mà cũng không dính líu chế độ cũ nhiều thành ra như một thành phần nửa vời dở khóc dở cười. Đặc biệt về gia cảnh vợ con nheo nhóc càng gặp khốn khó hơn khi không có báo để viết kiếm sống nữa. Cả tủ sách làm tài liệu viết lách, nghiên cứu cũng bị vợ đem… bán ve chai! Khiến đôi khi không tránh khỏi ngậm ngùi rằng “Con người ta có khi chỉ chậm một chuyến đò, số phận đã đổi khác rồi!”
May mà còn cố nhân Võ Văn Kiệt bấy giờ là Bí thư Thành ủy TPHCM thông cảm thỉnh thoảng giúp cho cứu đói.
Cứ thế cho đến thời Đổi mới mới dễ thở hơn, bắt đầu từ việc năm 1990 được đạo diễn Pháp J. Arnaud trân trọng mời làm cố vấn về mặt lịch sử – phong tục cho bộ phim truyện “Người Tình” (phỏng theo truyện vừa của nhà văn nữ Pháp M. Duras thời trẻ từng sống ở Sài Gòn) quay năm 1991 ở TPHCM. Rồi được Bí thư Võ Văn Kiệt cấp nhà.
Từ đó được trân trọng mời tham gia các hoạt động lễ hội truyền thống, văn hóa dân tộc vùng đất phương Nam. Và viết báo, viết sách tiếp tục sự nghiệp phát triển văn hóa Nam bộ. Với một loạt tác phẩm: “Người Sài Gòn”, “Gia Định xưa”, “Bến Nghé xưa”, “Tục lệ ăn trộm” (khảo cứu); bổ sung truyện ngắn cho tập “Hương rừng cà Mau” (tổng cộng 66 truyện), “Một mảnh tình riêng”, “Dạo chơi”, “Hồi ký” (4 tập, sáng tác)…
Được một nhà xuất bản ở TPHCM mua bản quyền toàn bộ tác phẩm (hơn 40 đầu sách). Một truyện ngắn trong tập “Hương rừng Cà Mau” được đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh thực hiện năm 2004 sau đó đoạt nhiều giải thưởng cả trong lẫn ngoài nước.
Đường đời thăng tiến khá hơn nhiều nhưng cuộc đời riêng vẫn lận đận chuyện nhà không êm xuôi mát mái tới mức phải rời khỏi nhà đi sống nhờ ở một nhà văn hóa cấp quận cho đến cuối đời. Xui xẻo nữa năm 2007 bị tai nạn phải nằm liệt trên giường 2 năm trời đến khi qua đời không còn viết lách gì được nữa.
Thật lạ khi cả 2 nhà “địa phương học” hàng đầu cả nước – Sơn Nam nhà “Nam bộ học” và Nguyễn Văn Xuân nhà “Quảng Nam học” - đều phải trải qua một cuộc đời gian nan vất vả vì miếng cơm manh áo dưới cả 2 chế độ trái ngược nhau, đến cuối đời nếu có đền bù vật chất được đôi chút cũng không hưởng thụ được mấy! Thật là “số khổ” như người đời thường chép miệng thương cảm.
 Được tôn vinh là nhà Nam bộ học kiệt xuất hiếm có nhưng sau khi mất chỉ có một nhà lưu niệm tại Mỹ Tho do cô con gái sống tại đây tự đứng ra lập nên trong khi lẽ ra TPHCM nơi ông ngụ cư cũng là nơi thành danh hoặc quê hương Kiên Giang phải làm việc này. 

1.106 - Sơn Nguyễn
CẢI ĐẠO LÀM MỤC SƯ
Tu sĩ Tin Lành Việt kiều Mỹ tên cũ Nguyễn Sơn sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2009).
     Sau 75 vượt biên qua Mỹ.
     Học ngành điện toán ra trường hành nghề thành công.
Năm 1995 bị tai nạn ô tô làm hôn mê sâu suốt 2 tháng, một phần cơ thể bị liệt. Trong thời gian đó, người thân đã mời một giáo đoàn đạo Tin Lành ở địa phương đến cầu nguyện thường xuyên cho mình vượt qua được cơn nguy hiểm.
Kết quả cuối cùng được cứu sống, tỉnh dậy rồi tập luyện hồi phục. Từ đó mang ơn giáo đoàn nên tình nguyện cải đạo từ đạo Phật qua đạo Tin Lành luôn.
Ban đầu tham gia hoạt động trong các chương trình truyền giáo, xã hội của giáo đoàn. Dần dà tu học trở thành mục sư từ năm 2009 phụ trách giáo dân Việt kiều ở một quật hạt thuộc bang Florida.

1.107 - Tạ Chí Đại Trường
LẬN ĐẬN SỬ GIA
Nhà sử học Việt kiều Mỹ sinh khoảng 1944 tại Khánh Hòa. Sống ở Mỹ (2012).
     Cha là cựu tỉnh trưởng Bình Định nhưng sau đó chuyển qua đối lập chính quyền Ngô Đình Diệm.
Bản thân tốt nghiệp thạc sĩ sử ĐH Văn khoa Sài Gòn. Trong thời gian này bắt đầu viết bài về nghiên cứu tiền cổ VN rồi qua các đề tài sử học chuyên biệt trên tạp chí Bách Khoa được đánh giá cao với quan điểm dân tộc độc lập không theo trường phái nào với nhiều phát kiến độc đáo, sâu sắc qua lối viết hấp dẫn.
Năm 1964 bị gọi đi sĩ quan Thủ Đức, sau đó nhờ chuyên môn sử học nên được rút về bộ phận quân sử thuộc Bộ Quốc phòng VNCH. Tiếp tục phát triển viết báo, viết sách chuyên đề sử học.
Năm 1970 tác phẩm “Lịch sử nội chiến VN 1771-1802” được tặng giải thưởng quốc gia chế độ cũ.
Chuẩn bị làm luận án tiến sĩ thì Giải phóng 30.4.1975. Mang lon đại úy nên đương nhiên phải đi cải tạo. Trong lúc đó về mặt chuyên môn, cuốn “Lịch sử nội chiến VN 1771-1802” bị chế độ mới cộng sản “cấm” vì quan điểm đề cao triều Nguyễn mà “chê” triều Tây Sơn vốn được cộng sản ca ngợi là anh hùng khởi nghĩa nông dân chống phong kiến áp bức.
Ra tù, năm 1984 đi Mỹ diện H.O.
Trên đất Mỹ trong 10 năm đầu hầu như đành đoạn tuyệt với nghiệp sử gia để lo bôn ba làm đủ các nghề để kiếm sống đến độ có lúc đổ bệnh luôn.
Khi cuộc sống dần ổn định mới có thì giờ quay lại với nghề sử học. Lần lượt in các cuốn “Những bài dã sử Việt”, “Thần, Người và đất Việt”, “Sử Việt, đọc vài quyển”, “Người lính thuộc địa Nam Kỳ” (luận án tiến sĩ)… Có cộng tácvới Trung tâm nghiên cứu VN ở Mỹ biên soạn công trình “Lai lịch người Việt tị nạn”....
Năm 1992 trở lại quê hương trong bầu không khí Đổi mới, bước đầu làm quen với giới sử học tiến bộ miền Bắc (gặp nhà sử học quá cố Trần Quốc Vượng). Trở về viết cuốn “Một khoảng VNCH nối dài” năm 1993 và “Việt Nam nhìn từ bên trong” (viết chung với Nguyễn Xuân Nghĩa) năm 1994.
Sau đó nhiều lần về lại, chứng kiến một số sách viết ở Mỹ được in lại tại VN từ năm 2000, riêng cuốn nặng ký nhất “Lịch sử nội chiến VN1771-1802” đến năm 2007 mới tái bản trong nước.
Cũng vì thế bị giới chống Cộng hải ngoại phê phán “thân Cộng, bài Quốc gia”!
Năm 2010 gửi kiến nghị đến Quốc hội VN công nhận Nghĩa trang Quân đội VNCH (Nghĩa trang Biên Hòa) là Chứng tích lịch sử vì “Chế độ nào cũng qua, chỉ có đất nước là tồn tại”, ký dưới là “cựu sĩ quan VNCH”.
Một kiến nghị muộn màng hầu như bất khả thi bởi trước đó vào năm 2006 chính quyền VN đã quyết định chuyển quyền quản lý nghĩa trang này từ Bộ Quốc Phòng qua cho tỉnh Bình Dương, dân sự hóa nó (thân nhân được tự do thăm viếng, tu sửa) đổi tên thành Nghĩa trang Bình An (ghép tên tỉnh Bình Dương với tên huyện Dĩ An trực thuộc). 

1.108 - Tạ Tỵ
“ÔNG TỔ” HỘI HỌA LẬP THỂ CHỌN CHẾT TRÊN QUÊ HƯƠNG
Họa sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1922 tại Hà Nội – Mất 2004 ở TPHCM (83 tuổi).
     Thuộc thế hệ họa sĩ tiên phong của hội họa VN, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cùng các danh họa Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị, Văn Cao. Sau đó cùng tham gia kháng chiến chống Pháp.
Nhưng năm 1954 không ở lại miền Bắc mà theo dòng người di cư vào Nam.
Sống ở Sài Gòn, trở thành sĩ quan quân đội VNCH ngành tâm lý chiến.
Trong thời gian này tích cực sáng tác mở đường cho khuynh hướng vẽ tranh lập thể theo trường phái đại danh họa Tây Ban Nha Pablo Picasso tạo nhiều tiếng vang trong nước và quốc tế. Sau đó chuyển qua khuynh hướng hội họa trừu tượng. Còn vẽ ký họa rất tài hoa. Được xem là họa sĩ có tranh bán đắt giá nhất thời này.
Ngoài ra còn làm thơ, viết truyện, bút ký, kịch nhưng không đạt thành tựu bằng hội họa.
Ngày Giải phóng mang lon trung tá chiến tranh chính trị nên phải đi cải tạo. Sau khi được trả tự do đã vượt biên qua Mỹ năm 1982.
Trên xứ người tiếp tục vẽ trong đó có tác phẩm mang dấu ấn thời cuộc “Những mảnh đời tị nạn”.
Năm 2002 quyết định quay về nước an dưỡng tuổi già được 2 năm thì qua đời.
Cả Bảo tàng Mỹ thuật VN lẫn Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM đều mua và lưu giữ tranh của ông trong đó có bức “Cất cánh” vẽ năm 1972 được xem là bức sơn dầu lớn nhất bảo tàng.

1.109 - Tạ Văn Hinh
CHỮ “NHẪN”
Doanh nhân sinh tại Hà Tây. Sống ở Hà Tây (2008).
     Đi bộ đội vào Nam chiến đấu ở Tây Nguyên, bị nhiễm CĐDC mà không biết,
     Sau chiến tranh xuất ngũ về Hà Nội làm công nhân công ty. Lấy vợ sinh 5 con đều mắc bệnh trầm kha lúc đó mới biết là do di chứng từ chất độc này. Đứa con đầu lòng mới 2 tháng tuổi đã bỏ bố mẹ ra đi, 4 đứa còn lại thì 2 em bị bệnh động kinh kèm chứng bại liệt teo cơ và 2 em trí óc chậm phát triển.
     Dù vậy vẫn cắn răng chịu đựng tìm cách làm ăn vươn lên mới có tiền lo cho đàn con bệnh tật. Từ đó quyết định xin nghỉ làm công nhân quay về làng lập hợp tác xã tự mình làm chủ mới có điều kiện phát huy hết khả năng và giấc mơ ấp ủ. Tự tay viết một chữ “Nhẫn” thật lớn dán lên tường trong phòng khách lấy đó làm lời nhắc nhở, động viên mình luôn cố gắng kiên trì nhẫn nại chấp nhận giấu nỗi buồn con cái để giữ vững tinh thần đấu tranh với số phận vượt lên hướng về tương lai tươi sáng hơn.
     Học tập kinh nghiệm các mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ thành công thời kỳ này mới đưa hợp tác xã chuyển nghề từ nghề làng truyền thống chuyên đan lát bò cót qua nghề đan mây tre lá hợp thời hơn. Hồi đầu dân làng chưa quen nên gặp khó khăn, vất vả nhưng vẫn kiên trì nỗ lực dần dà tự khắc phục, cải tiến nâng cao tay nghề làm ra sản phẩm bán chạy có thu nhập ổn định cho hơn 300 công nhân. Hợp tác xã được nâng cấp lên thành doanh nghiệp tư nhân.
     Từ hoàn cảnh bản thân đã tập hợp trẻ em khuyết tật ở địa phương về truyền nghề miễn phí rồi thu nhận vào làm.
     Tất cả thành công quy vào một chữ “Nhẫn” là bí quyết sống rút ra từ nỗi đau riêng chua xót phận người: “Hoàn cảnh gia đình mình như thế, nếu không nhẫn nại chắc tôi đã buông xuôi mọi thứ từ lâu rồi.”

1.110 - Tap Van Pham
NHÀ BÁO BỊ ĐỐT CHẾT
Nhà báo Việt kiều Mỹ tên cũ Phạm Văn Tập sinh 1939 tại VN – Mất 1987 ở Mỹ (48 tuổi).
     Đến Mỹ sau 1975 do cha bảo lãnh nhưng mẹ và 2 em gái còn ở lại. Năm 1981 vợ lập ra tạp chí “Mai”ở California, chồng làm chủ bút.
Tuy báo này chỉ chuyên về văn nghệ giải trí nhưng năm 1987 chủ bút lại chủ trương không đăng quảng cáo cho các tổ chức chống Cộng, ngược lại cho đăng thông tin các công ty ở Canada làm dịch vụ chuyển tiền và du lịch về VN. Có lẽ vì lý do đó mà tòa báo đã bị phe phái chống Cộng ném bom xăng vào trụ sở báo bốc cháy khi ông đang ngủ nên bị ngộp khói chết.
Sau đó tổ chức “Diệt Cộng Hưng quốc Đảng” (VOECRN) gửi thư đến báo Người Việt công khai thừa nhận mình là thủ phạm đốt toà báo nhưng không hiểu sao cảnh sát Mỹ vẫn nói điều tra… không ra thủ phạm!
Báo “Mai” vẫn tiếp tục ra do bà vợ và con gái điều hành.
(Còn tiếp)            

 http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hosohauchienky110

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

Đọc Nguyễn Bắc Sơn

Nguyễn Bắc Sơn


Đặng Tiến












Đọc lại thơ Miền Nam, ba mươi năm sau ngày chiến tranh kết liễu: 
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi

Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm

Đốt tiền mua vội một ngày vui.

Đây là một đoạn thơ Nguyễn Bắc Sơn đã từng làm xao xuyến dư luận khi xuất hiện trên báo giới Sài Gòn khoảng 1970, như trên tuần báo Khởi Hành của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều người đọc, nhất là giới thanh niên, ngạc nhiên và sảng khoái trước những lời thơ ngang tàng, bi tráng, ý thơ u uất, kiêu bạc, bất cần đời. Câu thơ phơi trải tâm trạng một lớp thanh niên Miền Nam, vào thời điểm quyết định của chiến tranh — và từ đó — làm chứng từ cho một khía cạnh của cuộc chiến kéo dài non hai mươi năm.
Tâm trạng kia và chứng từ nọ đã được ghi lại trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi xuất bản năm 1972 1 thời đó đã ít người được đọc trực tiếp nguyên tác ; bây giờ dĩ nhiên là tuyệt bản. Năm nay nhiều cơ quan tổ chức kỷ niệm ba mươi năm chấm dứt chiến tranh (1975-2005), tưởng cũng nên đọc lại chứng từ Nguyễn Bắc Sơn. Thì may thay, các bạn ở nước ngoài đã sưu tầm và tái bản tập thơ để tặng biếu bạn bè. Đây là một việc làm cao đẹp, đi từ tình bằng hữu thủy chung và nồng nhiệt đến việc bảo tồn văn học lâu dài, bên ngoài mọi ý đồ chính trị. Thậm chí cái năm 2005 kỷ niệm này có lẽ cũng chỉ là tình cờ so với việc tái bản. Việc làm như thế đáng được giới thiệu rộng rãi và nhiệt thành cổ vũ.2
Nhiều người nhớ đoạn thơ nói trên vì tâm tư một thời đại, nhưng nó tồn tại lâu dài trong tâm thức người đọc là nhờ giá trị nghệ thuật — bên cạnh giá trị lịch sử mà không ai chối cãi. Điển hình cho thi pháp Nguyễn Bắc Sơn là từ vựng: câu đầu trên 7 chữ, đã có 5 từ diễn tả niềm hoang mang trước cuộc sống mỏng manh, bao quanh một chủ từ «ta» phù du hiu hắt ; «mai» là cuộc sống đếm từng ngày ; động từ «đụng» vừa chủ động: có đi mới đụng, vừa thụ động vì có tính cách tình cờ, tai hại ngoài ý muốn: «anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay». Người lính đụng trận như người thường đụng xe, đụng mưa; bình thường, chính xác hơn, người khác sẽ nói: đụng giặc, đụng địch. Nhưng trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không thấy có đối phương. Trong câu sau Sông Mao là một thị trấn nổi danh vì chiến tranh: từ 1955 Sư Đoàn 5, người Nùng đóng ở đó, với khu gia binh di cư vào, và đời sống mang sắc thái riêng, về sau là các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Do đó địa danh Sông Mao, tự nó đã có âm hưởng chiến tranh, và quả thật nơi đấy «có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính» (tr. 11) như lời thơ Nguyễn Bắc Sơn.
Nói phá phách chơi là phách lối chơi, nói cho hả, nói cho đã, chứ Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì Địa phương Quân «hiền khô, lính cậu» thì sức vóc bao nhiêu mà phá phách, nhưng giọng thơ ngang tàng ở đây pha lẫn một ít Lương Sơn Bạc, Tiếu Ngạo Giang Hồ với tính cách lê dương mà tác giả, sinh năm 1944, còn ghi trong ký ức; «đốt tiền» cũng là lối nói ngông, như Nguyễn Bính «tiêu hoang cho đến hết», nhưng chữ «đốt» ngông cuồng, nóng nảy hơn, phục vụ đắc lực cho ý đồ «mua vội một ngày vui» với những âm môi m, v mấp máy và luyến láy, như hấp ta hấp tấp. Tâm tình tác giả buồn vui lẫn lộn, mâu thuẫn: chia sớt nỗi buồn nghĩa là nỗi buồn tràn bờ, nỗi buồn hiện hữu làm căn bản cho cuộc sống. Sau trận đánh còn sống, tự thân nó, chưa phải là niềm vui, cho nên phải đốt tiền để mua vui. Ở một bài thơ khác, tác giả nói rõ:
Một trẻ con mới sinh
Chắc gì là một điều đáng vui

Một người chết

Chắc gì đã là điều đáng tiếc
(tr. 25)
Một câu thơ khác, hào sảng, bi tráng hơn:
Đời mình như ly rượu cạn,
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày
(tr. 58)
Hắt toẹt là một hình ảnh khinh bạc chưa từng thấy trong thơ Việt Nam.
Đời đáng sống hay không đáng sống là câu hỏi đã ngàn năm của loài người. Nhưng ở mỗi thời điểm nó dấy lên nét bi đát riêng. Vào khoảng 1970 hơi thơ Nguyễn Bắc Sơn tính phi lý và bi kịch đã được chiến tranh, vào giai đoạn cuối, nâng tầm lên cao điểm.
Có nhiều lối nhìn khác nhau về bản chất cuộc chiến, thịnh hành nhất vẫn là lối nhìn từ bên chiến thắng. Đây là cách nhìn của Nguyễn Bắc Sơn:
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí

Lũ chúng ta sống một đời vô vị

Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau

Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu

Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc.

Đây là trò chơi súng đạn, sống chết và hai đối thủ xem nhau như cừu thù:
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu

Ta vốn hiền khô ta là lính cậu

Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo

Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo

Xem cuộc chiến như tai trời ách nước

Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước

Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi..

Đây là kinh nghiệm đánh chác:
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây, hãy ngắm mây trời

Hãy tưởng tượng mình đang đi pic nic

& Lúc này đây ta không thèm đánh giặc

Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc

Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh.

(Trích từ bài Chiến Tranh Việt Nam và Tôi,
tr. 38)
Sau cuộc chiến, nhà thơ Cao Tần di tản sang Mỹ, hồi tưởng lại đời lính, cũng chẳng khác chi Nguyễn Bắc Sơn:
Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai

Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý

Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai

(Cảm Khoái, 1977) 3

Nguyễn Bắc Sơn không lừng khừng triết lý, mà để hồn mình bay bổng ra khỏi nhân gian:
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù

Chợt thấy trong lòng mình bát ngát

Nỗi buồn sương khói của mùa thu

Khổ thơ này cũng như đoạn «mai ta đụng trận» trích ở đầu bài nằm trong một bài thơ mang tên Mật khu Lê Hồng Phong, một chiến trường ác liệt, chạy dài khoảng 40 cây số dọc biển, từ Phan Thiết đến Phan Ri. Nơi đây, năm 1970 đã xảy ra nhiều cuộc ác chiến — phần nào để giải tỏa bớt sức ép của chiến trường Căm-Pu-Chia vừa mới mở ra. Trước trận Sông Mao này không lâu, thì Thiện Giáo, 1969, cũng là chiến trường ác liệt.
Chiều Thiện Giáo hồn mình đầy bóng núi
Con đường mìn ươm vết máu đơm khô 

Nhưng nhà thơ «lao đao» vì bị lắc lư trong trực thăng nhiều hơn vì lo toan về chiến cuộc, vẫn thả hồn phiêu lãng:
Đêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay

Đâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc

Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say 

Và anh ngờ vực viễn tượng hòa bình — trước sau gì cũng phải đến với hòa hội Paris đang hứa hẹn:
Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể mừng vui khi tiếp rước hòa bình

Đêm đen quá dài nên người quá khác

Không thể nào tin sẽ có bình minh

Hai ông Sơn Trịnh và Sơn Nguyễn, cùng thế hệ, cùng tâm trạng nên có nhiều ý tưởng hao hao. Trịnh Công Sơn, 1968, cũng có hát: đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui? Do đó, Nguyễn Bắc Sơn giữa chiến trận ngâm thơ cùng đại bác, đồng thời cũng lắng nghe:
Chảy trong lòng men nhạc Trịnh Công Sơn
Đêm không ngủ trong những ngày bão táp

Ôi những ngày máu ứa xác quê hương…

Tôi hởi tôi xin đừng chết nhé

Bóng hòa bình thấp thoáng ở miền Nam.

(tr. 45)

Thơ trích từ bài Nhắc đến Ma Lâm, một thị trấn gần Phan Thiết, địa danh nghe ma quái như con sông Ma Hý gần đó:
Buổi chiều uống nước đồng Ma Hý
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh

Câu thơ nghe rờn rợn: Thằng Xuân, thằng Mang Khinh là ai? đồng đội hay đối phương? quan hệ thế nào với tác giả? Chữ “thằng” nghĩa là gì? bắn chết trong hoàn cảnh nào? Ở đây, sao cái chết dễ dàng quá, như trong một bài hát “chết chẳng hẹn hò, chết thật tình cờ, nằm chết như mơ”. Câu hát Sơn Trịnh là một hình ảnh văn học, ví von đúng quy cách, người nghe nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa mà không thắc mắc. Trái với câu thơ Sơn Nguyễn trần trụi, bất ngờ. Bản thân tôi có kinh nghiệm đọc thơ, cảm nhận bi kịch trong câu thơ và nhận diện được câu thơ hay, mặc dù (hoặc bởi vì) không hiểu cặn kẽ ý nghĩa cụ thể của sự kiện được tường thuật. May mắn là được tác giả kể lại câu chuyện. Trong một cuộc hành quân cấp đại đội, anh đi làm thông dịch cho cố vấn Mỹ; đến một con suối thì dừng quân xuống tắm. Mang Khinh là một đồng đội gốc Chăm đứng chơi trên bờ. Xuân là trung đội trưởng, nghe thấy hay nhìn thấy động tĩnh gì đó, bèn lia một tràng đạn về phía khả nghi. Mang Khinh đứng chơi lớ ngớ bên bờ suối lãnh đủ băng đạn. Nhà thơ bơi nhởi trong lòng suối thì không việc gì, bàn luận về tử sinh, trong hai câu tiếp theo:
Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình.

(tr.37)

Bài Thảo Khấu này, câu kết thật hay, bình thường nhưng thấm thía vì nhân đạo, nhưng cũng vì những cái chết phi lý mà Nguyễn Bắc Sơn đã kể ra tưng tửng:
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà

(tr. 37)

Nhạc Trịnh Công Sơn được người đời đặt tên là phản chiến. Nguyễn Bắc Sơn thẳng thừng tự xưng mình như vậy:


Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu
(tr. 32)

Bài thơ mang một tiêu đề tiêu biểu: cười lên đi tiếng khóc bi hùng.
Lý do phản chiến thì nhiều: có khi vì lý tưởng hòa bình cao đẹp, có khi vì quan điểm chính trị, có khi vì sợ chết, sợ khổ. Nơi Nguyễn Bắc Sơn có thể còn lý do riêng: thân phụ anh đi kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Có thể ông lại vào Nam chiến đấu, và khách quan, có khả năng là đối tượng trước mũi súng Nguyễn Bắc Sơn, và anh khó bề dễ dàng, an nhiên “nhắm thẳng đầu thù mà bắn” như một khẩu hiệu có từ 1964.
Trong thực tế, ông cụ đã vào Nam chiến đấu “phía bên kia”, cùng trong một địa bàn với con, ở cương vị phó chủ nhiệm cục chính trị quân khu 6. Trung ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa có lẽ cũng biết được nên đã đưa Nguyễn Bắc Sơn ra đơn vị chiến đấu. Sau ngày kết thúc chiến tranh, người cha đã trở về đoàn tụ với gia đình, trên cấp bực đại tá quân đội nhân dân. Ông có bao che cho con cái và bạn bè của con, trong cùng cảnh ngộ, như Lê Mai Lĩnh bị tù cải tạo đến cuối 1983, gần đây còn chân thành kể lại.4
Ông cụ qua đời trong một tai nạn xe hơi đã gây nhiều nghi vấn. Nguyễn Bắc Sơn có làm bài thơ nhớ bố:


Bố tôi qua đời đúng năm năm
Tôi viết thơ này

Để tâm sự cùng người khuất núi

Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng

Và thế là ông từ tuổi thanh xuân

Cùng bạn bè đi làm cách mạng

Ông càng làm cách mạng chừng nào

Thì loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người

Tôi càng ca tụng chừng nào

Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.

Bố ơi bố đã ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bịnh
Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm lòng son

Thành hay bại chỉ là chuyện vặt.

(Trích theo Lê Mai Lĩnh, số báo đã dẫn)

Cái chết của Mang Khinh và hoàn cảnh bố con Nguyễn Bắc Sơn nhắc lại một câu chuyện Võ Phiến kể, cũng trong năm 1972, trong đó anh tóm tắt số phận người dân Việt Nam trong ba mươi năm chiến tranh, qua cái chết của hai anh em nhà kia, trong một câu súc tích, ngắn gọn đến tàn nhẫn “kể chết do cối, người chết do câu”5. Câu chuyện như sau: có hai anh em nhà kia, người anh đi dân vệ ở trong đồn, chết vì đạn súng cối bên ngoài nả vào, gọi là “mọt thụt” ; đứa em nhỏ lui cui trong vườn trúng đạn trọng pháo trong đồn “câu” ra. Rồi Võ Phiến thắc mắc: kẻ chết do cối người chết do câu, đố ai biết được giữa địch ấy và ta ấy, có cái gì khác nhau trong “tư tưởng”. Nhưng không phải vì lẽ không tìm được sự khác nhau mà bà con trong làng không giết nhau. (bài đã dẫn).
Võ Phiến là nhà văn chững chạc, lập trường kiên định, không giống Nguyễn Bắc Sơn, kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đãng ; nhưng cái nhìn về cuộc chiến, trên cơ bản, không khác nhà thơ. Vì vậy, từ 1970, Võ Phiến đã có bài giới thiệu thơ Nguyễn Bắc Sơn trên báo Bách Khoa, số Xuân Canh Tuất, 1970, in lại trong Chúng Ta Qua Cách Viết, 1972. Năm 1994, ở Mỹ, anh còn viết bài ca ngợi thơ mới làm sau này của Nguyễn Bắc Sơn mà dường như anh không quen biết.6


*


Chiến tranh, sau này ta mới biết, để lại những vết thương nan y, trên cơ thể và trong tâm hồn. Không cứ gì ở Việt Nam mà còn hoành hành nhiều nơi khác trên thế giới. Nguyễn Bắc Sơn đã tiên cảm được điều này:


Ta mắc bệnh ung thư thời chiến
Thoi thóp còn một trái tim khô

Sợ hãi con người hơn thú dữ

Nhìn nơi nào cũng thấy hư vô
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
Ta chắc rằng không thể yêu ai

Nhà thương điên nếu còn chỗ trống

Xin chiếc giường cho xác tàn phai.

(tr. 52)

Nhưng rồi chiến tranh kết thúc, nhà thơ vẫn sống bình thường, bên cạnh vợ con, trong ngôi nhà xưa, thành phố cũ là Phan Thiết:




Ta may mắn tay chân lành lặn
Nhưng tâm hồn trống rỗng bơ vơ

Mỗi ngày chữa bệnh bằng ly rượu

Tối nằm đánh vật với cơn mơ.
(tr. 51)

Thỉnh thoảng trong đêm mù thác loạn, Nguyễn Bắc Sơn có những cơn khủng hoảng, nghe đâu có nhảy lầu tự tử hụt đôi ba phen. Nhưng thơ anh, như bài Tâm Hồn Trẻ Thơ kể chuyên đi hớt tóc, làm khoảng 1990, vẫn còn hào khí sung mãn, đoạn cuối thanh thản:


Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta

Khi về râu tóc còn nguyên vẹn

Một ngày loáng thoáng một ngày qua.

Một đứa trẻ con, một Lão Ngoan Đồng nào đó, hay sao Thiên Đồng đã cứu mạng Nguyễn Bắc Sơn, và giải thoát nhiều người trong mỗi chúng ta.

*
Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, Hàn Mạc Tử nói thế, chắc cũng là cao hứng, nhưng câu thơ gợi lên một chân lý thâm hậu. Thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng như bất cứ dòng thi ca nào đều có cội nguồn, đều đón nhận những mạch nước gần xa. Nguyễn Bắc Sơn suốt đời quanh quẩn trong quê nhà Bình Thuận, hành quân, đánh chác loanh quanh những Sông Lũy, Ma Lâm. Về mặt địa dư nguồn thơ hào sảng, ngang tàng, gần anh nhất là bài thơ Tống Biệt do Phan Khôi trích dẫn của một thi nhân Bình Thuận:


Trái mù u trên núi
Chạy xuống cửa Phan Rang

Ông đi về ngoài nớ

Trong lòng tôi chẳng an.

Bao giờ ông trở vô

Gặp tôi ở giữa đàng

Nắm tay nói chuyện chơi

Uống rượu cười nghênh ngang 

Phan Khôi không tiết lộ tên tác giả, đời sau cứ xem như là thơ Phan Khôi, vì giọng thơ ngang tàng giống ông.
Bài thơ tân kỳ, hào hứng ; từ vựng hồn nhiên, mới mẻ, nhịp thơ phóng túng, nhanh nhẹn, khí thơ đi liền một mạch ; thơ làm vào những năm 1930 mà ngày nay ta vẫn thấy mới lạ. Và cái hào khí ở đây không khỏi nhắc ta nhà thơ Bình Thuận Nguyễn Bắc Sơn.
Lần lên xa hơn nữa, theo lịch sử thì thơ cổ Trung Quốc đã có truyền thống trầm hùng, nhiều trước tác về chiến tranh như bài Văn điếu Chiến Trường Cũ của Lý Hoa, đầu đời Đường, nhưng được truyền tụng nhiều nhất là thi phẩm của Phái Biên Tái như Sầm Tham, Cao Thích. Gần Nguyễn Bắc Sơn nhất là bài Lương Châu Từ của Vương Hàn:


Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi


Phỏng dịch:
Rượu hồng đêm ngọc chén lưu ly
Men bốc tỳ bà ngựa dục đi,

Dặm cát say khoèo ai chớ riễu

Những bao chinh chiến những ai về. 

Nguyễn Bắc Sơn cũng có tâm tình na ná:


Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoáng đã ở phương Tây

Nếu ta lỡ chết vì say rượu

Linh Hồn chắc sẽ thành mây bay

(Mật khu Lê Hồng Phong)

Thơ chinh chiến của cổ nhân là thơ quan quyền; ra quân phải có nhạc tỳ bà trên lưng ngựa; rượu thì phải Bồ Đào. Thơ Nguyễn Bắc Sơn là thơ lính, ra quân không đua đòi Mỹ Tửu nhưng phải có “đế Nùng” đặc sản do người Nùng địa phương Sông Mao sản xuất từ các trại gia binh.


Khi tao đi lãnh khẩu phần
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao

Chúng mình nhậu để trừ hao

Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng

Mùa này gió núi mưa bưng

Trong lòng thiếu rượu anh hùng nhát gan

Mùa này gió bụi mưa ngàn

Trong lòng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà
(Một Tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân)

Ý thơ bình dị, lời dân dã, nhưng vẫn một giọng ngông nghênh, phúng thế và khắc họa một hình ảnh trong tâm lý thời chiến.
Trong dòng thơ Việt Nam, tác gia gần Nguyễn Bắc Sơn nhất có lẽ là Tú Xương, với lối thơ ông tớp rượu vào ông nói ngông. Tú Xương dùng thể tự sự, tự riễu mình để mô tả thời thế. Lời thơ chua cay, khinh mạn:


Hán tự chẳng biết Hán
Tây tự chảng biết Tây

Quốc ngữ cũng dốt đặc

Thôi thì về đi cày
Trồng khoai rồi trồng đậu
Cấy chiêm lại cấy mùa

Ăn không hết thì bán

Bán đã có Tây mua.

Được tiền thì mua rượu
Rượu say rồi cưỡi trâu

Cưỡi trâu thế mà vững

Có ngã cũng không đau. 

Từ cách xử lý cuộc đời, lối nhìn vào xã hội, đến cách sử dụng ngôn ngữ, Tư Xương báo trước một Nguyễn Bắc Sơn, “thằng ta đây”:


Bạn mày nằm nhà thất nghiệp dài
Mẹ già không tính tiền cơm thuốc

Ngày xưa văn nghệ ta mê làm

Cách mệnh còn hăng say vượt bực

Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền

Nhân nghĩa gì gì quên tuốt luốt

Thèm tiền song quả đứa vô tài

Nên thằng ta đây chỉ có nước

Mỗi tuần một vé số mười đồng

Thê thảm ôi làm sao tả được

Hai ta cùng quẩn như thế này

Nhắc làm chi nữa cho tủi nhục

Vậy xem như mình đã chết rồi

Chí lớn mộng to đều đã vứt

Quên trời quên đất quên luôn ta

Dăm đồng rượu trắng cùng say khướt

(Bài Hát Khổ Nhục, tr. 56)

Bạn ở đây là một người lính từ chiến trường về: thất thểu chỉ còn xương với cốt / chinh chiến sao mày không chết tốt.
Trong văn chương truyền thống, tình bạn thường là quan hệ trí thức: tri âm như Bá Nha, Tử Kỳ, tri kỷ như Montaigne, La Boetie, khoa giáp như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê. Dù có phải bưng thúng theo đàn bà, thì Nguyễn Vỹ và Trương Tửu vẫn tự hào về nghề văn nghiệp bút. Gần Nguyễn Bắc Sơn hơn, Hoàng trúc Ly có viết Ngươi bên chân trời đánh giặc mướn / Ta theo cuộc đời đi viết thuê thì hành trạng, hành trang vẫn trí thức.
Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tình bạn không có quy chế xã hội, bạn bè là một lớp bụi đời, bên lề xã hội, bên lề đường chinh chiến, như hạt bụi nằm con gió trớt. Họ là những mảnh vỡ mà cuộc đời vun lại bên nhau:


Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời

Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn

Để quàng vai ấm áp cuộc rong chơi

(Mai sau dù có bao giờ, tr. 30)
Thậm chí tình yêu cũng vậy, nó nằm ngoài quy chế văn học dù truyền thống hay lãng mạn, tân thời:
Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta lại yêu em ?

Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột

Ta quàng xiên nên đã sa chân

Chuyện tình yêu bẫy chuột này trích từ bài Trên đường tới nhà Xuân Hồng, tức là phu nhân tao khang của nhà thơ từ xưa đến nay.
Trong dòng thơ ngang tàng trước Nguyễn Bắc Sơn phải nhớ Độc Hành Ca của Trần Huyền Trân làm năm 1940:


Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao

& Đưa nhau qua bữa cơm nghèo

Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười

Vung tay như vạch ngang trời

Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư

Trong trường phái khí phách giang hồ này Thâm Tâm có bài Tống Biệt Hành nhiều người biết, ông còn những bài Tráng Ca, Vọng Nhân Hành, và nhất là Can Trường Hành, báo hiệu Nguyễn Bắc Sơn


Phiếm du mấy chốc đời như mộng
Ném chén cười cho đã mắt ta

Thà với mãng phu ngoài bến nước

Uống dăm chén rượu, quăng tay thước

Cái sống ngang tàng quen bốc men

Vào thời điểm bài thơ này, 1944, Nguyễn Bính vốn thân thiết với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, đã sáng tác bài Hành Phương Nam nổi tiếng, trong cùng một nguồn thi hứng :


Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đã dấy phong yên khắp bốn trời

Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ

Uống say mà gọi thế nhân ơi

Nhưng trong lối thơ chếnh choáng hơi men này, đặc biệt nhất — không phải hay nhất — là bài Gửi Trương Tửu mà Nguyễn Vỹ sáng tác trong cơn say, trộn lẫn văn chương với chả cá.
Chúng tôi nghĩ: đặt Nguyễn Bắc Sơn vào một dòng thi ca đã trường lưu, là một cách đánh giá nghiêm chỉnh và thông thoáng một tài thơ được khoanh vùng trong một hoàn cảnh chính trị và xã hội hạn hẹp. Và cũng giúp ích cho người đọc thưởng thức văn chương bên ngoài những chấn động của lịch sử.

*
Vào khoảng 1970, khi thơ Nguyễn Bắc Sơn xuất hiện và gây ngạc nhiên, nhiều người cho rằng có hơi hướm thơ Quang Dũng, có lẽ vì đề tài chiến tranh và lời thơ bi tráng. Nhưng xét kỹ thì không đúng: thơ Quang Dũng lãng mạn và lý tưởng, thơ Nguyễn Bắc Sơn ngược lại, phi lãng mạn và phi lý tưởng. So với các nhà thơ khác, mà chúng tôi vừa trích dẫn, thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng có nét khu biệt, là chất bụi đời, mà nhà thơ tự cho là “du đãng”. Tống Biệt Hành là thơ để đời ; Nguyễn Bắc Sơn là thơ bụi đời. Độc Hành Ca là loại thơ “miếu đền”, Nguyễn Bắc Sơn là thơ lề đường, quán sá. Xã hội, hoàn cảnh Miền Nam thời đó đã tạo một nguồn cảm hứng như thế và chỗ đứng cho một thể loại bất cần đời như thế. Và dư luận thời đó, của những nhà văn tên tuổi có thế lực văn học, lập trường chính trị vững vàng, như Võ Phiến trên Bách Khoa, Chu Tử trên báo Sống, Doãn Quốc Sĩ trên báo Văn, đã đồng loạt hoanh nghênh.8
Sau 1975 Nguyễn Bắc Sơn có bài Một Ngày Nhàn Rỗi:


Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà phê

Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn

Mải mê tán dóc chẳng cho về
Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ

Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ

Ba nghìn thế giới cũng chưa to 

Vẫn một giọng thơ, một cốt cách, một phong thái. Võ Phiến, hai mươi năm sau cuộc chiến, có đủ bình tâm và khoảng cách để nhìn lại thơ văn và tâm tình một thời đại và thông hiểu thấu đáo hiện tượng Nguyễn Bắc Sơn, trước sau như nhất, “cũng cái ngông nghênh ấy” :
“Ngày trước trong chiến tranh, ông kể chuyện chơi trò nổ súng cắc cù rất độc đáo ; ngày nay hòa bình thiên hạ hớt hơ hớt hải lăn xả vào cuộc giành giật đồng tiền, thì ông nói chuyện hớt tóc cạo râu : lại rất độc đáo.
Thành thử giữa ông Nguyễn Bắc Sơn trong chiến tranh và ông Nguyễn Bắc Sơn sau chiến tranh vẫn có một chỗ nhất trí. Tuy hai mà một. Do hoàn cảnh khác nhau nên đề tài câu chuyện khác nhau; nhưng phong thái vẫn một thôi. Phong thái ấy khiến cho thời chiến ông là kẻ phản chiến, thời bình ông thành kẻ phản lao động. Thực ra thơ ông phát biểu về một thái độ sống, không phải chỉ là một thái độ đánh nhau hay một thái độ làm lụng. Sống là nhẹ, không phải chỉ riêng : đánh nhau là giỡn, là nhẹ. Đời không có nghĩa phải quấy. Một khi đời đã không có nghĩa, thì mọi hoạt động ở đời (kể cả chiến tranh) đều vô nghĩa. Hoặc giả nó có được trao cho ý nghĩa thì ông cũng không lý đến. Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ; bắn nhau cắc cụp lỡ có trúng đạn chết tươi cũng là chuyện nhỏ thôi”.(1994) 9
Làm sao mà Võ Phiến có thể viết sành sõi ngon lành như thế về Nguyễn Bắc Sơn? Xin thưa: vì anh tự viết về mình đó thôi. “Đời không có nghĩa phải quấy” là tư tưởng của Võ Phiến, là sợi chỉ xuyên qua nhiều tác phẩm của anh. Nhưng áp dụng vào thơ Nguyễn Bắc Sơn thì đúng boong.
Nói vậy để thấy rằng tâm tình Nguyễn Bắc Sơn gửi gắm qua thơ là phổ biến, là niềm phân vân tự nhiên của nhiều người, của con người trước cuộc sống. Cơn bão lịch sử đã thổi tạt cái bình thường đến chỗ lạ thường, biến thành biệt lệ văn học: sắt đá ồ sao lại nhớ nhà…
Tâm tình ấy được Nguyễn Bắc Sơn diễn đạt bằng một phong cách nghệ thuật tài hoa, vừa hồn nhiên vừa bi tráng. Kinh nghiệm sống chết hằng ngày được thăng hoa qua một thi pháp tươi trẻ mà già dặn.
Tác phẩm Nguyễn Bắc Sơn, bên dưới những chứng từ lịch sử, là những bài thơ hay, trong lối văn “thốn tâm thiên cổ ”.
Tấc lòng lưu vọng ngàn năm.


Đặng Tiến


Thơ Nguyễn Bắc Sơn

CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI


Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Ðoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời
Hãy tưởng tượng mình đang đi pic-nic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh xa ra ta xin xí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Ði hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh nầy cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Chọn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mượn bom đạn chơi trò pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang.

Bỏ Xứ








Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.
Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.
Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết
Và hi hô tát cạn dòng sông
Khi giã từ, ta tặng cho các ngươi cái búa
Ðể đốn đời thánh hạnh của cây thông.
Ở Ðà Lạt, ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?
Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây.
Ở Ðà Lạt, lạc đàn dăm bảy đứa
Còng lưng ra mà cõng ba-lô
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.

Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục

Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku

Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
Vì đêm nay tôi thèm nghe sóng vỗ
Vỗ nhịp nhàng từng tiếng động bao dung
Vỗ cho êm chuỗi hệ lụy vô cùng
Ðời lang bạt của một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Ði một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính
Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao
Lạnh hàng cây, tửu quán, lạnh gần nhau
Lạnh thiên cổ, lạnh vào tim máu cạn
Tôi vận rủi làm một người lãng đãng
Ngó mông hoài khuất bóng của người em
Sáng hôm nay đời sống thật bình yên
Sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
Vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
In gót hồng lên lớp bụi đời tôi
Là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
Và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang.


Một Ngày Nhàn Rỗi

Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô tình ngang một quán cà-phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về.

Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đìu hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba nghìn thế giới cũng chưa to.

Tháng giêng ngồi quán quán thu phong
Gió Nhạn Môn quan thổi chạnh lòng
Chuyện cũ nghe đau hồn tứ xứ
Thương Kiều Phong, nhớ tiếc Kiều Phong.

Bày ra một ván cờ thiên cổ
Thua trận nhà ngươi cứ trả tiền
Mẹ nó, tiền ta đi hớt tóc
Gặp ngày xúi quẩy thua như điên.

Tóc ơi ngươi cứ tha hồ mọc
Xanh tốt như mùa xuân thảo nguyên
Từ Hải nhờ râu nên mới quạo
Thua cờ tớ bỗng đẹp trai thêm.

Lạng quạng ra bờ sông ngó nước
Trên trời dưới đất gặp ông câu
Ta câu con đú, ngươi câu đẻn
Chung một tâm hồn tất gặp nhau.

Khi gã Yêu Ly đâm Khánh Kỵ
Là đâm chảy máu trái tim mình
Sông Mường Mán không dung hào kiệt
Muôn đời bóng núi đứng chênh vênh.

Tháng giêng có kẻ đi tìm cúc
Nhưng cõi đời không có Cúc Hoa
Thấy đám phù bình trên mặt nước
Biết mình đi lộn nẻo bao la.

Những khuôn mặt những người xuân nữ
Phiêu bồng vĩnh cửu lẫn phù du
Yêu rất khó vô tình cũng khó
Khánh đa tình sợ nhất mùa thu.

Ghé thăm ông bạn trồng cây thuốc
Mời nhau một chén rượu trường sinh
Bát cơm tân khổ mười năm ấy
Câu chuyện năm năm khiến giật mình

Nằm dưới gốc cây nhìn cánh bạc
Dường như mặt đất tiết mùi hương
Ngủ thẳng một lèo nay mới dậy
Dường như mình cũng mộng hoàng lương.

Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.







Nguyễn Bắc Sơn



Trích lại từ banvannghe.com