Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2015

Trần Bảo Định : CÀ KHỊA CHUYỆN ĐỜI.

Trần Bảo Định 
CÀ KHỊA CHUYỆN ĐỜI.
*
''ĐI CHỖ KHÁC CHƠI''(1)
Thương nhớ chú Tư Sâm.
Phải nói ngay rằng, hồi trai trẻ, tôi không thích giới văn chương, chỉ thích giới văn nghệ. Chẳng hiểu vì sao?Nhưng, có lẽ cái chữ ''chương'' với tôi, hình như nó chứa nội hàm buộc ràng, khuôn mẫu. Còn chữ''nghệ'' với tôi, nó phóng túng theo cảm hứng cũng nên. Tôi nghĩ tầm bậy tầm bạ của người nhà quê không biết có đúng không?Có điều, biết chắc là, tôi khoái nghe vọng cổ ''Sầu vương biên ải'' của soạn giả Viễn Châu, do Út Trà Ôn hát, từ cái máy hát lên dây thiều hơn coi phim Âu-Mỹ ở rạp chớp bóng. 
Một hôm, ông anh họ mang tặng tôi tập truyện ngắn''Nắng đẹp miền quê ngoại''của tác giả Trang Thế Hy vào khoảng năm sáu lăm(2)Tôi đọc lai rai suốt mùa hè năm đó. Và rồi, qua chữ nghĩa trên trang sách, tôi mến ông.
*
Khi trí của tôi bắt đầu trở chứng:Không khoái mần việc nữa. Ông nhà nước đồng ý cho cái trí của tôi nghỉ, tên chữ gọi là ''hưu trí''. Vợ tôi thường cằn nhằn, nói:
- ''Hưu trí''nghĩa là, cái trí của ông ''ngưng hoạt động''. Chờ đến nước nầy, nhà nước cho về, tôi thuộc ''nhà cái'' hốt trọn ổ!
Nghe vợ nói, nhột quá!Tôi phang bừa:
- Thì, bà cứ bảo cái trí của tôi giờ đã ngu, đừng xía vô chuyện của nhà cái mà hư bột hư đường.
Sợ lâu ngày dài tháng, sinh giặc ''cơm không lành, canh không ngọt'', tôi kiếm cớ dông tuốt về quê chẳng ''cắm câu'', cũng không ''ở ẩn, chiêm nghiệm''mà, thiệt tình ''sợ vợ sai, vợ bắt nộp thuế...'' hằng đêm thì, toi sinh mạng chớ chẳng phải chơi.
Thời gian thừa thải, rảnh rỗi tôi đi ''ta bà thế giới''bằng con ngựa sắt của vợ sắm cho. Nhờ vậy, thỉnh thoảng tôi gặp tác giả ''Nắng đẹp miền quê ngoại'', sống lặng lẽ trong căn nhà đơn sơ ẩm thấp, bên dòng kinh quê che bởi những tán dừa xanh. Tôi gọi tác giả ''Nắng đẹp miền quê ngoại'' bằng chú:Chú tư Sâm!
Thiệt ra, tôi gọi ông bằng chú tư Sâm là, gọi theo người bạn kết nghĩa tên Hoàng An. Hồi nẫm, chú tư Sâm cùng anh Hoàng An và một số các anh, như: anh Thảo(3)Lý Văn Sâm, Phan Lạc Tuyên, Thủy Thủ(4) Xuân Bắc(Cà Mau)Vân Lam (hy sinh cùng nhạc sĩ Hoàng Việt ngày 31.12.1967 trên đường đi công tác ở Quận Cái Bè thuộc tỉnh Định Tường)...trên dưới áng chừng 40 học viên, có Anh Đức(dự thính, vì đã học khóa viết văn ở Miền Bắc)...
Khóa 2, lớp Viết văn ở Miền Nam, gọi ''Tiêu Tương''đóng Xóm Rẫy, phía trên là Xóm Giữa(Tây Ninh)do nhà văn Nguyễn Văn Bổng(5)làm Hiệu Trưởng.
Anh Hoàng An, nói:
- Học viên từ các nơi tụ về, xúm nhau lo cất trường, lo đủ mọi thứ để kịp ngày khai giảng. Và, anh chị em Khóa 2 lớp Viết văn ngày đó, không ai không nhớ anh Thảo: Một tay guita có hạng, một kiện tướng đào đất ''số zách'' và, chỉ cần độc chiếc cái quần xà lỏn, anh ngồi bệt xuống đất với đôi tay điêu luyện... nghĩa là, một cái ''lò Hoàng Cầm''ra đời, một tay cật lực lao động cất trường, một tay cuốc đất trồng khoai...dẫu anh xuất thân từ cựu sinh viên Đại học Khoa học Sài Gòn. Anh là, mẫu người ''tranh nhau mần việc hết mình''.Tuy rằng, tính anh rất kiệm lời nhưng, không hẳn là người không tình cảm.
Ở xóm Rẫy có cái chợ, gọi là chợ xóm Rẫy. Gọi tiếng chợ cho nó oách, chớ chỉ là hàng quán lèo tèo kiểu nhà quê tuy cũng có:Hủ tiếu, cà phê, trà, thuốc lá, bánh kẹo...Vì, toàn ''văn sĩ''nên học viên được sinh hoạt thỏa mái hơn những lớp học ngành nghề khác. Đôi lần, tôi định lân la hỏi anh Thảo cho ra môn ra khoai.Tiếc rằng chưa có dịp.
Lớp học khai giảng năm 1964, lúc trời mưa sa dông và dân bắt đầu vào vụ sạ lúa hè thu trên đất gò biên giới.
*
- Chú Tư, cháu mạo muội muốn hỏi chú một chuyện.
Tôi vừa nói lối chưa vô câu vọng cổ để xuống xề. Chú Tư nhướng cặp chưn mày, rít một hơi thuốc lá, buông một câu gọn lỏn:
- Đi chỗ khác chơi! 
Tôi không để tâm câu nói của chú nên, chẳng cớ gì tự ái. Tôi thoáng nghĩ:''Đi chỗ khác chơi''là tôi đi hay chú đi?Mà xin lỗi, ai đi rồi cũng được. Tôi nhón ké điếu thuốc, cười vả lả cầu tài:
- Thưa chú, cháu ''thỉnh ý''chú chuyện nầy không thể ''đi chỗ khác chơi''.
- Tại sao không?
Miệng dẫu nói vậy, nhưng dường như chú ''đánh hơi'' có điều lạ ở ''thằng nhỏ''không dính dáng đến chuyện ''văn nghệ, văn gừng''.
- Đâu, chú em nói thử, qua nghe!
Ngày đó, giữa lớp học Khóa 2 Viết văn, chú ''trình làng''một tiểu phẩm(6).Trong tiểu phẩm nầy, chú đặc tả ''nét đẹp ngũ sắc lộng lẫy của những cái bong bóng xà bông dưới ánh mặt trời, nhưng dễ bễ...''Và, chú ''còn nợ cái xe đạp như lời hứa đối với đứa con trai lúc chú ra đi kháng chiến...''
Tiểu phẩm của chú được học viên lớp học đóng góp và phê phán. Ông Tám Nhàn, phân tích có tình có lý, rất chân tình và thuyết phục, chớ ''không dùng đao to búa lớn''. Hồi ấy, anh chị em giới nhà văn thường đối xử nhau đúng mực'' kẻ cầm bút'', hiếm khi ''liệng đá'' hoặc báng bổ nặng lời.
Chú nhận ra điều cần nhận của một nhà văn từng là nhà thơ, nhà báo. Gần 20 ngày sau, truyện''Anh Thơm râu rồng''ra đời. Cả lớp học thích thú, ông tám Nhàn khen đáo khen để! Và, ''Anh Thơm râu rồng''nhận Giải thưởng''Văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn Nghệ giải phóng Miền Nam(1960-1965)
- Việc đó, thực hư thế nào chú Tư?
Tôi hỏi.
Chú Tư im lặng, hút thuốc, mắt ngó ra bờ kinh. Buổi chiều trải nắng qua xóm nhỏ.
*
Chú bỏ chốn kinh kỳ, qua phà Rạch Miễu, về sống bên cạnh ''người vợ cực khổ sơn trường''với mình ở quê nhà. Thường thì, người ta cực mà không khổ hoặc khổ mà không cực. Đằng nầy, thiếm Tư gánh cả hai cái cực và khổ trên đôi vai gầy yếu. Thiếm Tư đi về trời trước chú. Chú nuối, chưa hẳn là tiếc trần gian. Song, cố ở lại ngóng coi mọi sự rõ ràng mà, không phải ''lộng giả thành chân''. Ngóng cổ chờ miết, chẳng thấy mưa rào, ngày một cứ tăm tăm, mù mù...Chú thở dài, một mình buông một câu: Đi chỗ khác chơi!Chuyện đời đâu phải dễ. Chẳng chơi được chỗ nầy thì, chỗ khác có gì chơi?
Sức yếu, tuổi cao...chú dựa vào anh hai Lê, nương nhờ vợ chồng Ái Thy(7)chống chọi bịnh tật và cái già. Hai năm cuối cuộc sống, gần như chú buông bút. Tôi lứa tuổi thuộc hàng con cháu, không ngồi''mâm chiếu''dùng ''đũa văn chương''gắp''chữ nghĩa''. Tôi thương mến chú, không là những tác phẩm chú để lại cho đời. Chưa chắc chú viết thiệt lòng và tôi, cũng chưa chắc đọc mà hiểu mà thấm hết những gì chú đã viết?Tôi thương mến chú từ thân phận con người trong cái cõi nhân gian:Hiền-Dữ!Biết sao hiền sao dữ?Không có dữ, chắc gì ló cái hiền?
Có điều chắc nuột, chú yêu liếp dừa, mương nước. Chú không thể nào quên tàu cau, tàu dừa lả lơi dưới ánh trăng quê thời thơ ấu. Từng lón phù sa Ba Lai, Hàm Luông làm nên vùng đất Hữu Định và, cái làng nghèo Hữu Định đã hun đúc nên một nhà văn yêu đất yêu người. Chú rời mái gia đình từ rất sớm, ''đi vào cách mạng như đi vào ngày hội lớn'' như ai đó từng viết. Chú không thuộc tiếp người ''ham vui'' đi vào cách mạng như đi vào'' ngày hội lớn'', chú đi vào cách mạng như một sứ mạng làm trai, một nghĩa vụ cứu nước giành Độc Lập, cứu dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than!
Chú Tư, chàng trai làng Hữu Định đã đáp lời cụ Đồ Chiểu:''Hỡi trang tuấn kiệt rày đâu vắng/Nỡ để dân đen mãi thế nầy?''và ''Tuyên ngôn Độc Lập'' ngày 2.9.1945 tại Ba Đình của Chủ Tịch Hồ Chí Minh!
Chú nhớ lại, ngày đó:Người người giành hy sinh, nhà nhà giành cống hiến. Nếu, phải tự tay mình đập nát căn nhà do mồ hôi nước mắt của mình làm ra, vợ chồng, con cái sẵn sàng đập vì, công cuộc ''Tiêu thổ kháng chiến''. Gia đình ba má chú thuộc gia đình có cái ăn cái để, giàu có trong vùng. Vậy mà, chú bỏ tất cả lại sau lưng, nốp với giáo lên vai đi vào khói lửa.
Chú Tư là một người yêu nước, đúng nguyên chất yêu nước của người Nam Bộ.
*
Tôi đến viếng chú Tư ngay ngày hôm sau lễ ''Mở cửa mã''. Nghĩa là, lúc ''con gà''chạy vòng quanh nắm mồ kêu những tiếng kêu báo thức. Và, chắc là chú giựt mình thức dậy trong một cảnh giới khác. Cái cảnh giới chỉ có ma, thiếu vắng người. Chú biết mình rời dương thế. Tôi tin ở thời khắc không dài lắm, chú sẽ gặp lại ''bằng hữu''và những ''cố nhân''mà, khi sống chú mong gặp. Thượng đế rất sòng phẳng và công bằng trong việc ân oán cõi thế gian.
Ngồi thềm mã chú, thợ hồ đương xây mộ dở dang. Tôi vin cây mía lau túm ngọn chao nghiêng gió sớm, ngó cái thang làm bằng sống lưng bẹ chuối, cái thang để đêm đêm chú trèo lên đứngngó trời sao, nghĩ thế sự man man...Tôi thắp nhang, thầm vái:
- ''Thằng nhỏ cà khịa''đến thăm chú Tư đây! Không phải ''ké, bón''chụp ảnh, dựa hơi hồn ma bóng quế ''Người hiền Nam Bộ''để đánh bóng bộ mặt nhà quê ''bùn sình''của mình. Đến để coi chú có nói gì với thằng nhỏ hay ''tò mò. tọc mạch'' lúc chú còn thở khí trời, lúc Thân-Tâm đoàn kết từ Thở, tạo thành sự sống con người. Tắt Thở, Thân-Tâm chia lìa vĩnh viễn. Đến để nghe chú nói:Chú chả trách oán ai bởi, Trang Thế Hy không bầm và dập thì, không có một Trang Thế Hy đích thực Trang Thế Hy! Tôi biết chú quý và thương nhà văn Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ đó, khi ''Cánh đồng bất tận'' lùm xùm nơi Đất Mũi.
Thương cảnh vợ chồng Ái Thy, đứa con gái mà lúc sống, chú rất mực yêu thương. Vợ chồng ăn ở với nhau nhiều năm, không có con. Chú mất, Ái Thy hụt hẫng tinh thần. Gặp tôi, em nó lơ mơ như người đãng trí. Một cảm xúc xót xa chạy rần rật trong tôi.
Hằng giờ, tôi ngồi bên mộ chú. Ngôi mộ khang trang nằm im lìm dưới những hàng dừa mượt mà trên 5 công đất. Nghe chồng con Út Thy nói, lễ Thanh Minh sang năm, anh hai Lê dời phần mộ của thiếm Tư từ ngoài mép lộ vào nằm cận kề chú Tư.
Ngó cái ảnh của chú trên bia mộ, tôi có cái cảm giác chú mỉm cười với thằng tôi. Cái thằng nhỏ ngịch ngợm, bạ đâu nói đó, tính thẳng ruột ngựa. Có lần, tôi tưởng đâu chú nghỉ chơi với tôi. Vì, tôi vượt qua vai vế. Tôi nhớ, tôi nói với chú khi chú hỏi:
- Thằng nhỏ, đọc ''Anh Thơm râu rồng'' thấy sao?
Tôi bậm trợn trả lời đại.
- Thưa chú, hay thì có hay vào cái thời đó. Cái thời quất sụm bà chè địa chủ. Nhưng, theo cháu địa chủ Nam Bộ không ác như địa chủ Bắc Bộ.
Chú nhỏm đít, xoay người trở bộ tư thế ngồi nghe tôi lý sự.
Tôi như được chú khuyến khích, nói tiếp:
- Gần như toàn bộ địa chủ Nam Bộ vào dân Tây, hấp thụ nền văn hóa Tây...moa, toa...tá lả. Tinh thần khoáng đạt, sẵn lòng tự nguyện ''Địa chủ kháng chiến'', góp công góp sức cho phong trào Việt Minh; kể cả gả con cho cốt cán, lãnh tụ phong trào. Thậm chí, sau mùa lúa, địa chủ còn mướn thầy giáo về dạy chữ cho con tá điền...Điều đó, khó có thể xảy ra ở Bắc Bộ bởi, tàn dư phong kiến kềm tỏa và nhuộm đen đầu óc địa chủ. Địa chủ Bắc Bộ mần gì biết ''moa, toa...nhảy đầm...''là cái quỷ quái gì?Nếu có biết chăng, là biết cái ''bàn đèn'', nói ''hoa hòe hoa sói'' là nàng tiên nâu hoặc cùng lắm đi hát ả đào... xin lỗi, được vậy đã là thuộc hạng chãnh...Nên, truyện ''Anh Thơm râu rồng'', thưa thiệt với chú, cháu đọc không thấy đã!
Tưởng chú giận mà không. Đôi mắt chú buồn...buồn rất xa. Tôi ân hận vì đã lỡ lời. Chú hút thuốc, nói lảng sang chuyện khác.
*
Bàn thờ chú-một nhà văn đại thụ, một người hiền Nam Bộ-rất đơn sơ hơn cả sự đơn sơ của người nghèo khó. Tôi ngậm ngùi trong cái bồi hồi của kẻ hậu sinh:''Đi chỗ khác chơi''!Tôi lần mối ra mới hiểu, ''Đi chỗ khác chơi'' vừa là câu thiệu khởi đầu, cũng là câu khẳng định cho một sự kết thúc. Có thể, đuổi bọn ''giá áo túi cơm'', đồng thời cũng là câu ''thấy chơi không được, đi chỗ khác chơi''. Đơn giản như tướt lá dừa mần chổi quét sân, quét bồ hống...
Tự dưng, tôi nghĩ đến thời khắc ra đi của chú. Chồng Út Thy kể với tôi:
- Buổi chiều, ba vẫn bình thường:Ăn cơm, uống sữa...khoảng tối, ba bảo khó chịu có lẽ hơi cảm, em đòi quậy sữa hoặc vắt cam cho ba uống, ba bảo khỏi. Lát khuya, ba tuột quần và lòm còm đứng dậy. Em hỏi:Ba mần gì vậy ba?Ba nói:Ba tiểu ướt cả quần, ba vắt chỗ quạt máy cho mau khô. Em nói, để con lấy cái quần khác cho ba mặc, kẻo lạnh. Ba không cho, ba bảo đắp mền lại cho ba. Em nhắm mắt thiu thiu nhưng, không ngủ được. Bất chợt, em thấy ba nhá nhá đèn pin lên cái đồng hồ...Em ngồi bật dậy, nghe tiếng ba thở rất nhẹ 2 cái...em chạy đến bên giường, hỏi:Có sao không ba? Ba em đã đi. Lúc đó, kim dồng hồ chỉ 0 giờ 50 phút rạng sáng ngày 8.12.2015.
*
Đời chú Tư đã trải qua 2 lần coi giờ để đi.
Hồi năm 45 thế kỷ 20, qua vội lua ba hột cơm cho vững bụng, coi giờ sợ trễ cùng anh em làm cuộc Cách mạnh tháng tám ở quê nhà. Qua không chơi được với bọn cường hào, cò bót...nên xếp bút nghiêng ''đi chỗ khác chơi''. Bây giờ, ở tuổi 91 và nếu tính tuổi mụ là 92, chú xịt đèn pin coi giờ để ''đi chỗ khác chơi''.Tiếc là, thằng nhỏ cà khịa của chú chưa kịp hỏi:
- Vì sao, chú không ở lại chơi cuộc chơi còn dở dang?Vội vả, cuốn tượng ''đi chỗ khác chơi''vậy chú Tư!?
trần bảo định
Bến Tre,13.12.2015
(1)Câu nói thường khi của nhà văn Trang Thế Hy
(2)''Nắng đẹp miền quê ngoại, Tập truyện ngắn 1964.
(3)Nhà văn Lê Văn Thảo
(4)Phan Lạc Tuyên, Đại úy VNCH, Thiếu úy Hải quân VNCH
(5)Nhà Văn Nguyễn Văn Bổng, bút danh Trần Hiếu Minh, Bí danh Tám Nhàn
(6)Thời đó, không gọi tác phẩm
(7)Anh hai Lê (con trai). Ái Thy (con gái), Chín Hy(Trần Văn Hy, con rể)
*
Ảnh nguồn Băng Châu Nguyễn Thái.
Từ trái
1. Lối mòn dẫn vào mộ chú Tư Sâm
2. Vừa lễ ''Mở cửa mã'' và thợ hồ tiếp tục xâymộ.
3. Trước bàn thờ chú Tư Sâm
4. Vợ chồng Ái Thy và tác giả.
NGuồn: từ FB

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

MẤY BÀI THƠ MỚI

chút mùa đông ở Sài Gòn giữa tháng chạp


không ai nghĩ rằng Sài Gòn lại có mùa đông
chỉ là những sớm mai của tháng chạp
hơi se
áo khoác mỏng
cũng thấy chút mùa đông
của phương bắc
một chút nhớ về Hà Nội xưa của bạn
những ngày chờ tàu
ở cảng
mùa đông ấy xuôi về nam
như về miền đất hứa
nay ở đây không có mùa đông
vẫn nhớ nhung ngày ấy
những cuộc chia lìa
rằng sau hai mươi năm
cũng trên bến cảng phương nam
chờ tàu
giữa nguy nan mơ về đất hứa
lênh đênh cùng hiểm nguy
như lời nguyền không thể giải hóa
những cuộc chia lìa
những thời khắc không thể quên
đã trở thành lịchsử một thế hệ


Image result for mùa đông sài gòn



nắng ở đây, Sài Gòn
những ngày tháng chạp
gió heo may se thắt long hiu quạnh
một chút mùa đông ấy phương xưa
làm băng giá lòng ta

sống ở đây, SàiGòn
nhiều năm
rồi nhiều năm
vẫn hắt bóng mùa đông ấy
khi ngày cuối năm về
sầu dài tháng chạp
tình yêu tôi
hai bàn tay giấu kín vào túi áo len qua cầu mai sớm mù mưa bay ở ngoài ấy nhớ nhung ai đôi mắt nhìn thiên cổ

ngồi ở đây, SàiGòn
bên kia ngôi nhà thờ hơn trăm năm tuổi
những người viễn chinh từ bên kia bán cầu
đã đi qua
những dấu tích để lại như nỗi đau được làm mới thường ngày
khi ngồ iđây, SàiGòn, ôi những khúc kinh cầu quá khứ

và ở đây, vẫn Sài Gòn
có chút mùa đông của tháng chạp
như ước người yêu tôi bên cửa ngồi đan áo, chiếc áo len đẹp tuyệt cuộc đời
cho ấm tình mãi trẻ tuổi thanh xuân


Image result for mùa đông sài gòn

  
một buổi chiều

buổi chiều không phải buổi chiều
chỉ là buổi chiều không phải
buổi chiều
giọng giá băng
có một cành hoa
nơi cửa sổ ngôi nhà đối diện
hẻm sâu
buồi chiều không có buổi chiều
chỉ là buổi chiều
không thực

bởi vì đâu
ta bỗng nhiên mất tích
trong buổi chiều
không thực



Image result for tóc dài đẹp
hình minh họa


Tóc dài
tặng C.

vội vã chi em bước đường yêu
mái tóc dài quét qua quá khứ
tro bụi tình anh
tàn bay theo gió

em tóc dài làm chi em
vỡ vụn tình anh
tan tành trong bóng

em vẫn bước trên đường yêu
tóc dài làm chi em
cho năm tháng miệt mài
trôi theo

em tóc dài em đương yêu
nhưng ta có khi phải dừng lại
để tình không tuột xuống dòng kinh

 Image result for tóc dài đẹp


hình minh họa



nghi nan

tôi nghi ngờ em đã cho tôi
trái đắng
trong một buổi chiều nọ chỉ có hai đứa bên bờ kè
em đã tặng tôi
bầu độc dược
nhưng đêm hôm ấy
khi uống cạn bầu độc dược
tôi nghiệm ra rằng
vì em nghi nan tôi
là một ngườ ikhác
ôi em yêu
tội nghiệp tôi
tôi chỉ là người
không thể không yêu em
ngàn đời như thế
bởi người tôi yêu
là em – sự thật
hay gọi một cách khác – là chân lý

đừng bao giờ nghi nan
chân lý



 Image result for bay như chim


bay lên không trung

khi tâm bình yên
nghĩ về những điều tốt đẹp
ví dụ như buổi sang mới ra đường gặp một người nghèo khó ăn xin và bỏ mấy đồng vào tay họ
lã lướt một niềm vui
tưởng như bay lên mây

khi thấy đời tươi thắm
đạp xe một vòng
nhìn ai cũng đẹp
nhìn ai cũng muốn bay
như bướm hoa trong vườn
một ngày xuân mới

ta cũng muốn bay lên
xa khỏi trần gian
như đã từng tưởng tượng vậy



Image result for thiếu nữ đẹp


kẻ lạ

kẻ lạ dĩ nhiên không phải là ta
chắc chắn khác ta
mọi thứ
nhưng có khi
kẻ lạ là ta
vì từng ngày trong ta vẫn âm vang
tiếng nào ấy
nói bên tai
những lời kỳ lạ
rằng
hãy đốt cháy tất cả
tro bụi sẽ trở thành
hóa thân ta
từng ngày là người lạ

một khúc kinh cầu cho kẻ ấy


TỪ HOÀI TẤN
2015
(tác giả gởi)




*

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Nhà văn Trang Thế Hy từ trần

Nhà văn Trang Thế Hy từ trần


 Nhà văn Trang Thế Hy vừa qua đời lúc 0g50 ngày 8-12 tại nhà riêng (Khu phố 1, phường Phú Tân, Bến Tre) sau một thời gian kiệt sức do tuổi già. Lễ viếng bắt đầu lúc 9g hôm nay và lễ động quan lúc 12g30 ngày 10-12. Linh cữu nhà văn được đưa đi an táng tại đất nhà.
Nhà văn Trang Thế Hy (1924-2015)
Ông tên thật là Võ Trọng Cảnh, sinh ngày 29-10-1924 tại Châu Thành, Bến Tre, là nhà văn Nam bộ nổi tiếng từ trong chiến tranh, từng tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng tám 1945 tại Bến Tre, hoạt động cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau 1975 ông sinh hoạt Văn nghệ tại TPHCM, làm biên tập viên Văn tại báo Văn nghệ TPHCM.
"Kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt các giai đoạn sáng tác của Trang Thế Hy. Tư tưởng đó được tác giả chuyển tải bằng giọng điệu bình dị, từ tốn, đôi khi pha chút hài hước kín đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn riêng. Sức hấp dẫn ấy không mãnh liệt nhưng thấm sâu, bền chắc". - Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá
Ông từng viết văn, viết báo tại Sài Gòn và miền nam với các bút danh: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm. Tác phẩm chính của ông gồm tập truyện ngắn: Nắng đẹp miền quê ngoại(1964), Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ 13 (1989), Tiếng khóc và tiếng hát (1993),…
Nhà văn Trang Thế Hy từng được Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) với truyện ngắn Anh Thơm râu rồng; được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng khóc và tiếng hát.
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá nhận định: "Cùng với Sơn Nam, Mai Văn Tạo, Trần Kim Trắc, Nguyễn Quang Sáng..., Trang Thế Hy đã góp phần tích cực xây dựng, phát triển dòng chảy độc đáo của văn học Nam bộ".
“Trang Thế Hy là nhà văn Việt Nam viết nhiều nhất về nghề văn và nhà văn”, và “ông viết không vì danh lợi, mà viết như một cách sống” - nhà thơ Cao Xuân Sơn đánh giá.
Tháng 7-2014, Nhà xuất bản Trẻ tiến hành ký kết hợp đồng độc quyền sử dụng tác quyền trọn đời với nhà văn Trang Thế Hy. Danh mục tác phẩm do nhà văn Trang Thế Hy trao quyền xuất bản, phát hành cho NXb Trẻ gồm 65 truyện ngắn và 2 tiểu thuyết, chủ yếu được sáng tác từ trước năm 1975 đến năm 1983.
Dịp mừng thọ nhà văn Trang Thế Hy tròn 90 tuổi, NXB Trẻ in 4 cuốn sách của cây bút Nam Bộ đặc biệt này: 3 tập truyện ngắn Mưa ấm, Tiếng khóc và tiếng hát, Nợ nước mắt cùng tập thơ song ngữ Đắng và ngọt gồm 13 bài thơ của Trang Thế Hy được 2 dịch giả Nguyễn Bá Chung và Martha Collins dịch sang tiếng Anh, còn 11 bài thơ của Rabindranath Tagore được Trang Thế Hy chuyển ngữ sang tiếng Việt.
Khi đó, nhà văn Trang Thế Hy tiết lộ trong số các tác phẩm của mình, ông “ấn tượng” nhất là truyện ngắn Thèm thơ.
Câu cuối truyện này như một tuyên ngôn sáng tác mà nhà văn Trang Thế Hy chia sẻ với thế hệ sau:
"Loan ơi, chết đem theo sự thèm nghe thơ và sống mà thèm làm thơ chưa biết ai khổ hơn ai.
Bài thơ mà em thèm nghe và anh thèm làm cũng không đẹp gì cho lắm. Ðể thèm nó có thể ít buồn hơn là thưởng thức nó với sự đau xót trong lòng. Sẽ có một ngày kia, khi một cô gái ôm một chàng trai trong giấc ngủ yên lành, thì hơi ấm cô ta tạo ra không gợi đến một tứ thơ cay đắng như em nghĩ. Bài thơ về hơi ấm đó sẽ có người làm và làm hay hơn bây giờ".
Theo TTO