Thứ Ba, 9 tháng 11, 2021

HAI TRẦU LƯƠNG THƯ TRUNG : MƯỜI LĂM NĂM NHỔ BÀNG TRONG ĐỒNG THÁP MƯỜI QUA THI TẬP “ĐẠP XE RA NGOẠI Ô” CỦA TỪ HOÀI TẤN

                                        

                                                         “Khắc khoải sầu tuôn lòng tợ bể,

                                                           Bồi hồi dạ nhớ tháng như năm”

                                                                                            (Vô danh)

   


  

Bìa thi phẩm “Đạp Xe Ra Ngoại Ô” của Từ Hoài Tấn.

 

Thi tập “Đạp Xe Ra Ngoại Ô” của Từ Hoài Tấn là một chuyến xe đời chở đầy nỗi nhớ! Ở đó là một tập họp những suy tư và hồi ức về những năm tháng thời ấu thơ với Huế, có lúc xa Huế, rồi lại về thăm lại Huế và dường như cái tình ở người con trai xứ Huế ấy không bao giờ quên được nơi mình được sanh ra và lớn lên nơi Huế thân yêu! Nào là Về Huế (trang 28), Ở Huế (trang 31), Rời Huế (trang 36, Xa Huế (trang 31), Gởi về một mùa Hè Ở Huế (trang 77), Tháng 7, Mưa Huế (trang 80), Chào Huế (trang 82)… Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì có ai trong cõi đời này có lần xa cố hương mà lại không nhớ cố hương?!?

 

Rồi Từ Hoài Tấn đang ở Sài Gòn nhưng anh lại muốn “đạp xe ra ngoại ô” để miên man nhớ về Sài Gòn với Sài Gòn mùa Xuân (trang 46), Tháng Tư, Sài Gòn nắng (trang 49), Sài Gòn mưa tháng Sáu (trang 79), Tháng Mười ở Sài Gòn (trang 86), Chút mùa Đông ở Sài Gòn giữa tháng Chạp (trang 88), Những ngày tháng Chạp ở Sài Gòn (trang 119). 

 

Nhưng ở đây, tôi vốn là một người đọc nhà quê già, qua dòng đời trôi theo ngày tháng, tôi cũng có nhiều năm tháng sống ở ruộng đồng bạt ngàn vùng Mặc Cần Dưng (Long Xuyên) từ những ngày còn lúa mùa mỗi năm một vụ mùa vào những năm 1950-1960 và sau này tới những thời kỳ chuyển đổi làm ruộng với giống lúa Thần nông, mỗi năm làm hai mùa, mỗi mùa ba tháng mưới ngày và năm nào ở vùng quê tôi cũng có mùa nước lên ngập lụt khắp các cánh đồng! Hồi mấy chục năm của những ngày dãi nắng dầm mưa, tay lắm chưn bùn ấy, tôi đã từng làm nghề nhổ bông súng, bắt óc mò cua, giăng lưới, giăng câu, đặt trúm, đặt lờ, đặt lọp, và mỗi ngày mùa khi có được cá tôm thường mang ra chợ bán kiếm chút tiền mua dầu lửa, mua chút đường, chút muối sống đấp đổi qua ngày nên tôi rất thấu cảm với những vần thơ của Từ Hoài Tấn khi anh viết về “những tháng năm ở bưng Đồng Tháp Mười” với năm tháng dài có tới 15 năm!

 
Vâng, 15 năm quả là quá dài ấy, gần một phần tư cuộc đời rồi chứ ít ỏi gì, nếu nói như cuộc đời chỉ có sáu mươi năm, như nhạc phẩm tiêu biểu của nhạc sĩ Y Vân về “sáu mươi năm cuộc đời”! Mười lăm năm, tôi tự nhủ, với Từ Hoài Tấn dù tác giả chưa “đứt ruột” nhưng nỗi trằn trọc trong lòng anh thì dường như chưa thể một sớm một chiều mà quên đi được mặc dù có lần anh đã viết“những năm tháng đã qua rồi không cần phải nhớ”; nhưng trong thơ anh nỗi nhớ, nỗi băn khoăn, nỗi khắc khoải trong lòng lại chập chùng với những câu hỏi tự hỏi lòng mình dường như chỉ để hỏi và chưa bao giờ có lời giải đáp: “Sao ta lại đến chốn này ?”, “Sao ta lại về đây”:

 

(“Mùa nước năm 78

Sao ta lại đến chốn này ?)

 

“Năm 78 trở về từ rừng núi Tây Ninh

Lại về đồng bưng Đồng Tháp

Những năm tháng đã qua rồi không cần phải nhớ                                                                     

Sự khốc liệt xa lạ và đau đớn

Qua những khu rừng cũ cuộc chiến tranh vừa qua

 

“Sao ta lại về đây

Con nước lũ từ Biền Hồ về

Tháng tám vừa mới bắt đầu

Dòng nước vừa mới bắt đầu

Ngập rừng bàng phía trước

Mỗi ngày ta chống xuồng qua mấy vùng trảng trắng xóa

Bứt những ngọn bàng non vươn lên trong ánh nước lấp lánh

Cùng vợ ta

Nhủ thầm

Chỉ là kế sinh nhai thôi mà

Chờ cho qua ba tháng nước ngập

Nước phân đồng…”

 

(Những tháng năm ở Bưng Đồng Tháp Mười, Đạp Xe Ra Ngoại Ô, trang 111)

 

Và:

 

“Sao ta lại về đây

Đêm đêm nhìn ở phía chân trời mút mắt

Vừng sáng của thành phố xa

Của quá khứ”

 

Quên đi

Và hãy quen đi

Những tháng ngày bưng biền và cuộc sống

Gia đình ta

Như những kẻ lưu dân

Hay không phải là những kẻ lưu dân

Cũng thế

Trên đồng bưng mênh mông nước

Hoa bàng tím đã nở

Và lòng ta

Cũng vui cũng buồn theo dòng nước

Ba tháng nữa sẽ phân đồng

Cuộc sống sẽ tiếp tục như thế

Quanh năm

Và hằng năm

Chờ con nước

Mùa nước nổi quê hương

 

 (Tưởng nhớ mười lăm năm lang thang vùng Đồng Tháp Long An 1978 - 1993)

 

Nhưng bạn có còn nhớ “nước phân đồng” trong câu thơ của Từ Hoài Tấn vào ngày nào, tháng nào của mùa nước ngập lụt vùng đồng bằng miền Tây không?

 

Thì đây, tôi xin nhắc lại với bạn một chút mùa nước lên để bạn hồi tưởng lại những ngày mùa nước lên, nước giựt ấy, đặc biệt là mùa nước lên năm 1978, là năm mà Từ Hoài Tấn đã bắt đầu về nhổ bàng ở Đồng Tháp Mười trong mười lăm năm qua “Những tháng năm ở bưng Đồng Tháp Mười.”

 

Theo sự luân chuyển của thiên nhiên và dòng nước của con sông Tiền Giang và Hậu Giang thì nước phân đồng đúng vào 25 tháng Chín âm lịch; lúc bấy giờ  mực nước cứ cầm cự không lên không xuống, án binh bất động như vậy hoài cho tới cuối tháng Chín và đầu tháng Mười âm lịch, dù những ngày đầu tháng Mười này có nước rong nhưng mực nước trên đồng không lên cao bao nhiêu; cho tới đúng ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch, tức là ngày nước chánh kém giữa tháng Mười, nước bắt đầu giựt nhiều, người ta thấy rõ mực nước trên đồng chảy ra các kinh rạch rất mạnh và mực nước trên các kinh rạch cũng giựt nhanh ngó thấy…

 

Theo kinh nghiệm nhà quê thì dấu hiệu trước tiên để biết nước sắp sửa giựt là những đàn cò trắng bắt đầu ra đậu dọc theo các bờ rạch bờ kinh ngay chỗ các cựa gà (tức ngã ba của hai dòng nước trong kinh rạch gặp nhau) là chỗ nước rút xuống kinh rạch để chờ cá ra. Dân quê gọi hiện tượng này với cái tên rất quen là “cò ra mương hoặc cò ra rạch”.Thành ra, nước đang lên mà cò ra mương, ra kinh, ra rạch là nước sắp giựt. 

 

Hợp cùng hiện tượng nước giựt nhanh này các loài cá trên đồng ào ào lội theo dòng nước tràn ra sông, và dân quê gọi mùa này là“mùa cá ra sông”. Đặc biệt khởi đầu cho dấu hiệu mùa cá ra chính là giống cá linh như trong thơ Từ Hoài Tấn có nhắc, rồi sau đó mới tới cá mè dinh, cá dãnh, cá trèn, cá thác lác các loại ào ạt trở về sông rạch; rồi mới tới hai loài cá ra gần chót báo hiệu nước trên đồng gần cạn đó là cá rô biển và cá rằm.

 

 Kinh nghiệm cho thấy khi nào mình giăng lưới mà dính rặt hai giống cá rô biển và cá rằm thì coi như cá trắng trên đồng sắp ra sông hết rồi! Dĩ nhiên các loại cá đen như cá trê, cá lóc, cá rô thì một số ra sông sớm, nhưng một số cũng nấn ná ở lại các lung vũng đìa mương nên mới có mùa làm lóng, tát mương, tát đìa làm mắm sau này vào mùa nắng tháng Hai, tháng Ba âm lịch.

 

Thế rồi, cuộc sống với những cánh đồng bàng vào những mùa nước ngập “trắng xóa” ấy lại lập lại như những chu kỳ không thay đổi của trời đất, Từ Hoài Tấn hồi tưởng:

 

“Sẽ trở lại cuộc sống cũ

Chèo ghe

Gom bàng lợp bàng đương

Ra bến chợ Bàu Trai

Đổi mấy bao gạo mới

Vài ký thịt

Một bao rau xanh (ở trong bưng không trồng được vì đất phèn)

 

(Những tháng năm ở Bưng Đồng Tháp Mười, Đạp Xe Ra Ngoại Ô, trang 111)

 

Cảnh sống của Từ Hoài Tấn như anh vừa nhắc, nhớ ở quê tôi những năm tháng nước ngập 1978 đồng lúa giống thần nông không vượt kịp theo mực nước lên nhanh được như các giống lúa mùa ngày xưa nên đồng lúa bị nước nhận chìm và nghề câu lưới là công việc chính kiếm cá thay gạo trong những bữa ăn; và lúc bấy giờ cuộc sống mỗi ngày của Từ Hoài Tấn được anh kể tiếp:

 

“Mùa nước năm nào chẳng vậy

Nồi cá linh kho, rổ rau chạy

Gia đình ta sống thiên nhiên và giản dị như cánh đồng bàng bên kia con kinh

Sống mạnh mẽ như cuộc đời vốn cho ta sự chịu đựng và hòa nhập cùng hoàn cảnh vậy

Như bầy cá linh theo mùa nước nổi trở về từng đàn

Được thu gom từng giạ

Năm nào nước lớn

Cá về nhiều

Xóm kinh vui rộn rã

Mấy xị rượu buổi chiều hôm

Ấm tình thôn ấp.”

 

(Những tháng năm ở Bưng Đồng Tháp Mười, Đạp Xe Ra Ngoại Ô, trang 112)

 

Đúng vậy, năm nào tới mùa cá linh ở Đồng Tháp hay ở các vùng Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh, Sa Đéc… cá linh nhiều lắm, người ta mua bán cá linh phải đong từng giạ, từng giạ (40 lít), chứ không có cân ký như đời bây giờ, cá nhiều lắm, nhiều lúc ngoài làm mắm, ủ nước mắm, vào mấy năm 1950 người ta còn lấy cá linh ủ làm phân trồng thuốc lá, trồng dưa hấu, và các loại hoa màu khác nữa!

 

Nỗi khắc khoải ở Từ Hoài Tấn không dồn dập nhưng triền miên như những điệp khúc của một bản nhạc buồn làm tê tái lòng người qua những câu hỏi không có lời đáp lại ấy và rồi anh lại nhớ “Lau lách Bình Thành”, một bài thơ khác như một hồi ức về những năm tháng gian truân sống với đồng cỏ hoang vu mọc đầy lau sậy cùng bầy con nheo nhóc ở trần quanh năm trên những trảng bàng ngập nước:

 

“Ta về đây phất ngọn cờ lau

Dẫn bầy lâu la là đám con nhỏ

Tập trận trên những luống khoai mì

Trồng bờ đắp mới xong hôm qua

Bên dòng nước phèn tanh tưởi

Những luống khoai của một trận địa nghèo khó

Với bầy con ở trần quanh năm

Bên mụ vợ ở nhà quê đụng giường thì đẻ.”

 

Vâng, ở nhà quê, dường như trẻ con chào đời nhiều hơn ở các nơi thành thị. Phần lớn gia đình nào cũng có anh em rất đông, có khi lên tới năm sáu bảy người; có gia đình có tới mười một, mười hai đứa con, hết út mười, tới út mười một, út mười hai vì trẻ con được sanh ra đông lắm! Nguyên nhân của việc đông con như Từ Hoài Tấn nhận xét “đụng giường thì đẻ” , còn gọi “đẻ năm một” hoặc “đứa thôi nôi lôi đầy tháng” có lẽ rất đúng trong trường hợp này chăng?

 

Thế rồi, cuộc sống bất đắc dĩ như tác giả kể là phải che chòi bên bờ kinh xáng đất bùn vừa mới múc, và nhận ra rằng “những năm ấy như là chìm đắm êm ái với sự vô vọng”:

 

“Ta về đây với bông hoa tràm đồng nội

Rừng bạt ngàn lau lách

Đất bưng biền

Nước trong xanh chỉ để soi mặt mình, không uống được

Những trảng bàng mênh mông nối tiếp tận chân trời

Chỉ để thấy sự cô độc của kẻ không nơi nương náu

Về dựng chòi trên bờ kinh xáng múc

Những nhát cuốc xuống vùng đất mùn

Khơi tìm mạch sống

Những năm ấy như là

Kẻ thất phu

Mang nỗi đau ngày lưu lạc

Kẻ thất phu tự an ủi mình bằng vinh quang của sự hèn nhát cam chịu cuộc đời

Bên người vợ quê suốt ngày ca sáu câu vọng cổ

Những năm ấy như là

Chìm đắm êm ái với sự vô vọng”

 

(Xã Bình Thành Huyện Đức Huệ Tỉnh Long An - Biên giới Việt Miên những năm 1980s

Viết lại Sài Gòn tháng 2/2017)

 

Mười lăm năm lưu lạc đã qua rồi, mà chừng như tiếng vọng lại từ những miền hồi ức xa thẳm vẫn triền miên gợi nhớ về thân phận của một đoạn đời và có lẽ trong chừng mực nào đó, nỗi khắc khoải trong hồn người nghệ sĩ nhiều cảm xúc như Từ Hoài Tấn, nỗi nhớ ấy càng trở nên tha thiết hơn:

 

“Rừng ở đây và đất cũng ở đây

Từng ngày rồi từng năm tháng

Mười lăm năm không nghĩ sẽ qua

Dòng kinh xáng nước lớn ròng đôi bận

Nằm chờ biền sông dưới bóng cây gừa

Xuôi con nước thuận dòng về bến chợ”

(Xã Bình Thành Huyện Đức Huệ Tỉnh Long An - Biên giới Việt Miên những năm 1980s

Viết lại Sài Gòn tháng 2/2017)

 

Dù dòng đời trôi và những chuyến xuồng chở khẩm với bàng là bàng vừa mới nhổ xong và ghé về bến sông nơi chợ quận với biết bao cực nhọc, mệt mỏi nhưng có lúc Từ Hoài Tấn cũng bắt gặp được chút an ủi như “giấc mộng đầu hôm” vào những ngày lưu lạc ấy!

 

“Hàng đã lên bờ rượu đã bày ra

Vài con khô cá sặt

Chung ly rượu bằng hữu thương hồ

Ngất trời sảng khoái

Bèn cất tiếng ca rằng

Ta về đây về đây

Phấp phới ngọn cờ lau

Lãng tử hay tráng sĩ hề

Dửng dưng lòng nguội lạnh

Quê hương hay đất nước hề

Có còn không một cõi

Để

Những tháng năm tràn qua

Chỉ là giấc mộng đầu hôm”

 

(Xã Bình Thành Huyện Đức Huệ Tỉnh Long An - Biên giới Việt Miên những năm 1980s

Viết lại Sài Gòn tháng 2/2017)

 

Vâng, với khoảng đời nhổ bàng vùng bưng biền Đồng tháp dài có tới mười lăm năm, với người bình thường như dân quê tụi tôi còn không quên được những dãi dầu mưa nắng ấy đã đành nhưng với một người đa cảm như Từ Hoài Tấn, thì hồn thơ ở anh lại càng chất ngất nỗi băn khoăn:

 

“những buổi chiều chèo xuồng qua rạch Cần Giè

đi tắt ra sông Vàm Cỏ

bìm bịp kêu bên sông

con nước lớn

xuôi về vùng ánh sáng xa kia

nơi đô hội

xuồng nặng những bó bàng

với niềm hy vọng

sự bươi chải của sinh kế

mười lăm năm sống với cây cỏ bưng biền

yêu những loài hoa dại

trong những ngày miệt mài nhổ những cọng bàng no tròn ở vùng trũng nước

miếng ăn từ những giọt mồ hôi

từ những vắt cơm giữa trưa vội vã trên gò đất nổi mùa nước ngập”

 

(Sông Nước Miền Tây, trong thi tập “Đạp Xe Ra Ngoại Ô”, trang 20-22)

 

Người đọc nếu để ý, sẽ thấy Từ Hoài Tấn lúc nào cũng nhắc đến người vợ và các con bên cạnh vào những năm tháng cơ cực này, dù vợ không sang và con không giỏi nhưng với anh đó là mái ấm gia đình, là chiếc phao cứu độ, là niềm an ủi vào những ngày gian khổ của một đoạn đời mà anh đã phải thường trực phấn đấu với chính mình, với sông nước, với đồng cỏ, với thiên nhiên, với nghịch cảnh để sống còn:

 

“người vợ đồng quê tối sớm nụ cười cam phận

người vợ hiền như củ khoai

đám con nhỏ lớn dần như cây cỏ

năm tháng vui đùa cơm gạo đầy vơi

nghĩ đến cuộc đời như đám rừng tràm tự nhiên sau nhà không ai vạch đường mở lối

sống từng ngày như loài chim thiên di

luôn luôn chuẩn bị dời tổ trú ẩn

ba bốn ngày có một chuyến ghe xuôi về đất giồng

mang đầy sản vật của đồng nội”

 

(Sông Nước Miền Tây, trong thi tập “Đạp Xe Ra Ngoại Ô”, trang 20-22)

 

Thế rồi, với chừng ấy những sản vật chắc mót được qua bàn tay của chồng và của vợ, Từ Hoài Tấn không khỏi  “nghẹn lời trong cổ”:

 

băng qua sông

nương theo sóng xô bờ

vào bến chợ

tóc râu ta dài và buồn như sông nước mặt trời chiều

bên bến đò chờ con nước

lại về rồi lại đi

mỗi tháng năm lần bảy lượt

những đêm trăng tròn trên sông

hay những khuya neo ghe cùng trăng khuyết

bình minh xa lạ những nẻo đời

khúc hát trầm cho tương lai

nghẹn lời trong cổ”

 

 (Sông Nước Miền Tây, trong thi tập “Đạp Xe Ra Ngoại Ô”, trang 20-22)

 

Dù cơ cực đến tận cùng là vậy và dù nay thời gian vài ba chục năm đã qua lâu rồi, nhưng từ sâu thẳm trong lòng mình, Từ Hoài Tấn vẫn không quên gia đình ngoài miền Trung xa xôi và những ngày lặn lội vùng bưng biền Đức Huệ:

 

“gia đình thân yêu ở miền Trung xa xôi

nhiều năm qua không còn tin tức

lời kể lại ngày xưa thương nhớ thuở thiếu thời đã mất dần cùng quá khứ

và tuổi trẻ đã đem cho

anh em ơi uống bữa rượu này

bưng biền say sóng nước kênh xanh

 

những ngày tôi thơ dại cùng cỏ lau

là những ngày tôi chất ngất tuyệt vọng

 

tìm ra sông lớn băng qua rạch gần

chiếc xuồng trôi cùng nỗi tự do

thênh thang vùng sông nước

tôi vừa ra khỏi cuộc xoay vần

tìm niềm cô đơn vui cùng lau lách

tôi sống xa cách những ngày tháng vết hằn đau quá vãng

thời tuổi trẻ sương mù

cùng em bơi trong bể cạn

tôi sống đùa vui sông nước miền Tây

kỷ niệm ghi dấu cùng năm tháng

khi bước qua cuộc đời này

sẽ còn ai để kể lại

mười lăm năm chìm đắm ở miền Tây

 

 (Sông Nước Miền Tây, Tưởng nhớ và gởi lại những năm tháng sống ở vùng bưng biền Đức Huệ biên giới Campuchia)

(Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013)

 

Từ Hoài Tấn chẳng những anh không quên mà còn muốn “đạp xe ra ngoại ô” để tìm lại chính mình bởi ở đó, theo tác giả, không có sự phân biệt giữa giàu và nghèo, giữa sang và hèn vì “đây khu ngoại ô /đàn bà và đàn ông cùng một bộ đồng phục” và có lẽ ở đó, nơi ngoại ô ấy, theo anh, mình sẽ có dịp quay về với chính mình một cách dễ dàng hơn chăng?

 

Vâng, tập thơ “Đạp Xe Ra Ngoại Ô” của Từ Hoài Tấn dày 158 trang với phần Phụ lục gồm các bài nhận định của các tác giả Khổng Đức, Cao Thoại Châu, Du Tử Lê, Thận Nhiên, Viêm Tịnh đã dày 32 trang, nên phần thơ còn lại vừa đúng 125 trang, nhưng theo tôi đây mới chính là những trang sách được rút ra từ ruột gan của một người làm thơ luôn trăn trở về phận mình, luôn suy tư về cuộc đời và luôn khắc khoải về “những tháng năm ở Bưng Đồng Tháp Mười”

 

Dù không cố ý so sánh, nhưng đọc những dòng thơ viết về mười lăm năm nhổ bàng ở Đồng Tháp Mười của Từ Hoài Tấn tôi lại nhớ ngày xưa Tô Đông Pha cũng có những lúc che chòi, cất nhà, làm ruộng và bị đói khi bị đày xuống Huệ Châu, sống ở đó một năm rưỡi, mà có lần ông viết thơ cho Trần Thảo, bạn thân của ông: “Khổng Tử bảo có thể sống ở những nơi quê mùa được. Lời đó đúng…” (*); rồi có khi Tô Đông Pha bị đày ra đảo Hải Nam nhưng nhờ tinh thần “thuận thiên an mệnh- nghĩa là biết thich ứng với hoàn cảnh, không phàn nàn, lo lắng về những điều không thể tránh được- mà lần lần quen với cảnh ngộ”…“Người như ông, không ở đâu mà cô độc. Thân mật và giản dị, ông quen với mọi người”(**). 

 

Và qua mấy dòng cảm tưởng vừa rồi sau khi đọc thi tập “Đạp Xe Ra Ngoại Ô” của Từ Hoài Tấn, tôi nghĩ Từ Hoài Tấn cũng nhờ biết khế hợp với hoàn cảnh của chính mình với cảnh đồng bưng hoang vu mọc đầy những trảng bàng trắng xóa vùng Đồng Tháp Mười và anh đã viết cho mình và cho người đọc những vần thơ chan chứa một đoạn đời đầy bất trắc nhưng cũng đầy cảm xúc từ đáy lòng tác giả vậy! 

 

 “Khắc khoải sầu tuôn lòng tợ bể,

Bồi hồi dạ nhớ tháng như năm”

 (Vô danh)

 

Hai Trầu

Houston, ngày 26.9.2021

 

Chú thích:

(*) & (**) Từ sách Tô Đông Pha của Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn, ngày 3.9.1969, trang 262, trang 272.



Phụ Lục:

 

I.Sơ lược tiểu sử & tác phẩm của nhà thơ Từ Hoài Tấn:

 

·       Sinh năm Dần (1950) tại làng An Truyền (Chuồn ), quận Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên - Huế

·       Hiện sống và làm việc tại Sài Gòn

·       Sáng tác từ 1964

·       Thời niên thiếu cùng vài người bạn chủ trương các tập san thơ văn “Cuồng Biển”, nhà xuất bản “Nội Dung” ở Huế.

 

·       Thơ văn đã xuât hiện từ những năm 1960, 1970 trên các tạp chí Văn, Nghệ Thuật, Vấn Đề, Trình Bày, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc  …(trước 1975) và  Văn, Thanh Niên, Văn Nghệ, Sông Hương, …và một số diễn đàn mạng (sau 1975)

 

·       Mười lăm năm giang hồ vùng sông nước và bưng biền của vùng Đức Hòa Đức Huệ Tỉnh Long An trước khi định cư cùng gia đinh tại Sài Gòn năm 1994

 

Tác phẩm đã xuất bản:

·       Hành Tinh Phiêu Lạc (thơ, 2003 – NXB Thuận Hóa)

·       Đi, Đứng Và Chạy (nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2012)

·       Phục Hưng Tôi Và Em (2013)

·       Mấy Khúc Đoạn Giang Hồ (Thơ lục bát, Cuồng Biển bản thảo, 2016)

·       Bản Tình Ca Của Gió Bụi (Cuồng Biển bản thảo, 2018)

·       Đạp Xe Ra Ngoại Ô (thơ, nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018)

Các tuyên tập thơ in chung:

·       Tự tình với Huế (NXB Trẻ 2004)

·       1000 Nhà thơ Huế đương thời (NXB Hội Nhà Văn 2006)

·       700 năm thơ Huế (NXB 2006)

·       Những dòng sông đêm (cùng Viêm Tịnh, Nguyễn Miên Thảo, Lê Ngọc Thuận – NXB Thuận Hóa 2007)

·       Bông và Giấy – 30 tác giả hôm nay (NXB Lao Động 2010)

·       Thơ trên Sông hương 2003-2013 (Nhà xuất bản Thuận Hóa) 

 

II.Vài hình ảnh kỷ niệm dịp nhà thơ Từ Hoài Tấn ghé thăm Houston và gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ các nơi khác đến vào ngày 25-05-2019: 




·     Tại tiệm cà phê Nguyễn Ngọ

 


Từ trái: anh Lê Minh Giang, Hai Trầu, anh Từ Hoài Tấn, anh Nguyễn Hàn Chung, anh Nguyễn Đình Thuần, anh chị Phan Xuân Sinh – Thiên Nga.



·     Tại nhà anh chị Phan Xuân Sinh

 


Từ trái:Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, anh Phạm Văn Nhàn, anh Tô Thẩm Huy, anh Từ Hoài Tấn.

 


Từ trái: anh Trần Hoài Thư, anh Nguyễn Đình Thuần, anh Tô Thẩm Huy, anh Phạm Văn Nhàn, anh Từ Hoài Tấn.

 


Từ trái: anh Trần Hoài Thư, anh Nguyễn Đình Thuần, anh Phạm Văn Nhàn, anh Tô Thẩm Huy, anh Từ Hoài Tấn, anh Cái Trọng Ty, anh Dương Phước Tấn.





Từ trái: anh Trần Hoài Thư, anh Từ Hoài Tấn.

 


Từ trái: Anh Phạm Văn Nhàn, anh Trần Doãn Nho, anh Từ Hoài Tấn, anh Nguyễn Đình Thuần, anh Trần Hoài Thư.


Từ trái: anh Phạm Văn Nhàn, anh Trần Doãn Nho, anh Từ Hoài Tấn, anh Nguyễn Đình Thuần, anh Tô Thẩm Huy, anh Trần Hoài Thư.