Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

Tam quan chùa Huế

Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.

Tam quan quốc tự Diệu Đế.
Tam quan được xem như cửa ải giữa hai thế giới thánh phàm, tịnh nhiễm nhằm thanh lọc và bảo hộ tâm hồn của hành giả mỗi khi ra vào. Bởi vậy, người ta thường gọi cổng tam quan của nhà chùa là cửa Phật, cửa Tam bảo, cửa Thiền, cửa Từ bi, cửa Giải thoát (Tam giải thoát môn)...
Do vậy, trong bố cục kiến trúc tổng thể của một ngôi chùa xưa, chư Tổ thường đặc biệt quan tâm đến hạng mục kiến trúc cổng tam quan. Mỗi chiếc cổng tam quan xưa đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa con người, cảnh vật và giáo lý giải thoát của nhà Phật để xây dựng nên nhằm giúp cho người bước vào luôn có cảm giác gần gũi, gạt bỏ ra ngoài những thị phi phiền muộn của thế gian ô trược, dọn lòng thanh tịnh trước khi vào lễ Phật bái tổ.

Tam quan chùa Từ Hiếu.
Điển hình như một số cổng tam quan cổ rất đẹp còn được bảo lưu nguyên vẹn ở Huế mà mỗi lần bước chân vào người ta đều có cảm giác như đi vào “cửa thiền”. Đó là cổng tam quan chùa Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Diệu Viên và cổng tam quan quốc tự Thiên Mụ, quốc tự Diệu Đế, quốc tự Thánh Duyên... Những chiếc tam quan của các chùa trên đều rất cổ, hầu hết được xây dựng từ thời các vua chúa nhà Nguyễn. Nét rêu phong trên những đường nét kiến trúc cổ kính đã đem lại cảm giác an lạc cho mọi người ngay từ khi bước chân vào cổng chùa.
Kích thước chung mỗi kiến trúc tam quan cổ có chiều cao khoảng 7 đến 10m, chiều ngang khoảng hơn 8m, bề dày khoảng từ 2 đến 3m. Với kích thước như thế cổng tam quan còn có một chức năng tránh mưa nắng cho khách qua đường, đồng thời mỗi khi bước chân qua vòm cổng dày khoảng 2 đến 3m thấp lè tè có cảm giác như cạ ngang đầu làm cho mọi người có dịp cúi xuống để nhìn lại mình.

Tam quan chùa Báo Quốc.
Cổng tam quan chùa Từ Hiếu, một kiểu tam quan xây dựng theo dạng thức cuốn vòm thượng lâu hạ cổng. Phần trên “lầu” dùng để tôn trí tượng Hộ Pháp, hai bên có hai lầu giả tô vẽ cảnh đẹp núi sông xứ Huế. Phần dưới có 3 vòm (tam quan) tượng trưng cho Tam bảo. Bước chân vào chiếc cổng tam quan này chúng ta liền thấy tâm hồn thanh thản.
Cổng tam quan chùa Báo Quốc lại rất đồ sộ và cổ kính được xây bằng gạch có chiều cao 7,01m, chiều ngang 9,895m, chiều dày 2,54m, gồm 3 tầng tượng trưng cho Tam bảo mà không có phần lầu để thờ tượng Hộ Pháp. Tuy nhiên với kích thước cũng như cách trang trí chữ Hán và đường nét cổ kính, chiếc cổng cũng làm cho người ta có cảm giác nhẹ nhàng và thanh thoát khi bước vào.

Tam quan chùa Diệu Viên.
Đặc biệt, cổng tam quan Thanh Trúc của chùa Diệu Viên lại được xây dựng theo lối cổng-động rất đặc trưng. Phía dưới chỉ một vòm cổng dẫn sâu hút vào chùa bằng một lối đi, phía trên là động Quán Âm, chất liệu gạch và vôi vữa nhưng bên ngoài dán đá để tạo ra một loại cổng hình hang động rất ấn tượng.
Riêng tam quan của các ngôi quốc tự như Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên lại có một nét kiến trúc riêng có phần ảnh hưởng của lối kiến trúc cổng kinh thành Huế. Phần trên được kiến trúc theo kiểu vọng lâu dạng như nhà bia, bên dưới có 3 lối đi vào thiết kế theo hình khối vuông hay hình vòm. Phần mái vọng lâu của các cổng tam quan trên thường được lợp bằng ngói ống vàng hoặc xanh lưu li. Các bờ nóc, bờ quyết trang trí hình giao long cách điệu. Chính giữa thuyền nóc trang trí hình rồng chầu bánh xe pháp luân.

Tam quan quốc tự Thiên Mụ.
Trên thân mỗi chiếc cổng tam quan được trang trí nhiều câu đối bằng chữ Hán nói lên lịch sử và cảnh đẹp của ngôi chùa cũng như những triết lý của nhà Phật cùng hoa văn rồng cuộn và hoa lá cành ghép bằng mẻ sành rất tinh xảo.
Sự kết hợp hài hòa giữa cổng vòm, vọng lâu với những đường nét trang trí cửa vuông tròn, nét tinh tế uốn lượn của bờ nóc, bờ quyết cũng như cách tôn trí các tượng Hộ Pháp... làm cho các cổng tam quan các chùa Từ Hiếu, Báo Quốc, Diệu Viên, Thiên Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên vừa trông rất uy nghi, chắc khỏe vừa đem lại cảm giác thanh thoát, nhẹ nhàng cho hành giả cũng như thập phương tín thí và du khách mỗi khi vãn cảnh chùa.

Tam quan quốc tự Thánh Duyên.
Với lối kiến trúc đặc trưng của cổng tam quan các ngôi cổ tự ở Huế, ngoài những giá trị nghệ thuật còn là một bài pháp trực quan rất có ý nghĩa để khi hành giả bước chân vào chốn già lam lòng trở nên thư thái, nhẹ nhàng và thanh tịnh.
Bài, ảnh: Không Lực (giacngo.vn)

Chép lại từ http://hue.vnn.vn

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn

TT - Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn vừa hoàn thành tập sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn (1802-1945), với hình ảnh và khảo cứu tổng thể về phẩm phục từ vua đến các chức quan, từ hoàng tộc đến các sắc lính...
Tác giả Trần Đình Sơn giới thiệu tập sách vừa in xong, do Công ty Cửu Đức liên kết NXb Hồng Đức ấn hành, dày 272 trang, khổ 27x27cm -Ảnh: L.Điền

Năm 2011, thông tin bộ tranh quý về triều Nguyễn chào bán tại Mỹ (Tuổi Trẻ Cuối Tuầnngày 4-5-2011) gây xôn xao dư luận với ý kiến của các nhà nghiên cứu bày tỏ mong muốn làm sao để bộ sưu tập này “quay về” với Việt Nam. Ðiều mong muốn ấy không thành, nhưng trước đó từ năm 2009, nhà nghiên cứu Trần Ðình Sơn từng được một người bạn ở Pháp gửi về tặng bản chụp toàn bộ bộ tranh quý ấy.
“Khi bắt tay soạn sách, tôi tìm thấy bức tranh thờ tại tổ đình Tường Vân do họa sĩ Nguyễn Văn Nhân vẽ hòa thượng Hải Toàn Linh Cơ vào năm 1895.
Thông tin trên bức tranh này cho biết Nguyễn Văn Nhân quê ở Hà Nội, làm chức ký lục tòa khâm sứ tại kinh đô.
Còn bên ngoài túi đựng bộ tranh truyền thần Đại lễ phục của triều đình An Nam có thông tin cho biết Nguyễn Văn Nhân là “biên tu Viện hàn lâm hưu trí” vào thời điểm vẽ (1902)”.
TRẦN ĐÌNH SƠN
Ông Trần Ðình Sơn gọi đây là một cơ duyên, vì người bạn ở Pháp khi được mời giám định bộ tranh đã xin chụp lại một bản và gửi về cho ông.
Và nay, từ bản chụp bộ tranh quý ấy, cộng với quá trình khảo cứu những nội dung quy định thể thức áo mão phẩm phục của triều Nguyễn từ bộ sách Ðại Nam hội điển sự lệ(sau đây gọi là Hội điển), nhà nghiên cứu Trần Ðình Sơn đã biên soạn tập sách Ðại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn (1802-1945).
Trước lễ ra mắt sách sẽ tổ chức tại Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM vào sáng 1-3, ông Trần Đình Sơn dành cho Thế giới sách cuộc trao đổi.
* Từ những quan tâm theo đuổi của ông về đề tài áo mão phẩm phục hoàng triều cho đến ý tưởng soạn một bộ sách về đề tài này diễn ra như thế nào?
- Tôi vốn có ý định sau khi nghiên cứu về đồ sứ men lam Huế sẽ bắt tay nghiên cứu về áo mão phẩm phục triều đình Huế. Nhưng các bộ phẩm phục hoàng triều tàng trữ ở nhà không nhiều, mà nếu chỉ nghiên cứu dựa trên tư liệu như trong Hội điển thì người đọc sẽ khó hình dung vì không có hình minh họa. Đến khi có ảnh chụp toàn bộ các bức tranh này với hình ảnh rất rõ, đầy đủ các loại phẩm phục triều đình Huế, tôi biết là tư liệu quý. Nhưng giá chào bán lúc đó đâu 8.000-9.000 euro, mua không nổi.
Khi nhận được bộ ảnh chụp từ người bạn chuyên theo dõi cổ vật tại Paris, tôi tham khảo ý kiến luật sư và nhiều bạn bè, tất cả đều đồng tình là nên có công trình nghiên cứu về lễ phục triều Nguyễn mà bộ hình ảnh này là cơ sở quan trọng.
Năm 2011 báo Tuổi Trẻ công bố sự kiện này, đến năm 2013 tôi bắt tay vào soạn sách.
* Như vậy có thể xem tập sách là công trình nghiên cứu lần đầu tiên dựa trên một bộ tranh truyền thần vẽ từ vua tới các quan, từ hoàng triều, tôn thất đến binh lính. Theo ông, tầm quan trọng ấy có những tác động thế nào đối với người đọc?
- Bộ tranh của Nguyễn Văn Nhân vẽ vào năm 1902 theo cách truyền thần, tức vẽ người thật. Trong đó có ba nội dung chính: hình ảnh của hoàng gia gồm đủ các chức tước, các vị trí trong hoàng tộc (tự thiên tử chí tôn thất); hình ảnh quan lại: từ quan phẩm thứ nhất đến phẩm thứ chín, đủ cả văn võ, đủ cả chánh phẩm và tòng phẩm với phẩm phục bao gồm cả thường triều (mặc đi làm việc) và đại triều (mặc vào lạy vua); và thích thú nhất với tôi là hình ảnh sắc phục các loại lính: cận vệ, nấu ăn, lính hầu trà, lính lễ thanh minh, bảo vệ, các đội kinh tượng, chiến mã..., sắc phục có đủ trong những lúc bình thường và khi làm lễ.
Đây là một tư liệu đặc biệt quý hiếm và quan trọng, cần thiết cho nhiều giới. Giới nghiên cứu lịch sử có thể tìm thấy từ đây hình ảnh, ghi chú về lễ tế Nam giao; để khi tái hiện những phim ảnh lịch sử, nếu vào thời Nguyễn thì hình ảnh này là chuẩn rồi, không sai được.
Những hình ảnh trong sách này cũng là cơ sở để phục dựng các hình ảnh về vua quan thời Nguyễn tại Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, để du khách nước ngoài có đến tham quan chiêm ngưỡng cũng thấy được các hình thức phẩm phục chính xác.
Hơn nữa, tập sách này cũng cần cho những người hoạt động thời trang, nhất là những người đang sáng tạo mẫu lễ phục, quốc phục Việt Nam, chắc chắn cần tìm hiểu các lễ phục xưa để nắm bắt những yếu tố: nghiêm túc, trang trọng, bản sắc.
LAM ĐIỀN thực hiện
tuoitre.vn

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Lê Vĩnh Tài: Thơ hôm nay nên “khó” đọc hay “khó” đăng?

1.Tôi chưa bao giờ quyết định rằng mình sẽ làm một bài thơ. Những câu chuyện vẩn vơ đâu đâu hay những giấc mơ thường bất ngờ bám lấy tôi và “bắt” tôi phải viết. Có lẽ vậy mà tôi thường viết rất nhanh. Tôi luôn luôn thấy những lỏng lẻo khi mình phải “cấu trúc” một bài thơ. Khi tôi phải nhớ lại mình đã làm một bài thơ như thế nào thì chỉ còn một cảm giác mơ hồ, chứ không phải là một kinh nghiệm. Nó chỉ là một phản ứng ngôn ngữ của tôi ngay lúc ấy, với câu chuyện ấy, và bây giờ thì không còn ám ảnh mình nữa, vậy thôi. Đó là lý do tại sao tôi rất thích sự phi lý trong quá trình sáng tạo. Nhưng tôi cũng tin rằng, sự phi lý này phải được chuyển tải đến người đọc. Thật mệt mỏi khi anh đánh đố mọi người mà cuối cùng câu trả lời của anh lại chẳng có vấn đề gì trầm trọng. Mà thơ thì không thể giấu. Đó không chỉ là trí tuệ mà còn là thế giới quan của thi sĩ. Anh không nói hết những ý nghĩ của chính mình thì còn ai có thể nói thay anh? Rồi khi tuổi đời đã mòn, cảm xúc đã cạn lại đành hồi ức tiếc nuối đâu đâu…
Hòa tan cảm xúc của mình vào sự bí ẩn, nhưng nhà thơ cần phải gửi gắm vào đó những yêu thương và căm ghét. Tôi thích những nhà thơ quyến rũ bạn đọc bằng tư tưởng của mình, không phải những phiêu lưu tối mò và kỹ thuật vô ích.
Về phần tôi, tôi tin rằng sự tinh tế của nhà thơ làm nên sự “khó” của thơ hôm nay (những giai đoạn khác thì tôi không biết), nếu có thể, thì chỉ nên khó đăng chứ không nên khó hiểu. Đã đành không ai dám xếp thơ vào một nhu cầu không quan trọng, nhưng trong cuộc sống còn khó khăn mệt mỏi, đọc thơ là một nhu cầu có thể “miễn trừ” đối với nhu cầu kiếm đủ áo cơm. Vì thế, người đọc cần đọc ngay vào những cái mà họ thấy yêu thương hay cay đắng (dĩ nhiên bằng một ngôn ngữ có thể đầy “vật lộn” chỉ có ở nhà thơ). Sự vòng vèo vô ích của nhà thơ tối tăm đôi khi làm người đọc chán không phải vì “khó” mà vì cuối cùng anh cũng không mang lại cho người đọc được những gì mà họ mong mỏi. Những kịch tính ấy xưa nay là đặc quyền của các nhà văn xuôi, nhưng có lẽ đã đến lúc nhà thơ cần chia xẻ trách nhiệm này. Không phải không có lý khi người ta không chỉ chán ngán mà còn đang oán trách các nhà thơ thời nay viết quá nhiều những bài thơ tùy tiện du dương và vô nghĩa. Sự “khó” của thơ nên mang lại cho người đọc một ngụ ngôn về cuộc đời dù với những biên tập kiểm duyệt mà con người ta vẫn có thể lang thang trên những bài thơ đầy khai mở, chứ sự “khó” không bao giờ làm thơ thành một thứ hàng hóa xa xỉ. Nhà thơ sáng chế ra sự “khó” làm thành những hư cấu về cuộc sống, dù dịu dàng hay tàn ác thế nào đi nữa, vẫn đáng sống và vẫn gần gũi trong tầm tay mọi người. Bạn đọc muốn nhà thơ hãy nhường phần hy vọng xa xôi tận đâu cho tôn giáo với những công bằng của thiên đàng địa ngục ở kiếp sau.
2.Tôi không thấy một rào cản nào của “thơ trẻ” hiện nay với bạn đọc cả. Cũng không có rào cản của thơ nói chung. Có thể có vài ba rào cản nào đó, nhưng đó không phải rào cản anh đang ám chỉ mà là những chuyện ngoài thơ. Chẳng còn ai muốn nghe nữa. Sự phát triển của xã hội làm người đọc thơ hôm nay không còn tấm màng che hai bên mắt ngựa và các nhà thơ cũng không còn trói buộc vào một chủ nghĩa hay phương pháp sáng tác nào. Điều vui sướng của người đọc bây giờ là đọc xong một bài thơ mà vẫn lưu giữ những ý nghĩa lẩn quất trong đầu, dù niềm vui ấy có bị đe dọa về sự không sáng rõ do những bí ẩn của bài thơ mà nhà thơ vô tình mang lại.
Tôi vẫn nghĩ thơ luôn luôn là tên gọi của một nỗi buồn. Đó là lý do các nhà thơ tiếp tục mộng mơ, tiếp tục viết, tiếp tục lý giải về những phận người đã và đang bị ruỗng mòn bởi sự tàn ác, thời gian… và cuối cùng là cái chết. Sự múa may và vô nghĩa trong thơ nhằm làm cho mọi người lim dim ngủ như ngấm thuốc phiện là một tội mà chắc bạn đọc sau này khó tha thứ. Một nhà thơ bẩm sinh luôn luôn có khả năng mang bạn đọc đi theo tới cùng nhằm nhận được sự sáng rõ của mình sau những rối loạn đáng yêu của tất cả các giác quan. Hình như đó mới là quyền lực của thơ và những nhà thơ thực sự.

http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=1611

Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Ân tình và nước mắt

LÊ KÝ THƯƠNG



Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh

1.
Tháng 10 năm 1970, khi nhà thơ Tô Đình Sự vào Sài Gòn nhận Sự vụ lệnh biệt phái về Ty Thuế vụ Cam Ranh, thì bạn bè ở Phan Rang hết sức bất ngờ và ngỡ ngàng hay tin anh chết bất đắc kỳ tử vì tai nạn ô-tô!Mới cách đó hai hôm, anh còn kéo tôi đi nhậu với “băng” Thuế vụ, dẫu anh biết rằng tôi vẫn là… cá lòng tong chuyên phá mồi. Tô Đình Sự khoảng một năm trước khi mất, tính tình anh thay đổi hẳn.Từ một người ít nói, sống nhiều với nội tâm, với những mất mát, những khổ đau trong kiếp người, dù đang thanh xuân, anh trở thành một người “ồn ào”, lúc nào cũng “oang oang cái mồn”, ưa “cà khịa” với bạn bè, rất dễ làm mích lòng nhau. Trường hợp cụ thể nhất là giữa Tô Đình Sự với Chu Trầm Nguyên Minh.
Hai anh là bạn thân và bạn thơ với nhau. Khi Chu Trần Nguyên Minh in tập thơ “Quê hương Thơ và Nước mắt” do Mai thực hiện vào năm 1968  tại Phan Rang, ở căn nhà số 11 Nguyễn Thái Học, thì hôm đó có cả Tô Đình Sự, từ trường Hạ sĩ quan Đồng Đế Nha Trang chạy xe Honda vượt đoạn đường hơn một trăm cây số, về dự buổi ra mắt tập thơ của bạn mình. Trong không khí thân tình giữa một nhóm bạn bè văn nghệ ít ỏi ở Phan Rang, Sự vừa nhìn thấy bìa tập thơ do họa sĩ Thanh Hồ trình bày đã vội thốt lên: “Quê hương thơ và nước mắm”. Không biết có phải vì quê hương Phan Thiết của Chu Trầm Nguyên Minh nổi tiếng nhờ nước mắm không, hay vì một lý do nào đó động chạm đến lòng tự ái và cả lòng tự trọng, nên Chu Trầm Nguyên Minh “đỏ mặt tía tai”, hét to: “Đm., mày dám nói xóc óc tao hở? Có ngon thì ra đây chơi!” – “Chơi thì chơi, tao sợ gì mày”… Sáng hôm đó, thay vì bạn bè văn nghệ sẽ kéo đến quán cà-phê Diễm “uống cà-phê nghe nhạc Trịnh” ăn mừng tập thơ còn nóng hổi mùi mực in ronéo, thì phải can ngăn một cuộc ấu đả sắp xảy ra giữa hai người bạn thân nhau.
Khi Tô Đình Sự mất, bạn bè thân đều đưa anh đến nơi yên nghĩ cuối cùng là nghĩa trang Cà Đú. Tôi thấy Chu Trầm Nguyên Minh đứng một mình một góc nghĩa trang, đầu trần giữa cái nắng cháy da người của Phan Rang.Lặng lẽ buồn. Đôi mắt hoe đỏ vừa khóc tiễn đưa người bạn thân vắn số. Những giọt nước mắt ấy đã xóa tan phút giây giận bốc đồng của tuổi trẻ thường có. Những giọt nước mắt ân tình và cũng là thân tình!
Bốn mươi ba năm sau, khi tập san Quán Văn chuẩn bị ra số “Viết về Sông Dinh – Phan Rang”thì Chu Trầm Nguyên Minh, người từng sống và dạy học ở Phan Rang 10 năm, sốt sắng bảo tôi viết về Tô Đình Sự vì biết tôi là bạn thân của Sựvà một người làm thơ sinh sống ở Phan Rang nữa là Ngọc Thùy Khanh. Nhưng vì lý do vừa khách quan vừa chủ quan, tôi thất hứa với anh. Tôi chỉ cung cấp một số tư liệu về Tô Đình Sự có sẵn trên mạng cho Nguyên Minh thực hiện số báo này. Còn Ngọc Thùy Khanh thì tôi không quen.
2.
Sau Tết 2013, Nguyên Minh rủ tôi, Lữ Kiều và Sâm Thương về Phan Rang ăn giỗ người Cô – mẹ kế của Nguyên Minh – người mà tôi và bạn bè của Nguyên Minh gọi là Cô Hai, hay vắn tắt là Cô, một cách trân trọng. Trước 75, thời gian tôi sống ở nhà Cô chừng bảy năm, nhưng không liên tục, đi xa một thời gian chừng hai năm rồi về lại “căn nhà số 11 Nguyễn Thái Học”. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp ở nơi chốn này.Cô và những người em của Nguyên Minh coi tôi như một thành viên thân tín của gia đình.Nhưng ngày Cô mất, tiếc rằng tôi không có mặt ở Phan Rang.Bây giờ là dịp thuận lợi để về dự ngày giỗ Cô.
Chúng tôi hẹn gặp nhau ở ga Sài Gòn để cùng nhau đi chuyến tàu đêm. Trước khi lên tàu, Nguyên Minh cho biết có thể Chu Trầm Nguyên Minh cùng đi trên chuyến tàu này để về thăm lại Phan Rang, nơi anh đã dạy học ở Trường Trung học Duy Tân và Trường Trung học Pklong Garai bảy tám năm trời.Nói “có thể” vì anh quyết định về chuyến đi muộn trong khi chúng tôi đã mua vé tàu trước đó rồi. Khi tàu bắt đầu lăn bánh, tôi là người nhỏ tuổi nhất, được bạn bè “đề cử” đi khắp các toa tìm xem có anh không. Tôi đi dần về phía toa ghế ngồi thì gặp anh, tay bắt mặt mừng, nhưng thấy vẻ mặt anh không tươi, không vui chút nào, mà thay vào đó là nụ cười xanh xao và gượng gạo. Tôi đã biết anh mang chứng bệnh ung thư gan sáu bảy năm nay, tôi hỏi anh có cảm thấy mệt không và sao không đi toa giường nằm. Anh trả lời: mình ngồi quen rồi, nằm nó lại mệt. Anh hỏi lại tôi: Thương đi tàu có khỏe không? Sở dĩ anh hỏi vậy là vì biết tôibị tai biến mạch máu não đã hơn ba năm. Tôi trả lời vui, cốt cho anh an tâm: Sức khỏe của mình hầu như bình thường, tốt, chỉ còn cơ bàn tay hơi yếu, mình đi làm bằng xe gắn máy, còn làm tài xế chở bà xã dạo phố được mà…

Khi tới Phan Rang, chúng tôi đã được Sơn, em của Nguyên Minh, đặt phòng trước ở khu resort nằm trên bãi biển Ninh Chữ. Tôi, Nguyên Minh và Chu Trầm Nguyên Minh ở cùng phòng. Lữ Kiều cùng Sâm Thương ở một phòng. Chúng tôi nói đùa với nhaubốn thằng mình thuộc hạng VIP, đi chơi mà đem theo bác sĩ riêng. Bác sĩ riêng của chúng tôi là Thân Trọng Minh, tức LữKiều, cả bốn đều là bệnh nhân của anh.
Lúc này, chúng tôi thấy Chu Trầm Nguyên Minh tươi tỉnh hẳn lên, đã bỏ lại nụ cười gượng của anh trên chuyến tàu đêm.Trong ba ngày vui chơi thăm thú và dự đám giổ Cô Hai ở Phan Rang, Chu Trầm Nguyên Minh được gặp lại người học trò cũ mà anh dạy vẽ ở trường Poklong Garai. Anh đã phát hiện người học trò này có năng khiếu hội họa đồng thời khuyến khích, giúp đỡ cậu ta đi theo con đường nghệ thuật. Anh học trò Đàng Năng Thọ ngày xưa bây giờ trở thành họa sĩ, hiện nay là Giám đốc Bảo tàng Chăm Ninh Thuận. Ở Phan Rang anh còn một cô học trò nữa ở trên đường đi xuống làng Tấn Tài, chúng tôi phải “lặn lội” trong đêm vì đường xá mới mở, không có đèn đường, hỏi thăm nhiều người mới tìm ra nhà. Cô học trò này nói nhờ anh động viên từ thời còn “học thầy” mà đến nay đã xuất bản trên 30 tác phẩm (!).
Đêm trước khi chúng tôi rời Phan Rang, con trai của Ngy Hữu mời “mấy chú” đi uống cà-phê ở quán “xịn và to nhứt” ở đây. Trong không khí bạn bè ấm cúng, thân tình và khung cảnh nên thơ, Chu Trầm Nguyên Minh mặc sức trút bầu tâm sự. Anh kể lại cái duyên gặp lại Nguyên Minh vào năm 2012 để rồi không ngờ có hứng viết lại và viết nhiều, viết hăng sau khi “bỏ bút” từ tháng 3 năm 1975. Rồi anh kể sang giai đoạn đi “học tập cải tạo”, giai đoạn làm huấn luyện viên tennis ở Sài Gòn khi đưa cả vợ con từ Phan Rang vào, nhờ thế mà có tiền nuôi vợ, nuôi con ăn học đàng hoàng… Anh say sưa kể hết chuyện này sang chuyện khác, chúng tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Lần đầu tiên tôi thấy anh phấn chấn nói nhiều như vậy. Tôi trộm liên tưởng tới trường hợp “đột biến” của Tô Đình Sự, bạn thân của anh và cũng là bạn thân của tôi.
3.
Trước Tết 2014, khi nghe Đỗ Hồng Ngọc cho biết tin Chu Trầm Nguyên Minh đã vào bệnh viện trở lại, tôi bèn gọi điện cho anh. Anh nói với tôi: mình khỏe lại rồi, để hôm nào xuất viện mình báo cho Thương biết, Thương đến nhà thăm. Sau Tết, tôi gọi cho Nguyên Minh hẹn hôm nào đến nhà thăm anh,cùng đi cho vui, thì Nguyên Minh báo cho biết anh đã nhập viện lại hôm mùng 2 Tết, và lần này ở bệnh viện Triều An, tít trên An Lạc, gần bến xe Miền Tây. Nguyên Minh phải chờ đứa con ăn Tết ở Phan Rang về, mới nhờ cháu chở đi được. Rất may , hôm 11-2 Trương Văn Dân điện thoại cho tôi hẹn sáng hôm sau đến thẳng bệnh viện thăm Chu Trầm Nguyên Minh, Dân cũng cho biết rõ khoa nào, phòng nào.
Khi tôi chạy xe gắn máy đến bệnh viện Triều An thìmọi người đã có mặt trong phòng điều trị rồi. Lúc đầu, tôi đã đứng trước cửa phòng của anh, nhưng không dám gõ cửa bước vào, vì thấy tấm bảng đề chữ VIP.Đến khi tôi gọi điện thoại cho Trương Văn Dân hỏi lại cho rõ, thì Dân mở cửa chạy ra đón tôi.Khu này ở tầng 2, dành riêng cho khách “VIP”, mỗi người một phòng.
Ngoài con dâu của anh, tôi thấy có vợ chồng Đặng Châu Long, vợ chồng Trương Văn Dân, Vũ Tiến Thành và một cây viết của Quán Văn (xin lỗi tôi quên tên) ngồi vây quanh giường bệnh. Trông anh gầy hẳn, chứ không vàng vọt như tôi tưởng. Tôi nắm cánh tay anh, hỏi thăm sức khỏe, anh trả lời “mình khỏe rồi Thương” với giọng mềm yếu hẳn, hình như anh rơm rớm nước mắt…
Lần thứ nhất, cách nay 44 năm, tôi thấy những giọt nước mắt của anh khóc vĩnh biệt một người bạn thơ, bạn thân.Lần này, những ngấn lệ của anh có phải để chuẩn bị tiễn biệt chính mình?
LÊ KÝ THƯƠNG

Sài Gòn, 8 PM ngày 22-2-2014



Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

NGUYÊN MINH viết về CHU TRẦM NGUYÊN MINH


Từ thập niên 1960 anh em trong giới cầm bút vẫn thường nhầm lẫn cứ tưởng Nguyên Minh và Chu Trầm Nguyên Minh là một người.
Đến bây giờ, cùng ngồi chung một chiếu trong tập san văn học nghệ thuật Quán Văn có người vẫn nhầm lẩn. Trong buổi họp mặt ở nhà bác sĩ Nguyễn Chí Thiện ở Pháp, gặp tôi nhà văn Chinh Ba ôm lấy và khen bài thơ tôi viết về sông Seine đăng trên mạng Việt Văn Mới của Từ Vũ hay lắm. Biết là anh nhầm. Tôi cười và nói: Cả đời tôi không biết làm thơ.
Quay sang người đứng bên cạnh, tôi cầm tay anh ta và giới thiệu với mọi người: “Đây mới chính là nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh”.
Tháng 5 năm 2014 anh em chúng tôi gồm Nguyên Minh, Chu Trầm Nguyên Minh, vợ chồng Cao Quảng Văn, Trường Văn Dân và Elena cùng sang Pháp và suốt thời gian 30 ngày cùng ở chung nhà bác sĩ Nguyễn Chí Thiện. Để tránh gọi nhầm tên mọi người gọi anh Chu Trầm Nguyên Minh là Chu Trầm mà thôi.
Trước khi qua Pháp, Lữ Kiều đã cho tôi biết về bệnh tình của anh: Ung thư ở  thời kỳ thứ 3 không biết anh đi theo tôi có phải là một gánh nặng. Anh hỏi ý kiến của bác sĩ đang điều trị cho anh. Mang đầy đủ thuốc theo và không nên ở Pháp quá 30 ngày.
Tưởng anh sẽ là gánh nặng cho tôi. Ai ngờ, ngược lại tôi là gánh nặng với anh. Tôi bị gục ngã bởi những cơn sốt liên miên. Anh luôn luôn ở bên cạnh, ân cần chăm sóc.
Về lại Sài Gòn nhờ có vợ ra sức chăm chút bồi dưỡng chồng và Lữ Kiều (bác sĩ Thân Trọng Minh) chữa trị bệnh tình của tôi mới chóng khỏi.
Chúng tôi tiếp tục làm Quán Văn số đặc biệt về sông Seine.
Sau đó là số về dòng Mường Mán, tôi nhờ anh kết hợp với anh em cầm bút trong và ngoài nước gởi bài vở về. Anh như cánh tay mặt của tôi. Số ra mắt tại Sài Gòn anh không đến tham dự vì cơn bệnh đang dày vò. Như đã dự định từ trước theo ý anh Quán Văn tổ chức buổi giao lưu tại Phan Thiết và một độc giả (dấu tên) qua Chu Trầm Nguyên Minh đặt mua 100 cuốn Quán Văn nhờ chuyển về làm quà tặng các thư viện và giới cầm bút ở Phan Thiết. Buổi họp mặt thân mật với anh em văn nghệ Phan Thiết lại vắng mặt anh.
Cơn bệnh đã đến hồi nguy ngập. Vào nhà thương rồi trở về nhà, tôi cùng vợ chồng Trương Văn Dân – Elena và Hoàng Kim Oanh kéo nhau đến thăm hỏi và động viên. Hẹn nhau cùng làm báo Quán Văn đến số 100.
Anh đến với Quán Văn như một cái duyên tiền định. Như ngày xưa anh đến với Ý Thức thời ronéo ở Phan Rang. Cả anh và tôi cùng học một trường Sư Phạm Qui Nhơn năm đầu tiên nhưng chúng tôi không quen biết nhau. Đến khi cả hai chúng tôi về cùng một thị xã nhỏ là Phan Rang, và tôi cùng một số anh em trong nhóm Gió Mai ở Huế làm nên tạp chí Ý Thức anh đến với bút hiệu Chu Trầm Nguyên Minh. Bấy giờ tôi mới biết Phạm Minh Tâm thường ngày tôi gặp nơi trường học là Chu Trầm Nguyên Minh, và ngược lại anh cũng ngạc nhiên Nguyễn Chí Minh là Nguyên Minh. Khi tôi mang tờ Ý Thức vào Sài Gòn để tiếp tục, với một hình thức khác, bề thế hơn, in typô rồi đến offset, phát hành rộng rãi trên toàn miền Nam, Chu Trầm Nguyên Minh vẫn gởi thơ, văn cộng tác.
   
Sau năm 1975, Ý Thức không còn. Chúng tôi cũng mất liên lạc. Bỗng dưng một buổi sáng đẹp trời, sau 35 năm chúng tôi mới gặp lại nhau, dù cả hai ở cùng một thành phố: Sài Gòn. Trong thời gian dài đăng đẳng đó Chu Trầm Nguyên Minh đã ngừng bút sống một đời thường xa lìa hẳn thế giới văn chương. Biết tôi cũng như anh, sau 25 năm tôi mới trở lại văn đàn và đang làm tập san văn học Quán Văn, qua đó anh bắt gặp những khuôn mặt bạn bè cũ. Tôi động viên anh. Tôi chuyền lửa qua anh. Ban đầu tôi tập họp những bài thơ của anh đăng trên Ý Thức, Văn, Bách Khoa, Văn Học ngày xưa liên kết với nhà xuất bản Thanh Niên ra tập thơ Cuộc tình người. Những lần ra mắt Quán Văn anh em trong giới cầm bút gặp lại Chu Trầm Nguyên Minh với lòng ưu ái. Có người hát lại bản nhạc Lời Tình Buồn thơ của Chu Trầm Nguyên Minh do Vũ Thành An phổ. Bản nhạc này nổi tiếng từ trước 1975 qua giọng ca truyền cảm của Khánh Ly, Tuấn Ngọc, thế mà mãi đến bây giờ anh mới biết, cũng như qua bạn bè cho anh biết nhạc sĩ du ca Phan Ni Tấn phổ bài thơ Năm Mới.
    
Đến với Quán Văn anh như sống lại, dù tuổi đã cao, dù cơn bệnh đang rập rình chờ chụp nhận chìm lấy anh, anh làm thơ mới, anh viết tản văn, truyện ngắn, truyện dài với tất cả tấm lòng. Chị Tùng Vân, vợ anh cảm nhận sự thay đổi hẳn đời sống của chồng mình, trở lại một thời tưởng như đã mất hẳn, chị nói với tôi, chị cám ơn văn chương đã làm anh trẻ lại. Anh yêu đời hơn.
Những lần hai chúng tôi gần bên nhau, tâm sự cùng nhau chuyện đời chuyện văn chương. Tôi kể cho anh nghe những truyện tôi đã ấp ủ trong lòng từ bao nhiêu năm,  từ cuộc đời chúng tôi đã chứng kiến. Chu Trầm Nguyên Minh thúc đẩy tôi phải viết ra. Tôi gật đầu, nhưng chưa đến lúc. Còn anh, như tranh thủ thời gian còn lại trên cõi đời anh vội vàng tuôn ra những vần thơ, những con chữ, truyện ngắn, truyện dài, gởi bản thảo qua email cho tôi gìn giữ như một lời gởi gắm.
Tôi đang chuẩn bị gom góp những bài văn của Chu Trầm Nguyên Minh đăng trên tập san Quán Văn cùng những bài anh em bạn bè viết về  Chu Trầm Nguyên Minh như một quà tặng trong những ngày anh nằm trong bệnh viện, chống chọi với cơn đau, như một liều thuốc an thần.
Sách chuẩn bị in ra, mà Chu Trầm Nguyên Minh không hay biết, vì tôi muốn dành một đặc biệt tình cảm anh em trong giới cầm bút còn lại ở Việt Nam đối với nhau. Chân thành. Thắm thiết. Ý nguyện của tôi chưa thực hiện xong thì anh đã vội… qua đời!
Những ngày Tết năm nay tôi bị sốt chưa ra khỏi nhà, lòng thấy nao nao khó chịu, gọi điện thoại nhờ Đoàn Văn Khánh chở đến bệnh viện Triều An để thăm Chu Trầm Nguyên Minh. Đến nơi mới biết bệnh viện đã chê, cho về nhà rồi. Trên đường về nhà Chu Trầm Nguyên Minh thì Trương Văn Dân báo tin anh đã chết lúc 2 giờ 30.
Vừa bước vào nhà anh, tôi không cầm được nước mắt, khóc òa bên xác anh đang phủ vải liệm. Chị Tùng Vân giao cho tôi một món quà của Chu Trầm Nguyên Minh gởi tặng Nguyên Minh. Anh nhờ một người bạn đến thăm viết thư pháp mấy câu thơ của Chu Trầm Nguyên Minh tặng Nguyên Minh:
Lúc buồn nước mắt dễ rơi
Lúc vui cũng cụng tung trời xé mây
Cụng rồi cụng nữa không say
Nhưng cụng chữ nghĩa lăn quay say mèm.
Tôi đưa tay gỡ tấm vải liệm, nhìn khuôn mặt người bạn văn chí cốt, miệng lẩm bẩm:
- Hãy phù hộ cho Nguyên Minh làm Tập san văn học Quán Văn đúng số 100 rồi hai thằng mình sẽ gặp nhau nơi chín suối.
Tập sách QUÁN VĂN & CHU TRẦM NGUYÊN MINH gồm những bài thơ, văn của anh em trong nhóm và bằng hữu viết về Chu Trầm Nguyên Minh cùng những bài thơ văn của Chu Trầm Nguyên Minh viết đăng trên Tập san Quán Văn mà thôi. Tôi xin tặng chị Tùng Vân đặt trên bàn thờ của anh. Tôi muốn nói với các cháu con anh như thế này: Trước khi chết ông Phạm Minh Tâm để lại gia tài vật chất cho các con. Trước khi chết nhà thơ, nhà văn Chu Trầm Nguyên Minh để lại cho đời những tác phẩm văn chương.
Vĩnh biệt nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh.
Vĩnh biệt nhà văn Chu Trầm Nguyên Minh.

Nguyên Minh
            Sài Gòn 21/02/2014
http://phamcaohoang.blogspot.com/

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Về Chu Trầm Nguyên Minh

Về Chu Trầm Nguyên Minh


Chu Trầm Nguyên Minh
chu_tram_nguyen_minh_3
Nhà văn, nhà thơ Chu Trầm Nguyện Minh (1943-2014)

Xin công bố tiểu sử anh Chu Trầm Nguyên Minh do chính anh viết với ý nguyện chỉ phổ biến sau khi mất
(Đặng Châu Long)
Thời thơ ấu: Phú Bình, Hầm Đá, Ninh Thuận, Rừng Già, Rãy Nổ, khu Lê Hồng Phong, Rừng Tròn, Đá Bàn.
Nguyên quán: Phổ Cường, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Sinh 1943 tại Phú Bình, Hàm Liêm một vùng ngoại ô Phan Thiết. Rồi chuyển về ở Hầm Đá, trên QL8, cách Phan Thiết 6km5, hướng Bắc.
Có 6 chị em: chị hai Trần thị Sâm [chết khi tròn tuổi], chị ba Trần thị Nhung, chị tư Trần thị Trung, chị năm Trần thị Hiếu, thứ sáu Trần đức Tâm [CTNM], con trai út Trần hữu Thành.
Cha theo Việt Minh thỉnh thoảng mới tạt về. Mẹ làm nghề may vá, nuôi 5 chị em.
Thời gian này, kinh tế gia đình sung túc, gia đình có căn nhà ngói đỏ, kiềng đá xanh 1 trong 2 căn nhà xây ở khu Hầm Đá.
Bỗng một đêm, người cha về cùng một số đồng đội, đập, phá nát căn nhà thành đống gạch vụn, lý do: “không để Tây đóng đồn.”
Giòng nước mắt Mẹ rơi, cũng là lúc CTNM nhận cuộc đời nổi trôi của phận mình.

Ngay đêm đó Cha đưa vợ con vào vùng “Xôi Đậu” – Tây tàn sát tự do – thôn Ninh Thuận Xã Hàm Chính, gần Chiến Khu Rừng Già, nơi người cha đang ở, thuộc khu Tam Giác Bình Thuận có ba đỉnh là Mường Mán, Ma lâm, Phan Thiết.
“Ở đậu” sau một trận càn là đổi chổ ở, ba người chị và mẹ đi gặt thuê, CTNM được đi học “lớp Bình Dân Học Vụ’ của Việt Minh, học ban đêm, mỗi người mang theo đèn dầu “hột Xoài” loại đèn nhỏ, ít hao dầu.
Pháp treo giài thưởng, ai bắt hay đem đầu Trần Hoành bí danh Tư Úc, cha của CTNM, rồi sau đó đến vợ, con. Một thời CTNM sống trên lưng ‘đồng chí’ của cha, chạy trốn từ Rãy Nổ, Rừng Già, Xóm Rơ, Ninh Thuận, Bàu Sẻ….
Cha bị Pháp bao vây, không đầu hàng, bị bắn chết khi đơn thân độc mã chống lại cả đại đội Pháp. Mộ chôn tại Chiến Khu Rừng Già. Khoảng 1947.
Mẹ đem các con lên rừng, cất chòi, sống bên mộ cha – ở đây có điều không quên:
Chòi cất dưới cây Cức Mọc, loại cây rất cao, ở cháng 3 trên ngọn, có một tổ chim làm bằng cây khô nhỏ của vợ chồng Đại Bàng, [hay Kênh Kênh, Ó…] sáng chiều chúng gắp rắn, gà, thỏ,,, mang về cho con ăn, nhất là rắn, vắt một vệt dài màu đen trên nền trời …và tiếng la..hoang dã, dị thường. Gia đình: Chị và mẹ không đủ quần để mặc, phải mặc chung, CTNM và đứa em..ở truồng là chính. Mền đắp hằng đêm là bao bố đựng gạo tháo chỉ, thức ăn chính khoai mì [sắn].
Gần chòi là nơi đóng quân của Đại Đội Phạm Hồng Thái, một đêm đánh đồn Ma Lâm, rút về. Lần đầu tiên CTNM thấy người chết và bị thương nhiều như vậy, nỗi kinh hoàng thành ám ảnh.
Tiếng chim đa đa…
Hình ảnh Mẹ …chiều chiều ngồi bên mộ Cha
Mãn tang cha, mẹ đưa gia đình về lại Ninh Thuận, lập lại cuộc đời cũ, gặt thuê, làm mướn, mẹ và các chị chung tay nuôi gia đình, thời này có mấy việc:
Người chị Cả, Trần thị Nhung, có chồng – một cán bộ Việt Minh – Chị về làm dâu ở Phan Thiết. Em út, Trần hữu Thành bị móc chê Pháp câu chết.
Quân Pháp thua ở Nà Sản phía Bắc, rút về Nam, chúng chọn Tam Giác để báo thù, trận bố kinh hoàng xảy ra, “Trận Bố Ba Ngày”, biết bao xương máu đồng bào Tam Giác đổ xuống trên quê hương này. CTNM ngơ ngác trong nỗi kinh hoàng.
CTNM và người chị kế Trần thị Hiếu, được “nhà nước Việt Minh” đưa đi học ở trường Trung Bình tại chiến khu Lê Hồng Phong [thời chống Pháp, Việt Minh có ba trường ở Miền Nam, trường ở Đồng bằng Sông Cửu Long (tôi quên tên), trường Lê Khiết ở Quảng Ngãi và trường ở Cực Nam Trung Bộ, ở giữa, nên là Trung Bình]. Người “trên tỉnh” về đưa chị em CTNM đi là cán bộ nữ tên Nguyệt, phải nhiều lần hẹn giao liên, Chị Nguyệt đưa chúng tôi vượt QL8 vào một đêm tối, có lúc phải nằm mẹp, có lúc bò, có lúc chạy..qua Xoai Quỳ, Sa Ra, Giếng Chanh và đến khu Lê. CTNM học ở đây gần hai năm..thì “má bệnh nặng, hai em về gấp ”, chị em chúng tôi lại nhờ “tổ chức” đưa từ khu Lê về Phan Thiết.
Trước khi đến nhà anh Từ Thế Mộng, chừng 50m, bên phải, ngày xưa có dãy nhà gạch dài, đó là “nhà thương thí” mẹ CTNM đang nằm ở đây.
Hai chị em, đi như chạy trên hành lang..bỗng cả hai quỳ xuống ôm cứng cái xác chết mà người ta trùm kín, trên băng ca, đem xuống nhà xác..cả hai cùng òa khóc “Má ơi”.
Sau này, tôi hỏi chị: từ đâu chị nhận ra Má, chị nói:” cái mền đã theo gia đình ta bao năm..” Phần tôi, tôi nhận ra má tôi từ bàn tay ló ra khỏi chiếc mền cũ màu xám đó
Hôm sau, hai chị em CTNM theo xác má về chôn ở Phú Bình, nơi chị em CTNM và người mẹ sinh ra.. Buổi chiều đó, mộ chưa đắp xong, thì có tin Tây từ Xung Phong kéo lên, phải chạy, khi mộ mẹ chưa đắp xong.
Khi con về đó muộn màng
Mẹ từ dương thế khói vàng lung linh
[hành lang vĩnh biệt]
Trong thời gian học ở khu Lê:
Lớp học khoét dưới gốc cây Tâm Lan, trong rừng Tâm Lan, nhiều Dông, Thỏ và Cọp, [có nữ sinh tên Hồng, trên đường đến trường, bị Cọp chụp và na đi, ba ngày sau tìm được chỉ còn cái đầu]. Mỗi học sinh khi đến trường ngoài giấy bút còn cây súng gỗ, ruột tượng gạo, bidong nước..khi chào nhau nắm bàn tay lại đưa lên giữa trán. Đêm còn tăng gia sản xuất rau, củ.
25 chiếc Dakota chở lính “lê dương” nhảy dù xuống khu Lê, ba ngày sau mới biết ai còn ai mất, và cũng ba ngày sau, cái áo của CTNM mặc còn hôi mùi thuốc súng.
Trong rừng Tâm Lan có 12 nấm mộ của các văn công đoàn Sao Vàng, mỗi lần đến đó, CTNM thấy buồn.
Ba chị em về lại Ninh Thuận, lại tá túc nhà người quen, ở đậu, làm thuê nuôi nhau. CTNM và Chị Hiếu không trở lại khu Lê nữa..
Tình hình chiến sự nghiêng về địch, Việt Minh không giữ nổi Tam Giác, đã dần trở thành vùng bị chiếm. Có 3 giải pháp, 1 – theo Pháp ở yên tại chỗ, 2 – về thành tức về Phan Thiết, 3 – vượt đường sắt lên Rừng Tròn, Đá Bàn.. (giáp Trường Sơn, Lâm Đồng) theo “kháng chiến tức Việt Minh. Ba chị em CTNM chọn giải pháp thứ ba..
Rừng Tròn – Đá Bàn: cây cao đan dày, ánh sáng chỉ chen qua khe lá “trên Đá Bàn thân trùng lấy bóng”, có con suối, tre lồ ồ ngã che kín, “nước suối thiêng soi đâu thấy mặt mình” ..và biết bao chuyện của rừng thiêng, nước độc. Đàn khỉ dễ chừng cả nghìn con, đại bàng, ó. “Bóng ó bay tiếng rớt ngậm ngùi” và có đêm 4, 5 chú cọp nhảy giỡn trăng nơi sườn núi có phiến đá bằng phẳng như cái bàn…và tiếng hú lúc nửa đêm …của một loài ó hay một linh vật [?]…chỉ biết, khi tiếng hú cất lên thì từ các loài thú trong rừng, đến con ngươi đều…sợ. Tất cả đều im lặng..tiếng hú dài nhỏ dần rồi chìm mất trong đêm tối. Thời gian ở đây, CTNM nghe tiếng hú thần bí đó một lần và nhiều năm sau, khi nhớ lại còn “ớn lạnh”.
Khi đến đây, CTNM được nhắc để nhớ: không đụng đến bất cứ cây, đồ vật, con vật nào …nhìn thấy..Ớt chín vàng, cây Thị trĩu trái, đu đủ…không biết ai trồng..và, trời ạ, Rắn, không biết cơ man nào mà kể, rắn vắt vẻo trên mái chòi làm bằng lá dầu, lểnh nghểnh ngoài sân…dài, ngắn, có khoang đen trắng, đủ loại, đủ cỡ …nhớ không “đụng”đến bằng bất cứ hình thức nào..
CTNM phạm phải điều kiêng kỵ, suýt chết, [kể ra như chuyện “phong thần” rất khó tin, nhưng thật hơn 100%] …
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, hiệp định Geneve ký kết.. hòa bình lập lại, chia hai đất nước. Trong danh sách những người dân được Tập Kết, có tên chị Trần thị Hiếu và Trần đức Tâm tức CTNM. Anh rể – một cán bộ VM cấp cao – nói: “Các em ở lại học tập tốt là được rồi”. Vì cứ nghĩ hai năm nữa là Thống Nhất, hai chị em không đi
Căn nhà ở Hầm Đá chỉ là cái kiền đá xanh, bị cạy lấy đá nham nhở, ba chị em lơ ngơ rồi quyết định về Phú Bình, nơi có mộ Má, ở đây còn bà Ngoại và ông chú thứ Năm, em ruột Ba. Từ đây, một vài lần xuống Phan Thiết, CTNM thấy nhiều điều lạ, người đẹp, nhà đẹp, học sinh đến trường..những cảnh mà trong đời CTNM chưa thấy, và, nghiệm ra một điều, muốn hòa nhập cái xã hội xa lạ này, con đường duy nhất là học, và phải học thành tài..Ở tuồi 12, trên đường về, lúc qua hết cái cầu làm bằng sắt – bây giờ gọi là Cầu Giữa – CTNM đứng lại, nhìn cái château d’eau trong vườn bông, nhìn giòng nước con sông Mường Mán, thề rằng: “không học đỗ tú tài, tôi sẽ nhảy xuống đây mà chết”
Thời niên thiếu – thanh niên: Phan Thiết, Nha Trang.
Lúc đầu, xin học trường làng, nhưng bị từ chối vì “cộng sản con”, trường xa, trường gần …đều gạt tên cùng một lý do. Hai người chị, nhất là chị Trung, bị bắt ngay sau hòa bình, chị Hiếu cũng không yên. Ba chị em quyết định, thay tên đổi họ để không là “CS con”. Trần Đức Tâm [CTNM] về ở với cậu tại Phan Thiết, làm lại khai sanh tên: Phạm Minh Tâm, chị tư Trần thị Trung, đổi thành: Nguyễn thị Trung, về ở với chú Năm, em cha, tại Hàm Liêm. Chị năm Trần thị Hiếu thành Phạm thị Hiếu về ở với Dì, chị của Má ở Bàn Cờ Sài Gòn…Cho mãi đến bây giờ, về mặt pháp lý, chị em tôi cũng không phải ruột thịt.
CTNM về ở với cậu, tại 45 Lý Thường Kiệt Phan Thiết học lớp Nhì [L4] trường tiểu học Đức Thắng.
3g sáng, thức dậy, vớt gạo ngâm, xay thành bột.- đâm lá dứa, – xẻ ớt và đâm nhỏ – xếp chén đĩa vào mâm – bỏ một lò lửa lớn quạt cho lừng lên. – [hai ngươi lớn bợ cái lò lửa đang bừng cháy này để lên đầu CTNM] – đội lò lửa ra bên kia đường, chổ ngồi bán bánh bèo ăn chén [hai người bợ lên, đi theo, đỡ lò lửa xuống..] rửa mặt, ôm sách, vở và ….…chạy… đến trường.. 12g – 17g: dọn cơm cho cả nhà [6 người ăn], rửa chén, chén bánh bèo [hơn 100 chén] – Ngâm gạo, luộc ớt, rửa lá dứa,chuẩn bị cái lò ….và ủi đồ cho cả nhà. Hôm nào không ủi đồ, thì làm khuy, đơm nút áo [Cậu làm nghề may]…Hể thấy tôi cầm vở học là bà Mợ có chuyện để bảo làm.
Việc làm vừa nói trên, với CTNM, không nhằm nhò gì, nhưng có điều xảy ra, người Mợ xem cháu của chồng như đứa ở, khai thác tận cùng sức lao động, không cho giờ nào rảnh để học, cư xử không tình người, Mợ muốn không cho tôi đi học…
Mâu thuẩn giữa Cậu và Mợ, kẻ thương cháu, người thì ghét, Cậu không vui.
Cậu CTNM, đứng ở giữa, lại có chút sợ vợ, nên bị kích động bởi sự xúc xiểm của vợ. Có một lần cậu vừa đánh vừa khóc. CTNM nhìn dòng nước mắt của Cậu khi vung roi lên người đưa cháu. CTNM cắn răng và quyết định ra đi.
Thôi cậu hỡi thương con đừng khóc
Đời mồ côi con xin sống qua ngày
[trong phận chàng]
Bà Mợ kinh ngạc rồi hối tiếc, khi CTNM nói: con xin lạy tạ Cậu Mợ đã nuôi dạy con lâu nay. Con về lại Phú Bình chỉ vì muốn ở bên mộ Má con
Khi rời nhà cậu, có hai việc tôi nhớ: dòng nước mắt của Cậu khi đánh tôi và gần như suốt thời gian ở nhà Cậu Mợ, lúc xay bột, khoảng 3g30 sáng, ở ngoài đường vọng vô: giọng đứa con trai cỡ tôi: Bánh mì..Bánh bao..là Bánh chiên Bánh chiên..bánh bao ..là bánh mì âm thanh đó, như một lời nhắc nhở, một động lực cho tôi thực hiện lời thề. Người bạn đó, nay còn cũng 70, như tôi. Bạn không bao giờ biết có người mang ơn bạn và mãi mãi nhớ tiếng bạn cất lên đêm đêm ngày nào. Tôi mong cuộc đời này không đày đọa bạn như đã đày đọa tôi.
Tôi ở nhà Cậu tư lớp Nhì đến gần hết năm lớp nhất, hơn một năm.
Về ở với chú, về lại Phú bình
Chị tư Trung nói: “ Con xin làm mọi việc dù nặng nhọc xin chú thiếm cho em con chỗ ở và cơm ăn..để đi học ”. Chú thiếm chấp thuận. Chú Năm là người em trai kế cha tôi, cha tôi đã đưa chú từ Quảng Ngãi vào, cha má tôi đã dựng nhà cho Chú Thiếm. Chú Nam là nông dân rặt, tính hiền, ít nói.
Lúc này, không nói, nhưng ba chị em tôi, ai có nhiệm vụ nấy: Chị tư Trung lo cho tôi cơm, áo. Chị năm Hiếu lo cho tôi sách vở, còn tôi phải học thành tài.
Từ Phú Bình đến thị xã Phan Thiết áng chừng 5, hay7 km, tôi dậy sớm, nhận từ tay chị Tư gà mèn cơm, theo sau những chị gánh củi, vác tre xuống Phan Thiết bán. Họ đi rất nhanh, tôi phải chạy lúp xúp mới theo kịp, treo cơm trên cây Muồng, bên Sân Tennis, trong vườn bông, rồi đến trường. Buổi trưa, trở lại, ngôi ăn trên ghế đá, nhìn đàn én bay quanh château d’eau.
Tôi thi đậu Tiểu Học, Đệ Thất, Trung Học, Tú tài 1 ở trường Phan Bội Châu, Phan Thiết, từ lớp đệ Lục [lớp7], tôi đã đi dạy kèm.
Tôi muốn sống được bằng sức của mình, muốn hai chị tôi không vì tôi mà để tuổi thanh xuân trôi qua. Hai chị từ chối hôn nhân, với lý do phải nuôi tôi đến lúc thành tài. Rồi hai chị có gia đình và tôi có cháu gọi bằng cậu..
Ngày đó, Phan Thiết chưa có trường nào, – kể cả Phan Bội Châu – mở lớp đệ nhất [lớp 12]
Học sinh đậu tú tài 1, có điều kiện thì vào Saigon học tiếp, nhưng học trường tư. Học sinh nghèo thì ra Nha Trang học ở Võ Tánh, trường công. Tôi không có tiền, kể cả tiền xe đò để đi. Tôi nhờ bạn Thừa, Chiếu, Quế..ra Nha Trang nhập học, tìm cho tôi một chỗ dạy kèm, hay một việc gỉ đó kiếm đủ tiền ăn…tôi chờ tin bạn..Thời gian chờ đợi tin bạn, cứ một tuần tôi viết cho thầy hiệu trưởng Võ Tánh một lá thư, nói hoàn cảnh và xin đừng xóa tên..Chị tôi đã bao lần đòi bán chiếc khoen, nhỏ xíu, ngày cưới, cho tôi làm lộ phí, nhưng tôi cương quyết không chịu, “Chị bán là em bỏ học”. Ông anh rể tốt bụng Lê trung Nhị “bây giờ cần bán đi..mai kia em thành tài em mua cái khác cho chị”. Tôi vẫn “không” và dọa “bỏ học”..Nhưng không được nữa rồi, trễ thêm trường Võ Tánh sẽ xóa tên.,Tôi đành “ chị giúp em ,” khi trao cho tôi số tiền, mà chị tính, chỉ đủ một vòng xe và 7 ngày ăn..chị nắm tay tôi..nước mắt nghẹn ngào..và “em à..” rồi không nói thêm được lời nào. Tôi đi mang theo hình bóng chị tôi cùng một cuốn vở học trò chép những bài thơ đã viết và mối tình đầu, biết bao sâu nặng, kỷ niệm. Tôi và Trần Huyền Sâm, tên nàng, gặp nhau tình cờ, trên đường phố, nàng bên kia, tôi bên này, cả hai như dừng lại nhìn nhau, và chúng tôi yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên ấy, lúc đó nàng mới học lớp Đệ Ngũ [lớp 8] còn tôi lớp đệ Tam [lớp 10], H.Sâm nổi tiếng đẹp, rất đẹp, khi mối tình được công khai, nhiều người nhận xét, chúng tôi xứng đôi và đẹp đôi, [ngày đó tôi cũng được nữ sinh trầm trồ “đẹp trai” ] Tôi đỗ Tú Tài 1, Sâm biết sắp xa nhau, và “anh về thăm Mẹ nhé “ Sâm đưa tôi về Mũi Né, quê Sâm, Căn nhà ngói mó, rêu phong, trên một đụn cát cao, trước sân có cây khế đang mùa ra hoa[?]. Khi xa, tôi nhớ mãi người Mẹ, đó là người Mẹ tuyệt vời, rất ít nói. Bà tiếp tôi như đón người con đi xa về..Bữa ăn bà dọn đơn sơ, ít món, nhưng ngon miệng, bà ngồi nhìn tôi và Sâm ăn, chốc chốc lại cười, nụ cười rất hiền, rất nhân từ …và tiếng sóng, nhà nàng chỉ cách biển mươi mét..tiếng sóng của đêm hôm đó theo tôi đến suốt cuộc đời .
Xe Phi Long thả tôi xuống ngã 6, lúc nửa đêm, tôi lần theo tiếng sóng đi về hướng biển. Đêm đầu tiên, tôi khoanh tròn dưới gốc dương, nghe sóng vỗ.. [những cây dương cao lớn bây giờ trên đường Trần Phú lúc đó chỉ thấp lè tè ]. Tôi học lớp đệ nhất B4 …, khuân vác ở chợ Phước Hải, dán tem, viết thư thuê ở Bưu Điện…làm đủ nghề trong những lúc có thể, để kiếm sống …Sau chợ Phước Hải có xe cơm, chuyên bán cho người lao dộng nghèo, tôi ăn ở đây và cũng từ đây quen và được những người cùng khổ chia sẻ việc làm: Ngày học, làm …tối khoanh dưới gốc dương … nghe tiếng sóng đêm đêm thì thầm….Rồi tôi xin được việc làm: dạy kèm cho hai đứa con ông Hiệu trưởng của một trường tư, và chấm bài lớp tiếp liên môn Toán và Văn.
Tôi được ở cùng đứa con út của thầy Hiệu Trưởng và cũng là học trò tôi dạy kèm – tên N, trên một căn gác nhỏ, lộng gió.. Hai người con gái của thầy hiệu trưởng nói yêu CTNM. Hoàn cảnh như vậy “yêu là chết “ vả lại CTNM còn Sâm, đang chờ ở quê nhà…
Tôi đậu Tú Tài 2 ban B, em đã hoàn thành lời hứa với chị – chị ơi – và ta đã giừ tròn lời thề năm xưa với Phan Thiết – Phan Thiết ơi.
Thời Trưởng Thành: Sài Gòn, Qui Nhơn
Sài Gòn
Tôi ghé Phú Bình chào chị, bà ngoại, chú thiếm và hai đứa em thúc bá. Tôi đi vào Sài Gòn quyết lấy “cử nhân”…lại làm đủ nghề…ngồi ở Thanh Thế…nơi những người cầm viết, cầm cọ thường ngồi…ngồi Ngã Tư Quốc tế…nơi nghệ sĩ cải lương thường đến…quen và biết nhiều người trong giới văn – nghệ – sĩ …có cả dân làm chính trị..
Có ba người để lại nơi tôi nhiều cảm mến: anh Văn Lương, tác giả bài hát: “Tía em má em hừng đông đi cày bừa” anh nhận tôi làm việc vặt ở tòa soạn một nhật báo mà anh làm chủ bút, lần lần anh cho viết bài “trang tư”, trang viết những chuyện tầm phào, thỉnh thoảng được chạy một bài thơ..nhuận bút cũng chỉ đủ cầm hơi qua ngày, nhạc sĩ Trúc Phương, anh cho ở ké cùng phòng trọ anh thuê [hẻm Cao Thắng ] anh gọi “em trai” và thường xoa đầu khen “đẹp trai” và Dzũng Chinh, bằng tuổi tôi, tác giả phổ bản nhạc “Những Đồi Hoa Sim”. Mỗi lần gặp: vỗ vai, tạm biệt: vỗ vai. Cái vỗ vai ân tình..
Thời gian này tôi viết nhiều, đủ thể loại mà “trang tư” các báo cần, với nhiều bút hiệu.
Nhưng chỉ được “lắp” khi thiếu bài thôi, ba “cột” là nhiều. Viết, chạy suốt ngày, vẫn phải “nhá” cơm cháy..và, trời ạ, vào giảng đường, quạt máy mát, chỗ ngồi êm…dù cố cỡ nào tôi cũng liền… ngủ khì..
Thời gian này tôi đã trưởng thành, đã chín đời, viết nhiều, nhưng toàn chuyện tào lao, bá vơ..không giữ lại..
Và sống, chính thức nhờ thau cơm cháy . Ngày đó ở đường Bùi Viện, Q.Nhì [tên đường này vẫn giữ đến ngày nay, Q1] có quán cơm ANH VŨ, đây là quán cơm, được chính quyền bù lỗ, dành cho Sinh Viên nghèo. Ở phía vách bên phải, có một hàng lổ tò vò, hình chữ nhật, bên trong là người phục vụ và thức ăn, bên ngoài, cách vách có lổ tò vò chừng 0m8, người ta gắn một thanh sắt hình tròn cao 1m, dài suốt theo lổ tò vò Sinh viên vào ăn trưa, chiều đều phải xếp hàng di chuyển bên trong thanh sắt tròn này..Lổ 1: thẻ Sinh Viên, mua phiếu. Lổ 2: lấy mâm. Lổ 3 lấy canh, Lổ 4 lấy món mặn, nước chấm. Lổ 5 lấy cơm và đưa phiếu vừa mua, bước thêm vài bước, ra bàn ngồi ăn …Lổ 5 là lổ to nhất – để “thọt” thau cơm cháy qua – và được CTNM đặt biệt chú ý. Cứ 25- 26 Sinh viên đi qua, họ thọt ra ngoài một thau cơm cháy, ai muốn ăn cứ lấy, cho không, khỏi trả tiền CTNM ngồi, đếm số 1,2,3…và vào hàng, sao cho khi di chuyển đến lổ số 5 thì thau cơm không trả tiền”thọt”ra, bợ liền,dấn thêm vài bước, ra bàn và ngồi…nhá [nhai chậm].
Có lúc đến lổ số 5, thau cơm không chịu thọt ra, lại xếp hàng, làm lại keo khác. Nên nhớ, những Sinh Viên cần thau cơm cháy như CTNM là không ít, sau này, anh em liên kết lại “tiền hô,hậu ủng” vào hàng là bợ được thau cơm. Anh em thay phiên nhau, không tốn thời gian. Ngồi nhai cơm cháy, đôi khi nghĩ, như đang nhai đời mình ..
Qui Nhơn
Lúc này, Chị tư Trung có ba cháu, một trai, hai gái, chồng chết – Chị năm Hiếu có bốn cháu gái – chồng làm diệt trừ sốt rét. Nhìn các cháu khổ, chị khổ…thôi thì, bỏ đại học, thi vào SP cấp tốc Qui Nhơn – giấc mộng “cử nhân” không thành “ra Qui Nhơn nằm nghe gió thổi đêm”.
Lúc này, CTNM viết thêm kịch – thể loại CTNM thích nhất – vở “Trước Giờ Chia Tay” in ở đặc san Sinh Hoạt SPQN – 1962 là một trong vài vở viết trong giai đọan này và cũng viết những vấn đề xã hội..như “Du Đảng dưới mắt nhà giáo”..v..v..
Lần xa xứ này, may mắn tôi được người Cậu ở Phan Thiết, mà tôi nói đến ở phần trên, giới thiệu “Cô Ba”, người Phan Thiết ra Qui Nhơn, bán vải ở đường Gia Long, tôi kèm cho 3 đứa cháu của Cô Ba học. Đây thời gian tôi được ăn đủ, ăn ngon nhất kể từ ngày tự lập nuôi thân – quen ba người: Trịnh Công Sơn, Thanh Hải và Nguyễn Huề. Ngày đó Hải nổi tiếng hơn Sơn..Tôi chỉ nói tên người “vô danh” Nguyễn Huề, anh người gốc Quảng Trị, cân nặng, ngồi cùng lớp Cấp Tốc 2[?]. Tôi chỉ có một bộ quần áo, mặc đi học,…Một hôm cái móc cửa bật của lớp học móc rách một lổ trước ngực, phải vá lại..và từ đó các bạn biết tôi chỉ có duy nhất một cái áo…đây là lời thú nhận, hay bằng chứng.. tôi thuộc lớp “vô sản”. nghèo “rớt mồng tơi”..Một hôm, người bạn cùng lớp, không thân, trao cho tôi môt cái gói, gói bằng tờ nhật báo “cậu mang về ..rồi hãy mở ra” và.. “có cái thư mình viết cho cậu”. Tôi mở ra, đó là bộ quần áo cũ, nhưng còn khá mới, quần màu xám đen, áo dài tay màu trắng…nội dung lá thư..Huề viết nhiều về giai cấp “vô sản”…
Từ đó, CTNM chơi thân với Nguyễn Huề, [bộ quần áo CTNM giữ đến tháng 4/1975]
Huề lúc đó: hoạt động nội thành mảng Sinh Viên, Học Sinh – viết cho báo giải phóng – ký Dương Sử Loan
Tôi và Huề dự định, cùng viết vở kịch, nhan “Vở Kịch Chúng Ta Đóng” nhưng chưa gì thì xa nhau. Tôi còn gặp lại Huề hai lần, ở Huế – thời nhổ râu Đỗ Cao Trí – và Sài gòn – lúc trái cối 60 từ Bàn Cờ câu vào Dinh Độc Lập..Từ đó bặt tin cho đến nay..
Phan Rang, 19 năm
Tôi đến Phan Rang, nơi trước đây tôi có đến và ngủ ở trường tiểu học Mỹ Hương 5 đêm, để dự thi tú tài 1. hội đồng Duy Tân. Chỉ biết, chếch bên kia đường có tiệm sách, ở đó có người con gái tuyệt đẹp, tên Hằng Nga, ngoài ra, chẳng biết gì thêm.
Tôi trình diện Ty Tiểu Học Ninh Thuận và được bổ nhiệm “giáo viên trường Tân Thành – Tây Giang”. Đó là trường nhỏ, xây gạch, bên cửa biển, nơi sông Dinh chảy qua. Ở đây tôi nhìn, bên kia là Sơn Hài, chếch phía đông là biển, học trò tôi là cô, cậu bé làng chài, đen nhẻm, đó là năm học 1963 – 1964. Rồi năm sau, tôi chuyển về Phủ Hà, trung tâm thị xã.
Tình đầu tan vỡ
Khi về nhận nhiệm sở ở Phan Rang, tôi nhận thư Sâm, trước đây nội dung thư Sâm là động viên, an ủi..và những lời yêu thương nhớ nhung, thư này Sâm chỉ viết “ em muốn mình cưới nhau ” thư trả lời, tôi viết,” chị và các cháu cần anh, em đợi anh vài năm các cháu lớn..”
Những thư sau đó Sâm không nhắc đến việc cưới nhau nữa, và vài tháng sau: “ anh về, em muốn gặp anh ”. Chúng tôi gặp lại nhau sau thời gian xa cách khá lâu, không nói sao hết hạnh phúc chúng tôi trao nhau. Cũng trên căn gác nhỏ, có cửa sổ nhìn ra bầu trời, có đàn én bay…mà Sâm thuê để đi học. Sâm vùi đầu trên tay tôi, thủ thỉ.. rồi hai ngày sau “ em phải về Mũi Né ” và “ anh đi, em không tiển ”…Lúc này tôi mới nhận ra, nỗi buồn lạ trong mắt Sâm.. “anh cầm vật này,nếu còn nhớ em thì hãy giữ”. Và…vật này là tấm hình của Sâm mà tôi thích nhất lộng vô khuôn màu đen, trên hình Sâm ghi “ trọn vẹn trao anh thủa ban đầu ”.
Một tháng sau Sâm lấy chồng, năm đó Sâm học Đệ Nhị [lớp 11], chồng là một kỹ sư Điện vừa ra trường, chân đi khập khểnh.
Tôi đau đớn trở về, mang hết kỷ vật của tình đầu: cây viết Parker màu đen, một tập vở chép những bài thơ tôi viết cho Sâm, cho mối tình đầu, khuôn hình “trọn vẹn trao anh thủa ban đầu”…ném xuống sông Mường Mán, chỗ ngày xưa tôi đứng cất cao lời thề..
Sau này, tôi cứ tiếc mãi tập vở chép kín những bài thơ tình yêu ban đầu.
Tôi ghi danh học hàm thụ từ lúc vào Sư Phạm QN, rồi dự thi và đậu Sư Phạm Trung Cấp
Năm học 1965- 1966 tôi được chuyển lên trường Trung Học Duy Tân, dạy môn Toán 1967 – 1969. Bị động viên K.25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.+ trường hạ sĩ quan Đồng Đế.
1969 biệt phái về dạy trường cũ Duy Tân – 1975 Trung úy Bộ Binh + giáo sư Toán..
Sau 1975
Học tập cải tạo ở A.38
Đi vào Sài gòn
Sống bằng nhiều nghề
Bỏ viết từ 4/1975 đến 7/2012 [Ngỏ / Lời Tình Buồn ]
Thêm một chút về tình Yêu
Những mối tình:
Phan Thiết: Huyền Sâm, Kim Minh, Thúy Phượng
Phan Rang: Thi Phương, Nhị Em, Thúy Loan …một nữ giáo sư cùng trường
Nha Trang: Thi Ngọc
Qui Nhơn: Bích Sơn, Ngọc Bích
Sai Gon: Kim Hoa, Hoàng Thiêm ….
Vợ: Nguyễn thị Tùng Vân – ra trường Thủ Đức tôi được về đơn vị không tác chiến. Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, dịp này tôi gặp lại một người bạn, Vân – vợ tôi – là cháu gọi bằng Cậu của người bạn này.
Tôi yêu ai cũng có kỷ niệm, nước mắt.. cũng sâu nặng, say mê, hết lòng …nhưng “nặng” nhất có lẽ là mối tình đầu với Sâm và tình cuối với Vân, vợ tôi bây giờ.
Về Thơ
Đã in 4 tập
- Trong Mặt Trời Buồn – bìa Trịnh Cung, phụ bản nhạc Vũ Thành An, NXB Văn Học 1967
- Quê Hương Thơ Và Nước Mắt – bìa Thanh Hồ, phụ bản nhạc Hồ Đăng Kế NXB Mai 1968
- Cuộc Tình Người – bìa Nguyễn Tài, phụ bản Đinh Cường, Thanh Hồ, Phạm Kim Khải NXB Kỷ Nguyên 1969
- Lời Tinh Buồn – bìa Thanh Hồ, phụ bản Đinh Cường, Thân trọng Minh, Phan Ni Tấn, Phạm cao Hoàng…NXB Thanh niên 20012.
Có mặt trong Bộ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam [về Thơ]–Thư Ấn Quán, USA
Thơ phổ nhạc
Lời Tình Buồn – phổ nhạc: Vũ thành An – 1967 (nghe ở các mạng âm nhạc)
Năm Mới – phổ nhạc Phan Ni Tấn – 1970 (nghe ở ducavn.com )
Đêm Tạ Từ – phổ nhạc: Hồ Đăng Kế – 1968
Thôi Em Về – phổ nhạc: Bảo Chấn – 2012
Về Thôi Em Ơi – phổ nhạc: Nguyễn Phú Yên – 2012
Biển Tình Anh – phổ nhạc: Nguyển Phú Yên – 2012
Thơ sau 1975:
Thơ Viết Ngày Xa Em [vanchuongviet] Thơ Viết Trên Cầu Thạch Hãn [blog Pham cao Hoàng] Người Lính “Ngụy” già viếng Nghĩa Trang Trường Sơn [luanhoan.net], Vĩ Cầm, Ngày về Đà Lạt [quán văn]……
Về Văn
Trước 1975, Có truyện ngắn đăng ở Văn Học, Ý Thức.. sau 1975, đăng ở Quán Văn và các Mạng Văn Học.
Có truyện trong Văn Miền Nam – tập 1, Thư Ấn Quán, USA
Hiện cộng tác với tạp chí văn học Quán Văn, xuất bản tại Sài Gòn
Một chút về nội dung đã gởi trong thơ
- Tình yêu nam nữ: Lời tình buồn, Đêm tạ từ, Dấu tình chung, Tình yêu của tháp, Dự tưởng buổi sáng…
- Tình yêu gia đình: Hành lang vĩnh biệt, Thư cho con sắp chào đời [1], Năm mới, Ngày Ca Dao chào đời, Khi về Phan thiết để tang chị…
- Nổi bâng khuâng về thân phận, kiếp người: Lúc gởi đến, Kiếp người, Ngẫm mình, Ngưỡng cửa hư vô, Cuộc tôi, Đường hành hương…
- Và với chiến tranh: Mùa mưa ở Quân Trường, Việt Nam 1968, Đêm dưới chân Trường Sơn, Thơ viết trên cầu Thạch Hãn… [xin đọc những bài này và [1] ở sangtao.org vì những bài viết về nội dung này không cho in trong Lời Tình Buồn].
CTNM phát hiện U gan vào tháng 5/2012
Hiện vẫn “trụ” được. Thơ viết ở phòng MRI, viết tiếp ở phòng MRI, bài cuối viết ở phòng MRI…đang thượng đài đấu với Tử Thần [vanchuongviet, Quán Văn…]
Chỉ mong viết xong những điều cần viết, dù ngã đài cũng …vui.
Đó là những hoàn cảnh, những thành tố tác động lên cuộc đời tôi để có cái tên CTNM.
Tôi xin gởi những dòng trên cho bạn rất thân của tôi, và bạn chưa thân, nhưng nơi lòng tôi rất quí trọng và nghĩ sẽ thân.
Bài này, xin không phổ biến đến khi tôi không còn trên cõi đời này.
Saigon 12/4/2013
Chu Trầm Nguyên Minh
Nguồn: Đặng Châu Long gửi
Chép lại từ sangtao.org

TIN VĂN TỪ LUANHOAN.NET:
Tin Bun


Nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh.
tên thật Phạm Minh Tâm
sinh năm tại 1943 tại Bình Thuận (Phan Thiết)
vừa qua đời lúc 14 giờ 30 ngày 19-02-2014 (thọ 71 tuổi)
sau thời gian ngắn điều trị bệnh ung thư.
Nghi thức tẩm liệm lúc 21 giờ 00 ngày 20 tháng giêng
năm Giáp Ngọ.
Linh cửu quàn tại nhà riêng số 44/3 đường số 5 Bình Thới,
Lãnh Bình Thăng, Phường 3 quận 11 Sài gòn.
Lễ động quan lúc 5 giờ  ngày chủ nhật, 23-02-2014.

cùng xúc động báo tin đến bạn văn bốn phương.
Thành thật chia buồn cùng gia đình nhà thơ.
Thương tiếc tiễn đưa bạn hiền lên đường nhẹ nhàng.

Vĩnh Thọ, Nguyên Minh, Trương Văn Dân, Elena, Lữ Kiều,Đinh Cường, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Hoài Thư, Đặng Châu Long,Lữ Quỳnh, Phạm Cao Hoàng, Luân Hoán, Hân, Phạm Văn Nhàn, Ngô Nguyên Nghiễm, Đặng Lệ Khanh, Từ Hoài Tấn, Thị Kim,Trần Thiện Hiệp, Thành Tôn, Chinh Văn, Nguyễn Phú Yên, Khuất Đẩu, Kinh Dương Vương

Thơ ĐINH CƯỜNG Khi nhận @ Lữ Quỳnh fw tin buồn (Tưởng nhớ Chu Trầm Nguyên Minh)

 




cái tôi một sớm điêu tàn
chân dò bước ngã, ngày vàng bay cao
( Chu Trầm Nguyên Minh )
Trời làm tuyết đọng vun cao
rồi nay trời nắng tan mau bớt rồi
vòng quanh trong xóm về ngồi
mở computer thấy tin buồn ...ai đây
Lữ Quỳnh ơi mau vậy thay
hình kia mới chụp tháng 12 vừa rồi
Chu Trầm Nguyên Minh còn cạnh ngồi
mà hôm nay đã về trời rồi sao
hay về ngủ ngọn me cao [1]
người thi sĩ ấy dạt dào tình yêu
bạn bè một thuở còn nhiêu?
cho tôi gởi với tiếng chiều tụng kinh .
Virginia, Feb.19, 2014
Đinh Cường
[1] tôi về ngủ ngọn me cao
nghe mưa rơi đã như sầu kín bưng
( Đêm mưa ở Tân Định , Chu Trầm Nguyên Minh -
Cuộc Tình Người - Kỷ Nguyên xb 1969 )


 
- Bià tập thơ Cuộc Tình Người , Kỷ Nguyên  1969



- Phụ bản vẽ cho  Cuộc Tình Người khi gặp CTNM trong quân trường Thủ Đức 1968 



- Chữ ký tặng CTNM 12- 2013
- Nguyên Minh- Đỗ Hồng Ngọc- Đinh Cường- Thân Trọng Minh- Chu Trầm Nguyên Minh - Elena- Lữ Quỳnh ( Quán Văn 12- 2013 )

Chép lại từ Blog : http://phamcaohoang.blogspot.com/


Lời tình buồn



Nhạc: Vũ Thành An; Tiếng hát: Khánh Ly




anh đi rồi còn ai vuốt tóc
lời tình thơm sách vở học trò
đêm xuống rồi em buồn không hở?
trời sa mù tầm tay với âu lo

anh đi rồi còn ai đưa đón
áo em bay khuất mất thiên đường
tuổi hai mươi trong vòng tay chờ đợi
ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng
cổ em cao tay mười ngón thiên thần
tóc em xanh trùng dương sóng lượn
anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng

anh đi rồi còn ai tình tự
đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ
phúc yêu em dấu lần quá khứ
nụ hôn đầu rụng xuống hư vô


Chu Trầm Nguyên Minh
1967

Nghe bài hát :
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/loi-tinh-buon-vu-thanh-an-khanh-ly.fpSvY2bYT6.html
Khánh Ly hát

http://www.youtube.com/watch?v=I4aW2jBsVmE#t=72
Ngọc Lan hát


MỘT VÀI KỶ NIỆM BẰNG HÌNH ẢNH VỚI CHU TRẦM NGUYÊN MINH:

- Ra mắt Quán Văn 7 tại Văn phòng anh Trương Thìn (Chủ nhật 19/8/2012)
:
Hoàng Vũ Thuật - Lê Thánh Thư - Chu Trầm Nguyên Minh - Từ Hoài Tấn


- Những hình ảnh chụp tại cafe 64 TQT tháng 11 năm 2012:

Chu Trầm Nguyên Minh - Từ Hoài Tấn
Chu Trầm Nguyên Minh - Viêm Tịnh
 

Đứng : Nguyễn Vân Thiên - Từ Hoài Tấn - Nguyệt Mai / Ngồi : Nguyễn Miên Thảo - Chu Trầm Nguyên Minh - Viêm Tịnh  - Phù Hư

Chu Trầm Nguyên Minh - Nguyệt Mai

Trần Áng Sơn - Chu Trầm Nguyên MInh - Phan Kim Thịnh - Viêm Tịnh
 
Từ Hoài Tấn - Ngọc Quý - Nguyệt Mai (đứng) Chu Trầm Nguyên Minh - Viêm Tịnh - Phú Hư

ThÁNG 9 - 2013 - CAFE lUẬT - Ra mắt tập san Quán Văn