Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009

CHÀO MỪNG NĂM MỚI 2010



CHÚC MỪNG NĂM MỚI


AN KHANG THỊNH VƯỢNG


VẠN SỰ NHƯ Ý

Từ Hoài Tấn : CHÀO NĂM

Chào năm, năm bước qua đi
Những vui hội ngộ những gì ly tan
Từ khi mây bỏ lìa ngàn
Sông hồ bạn hữu trăng vàng đáy soi
Từ khi em nói yêu tôi
Ngàn năm thoảng nhẹ một lời thủy chung
Tình dài bờ bến trôi không
Tặng em một nửa đời hồng mai sau
Sao sa rụng xuống cồn lau
Đêm tình sáng ánh nhiệm mầu phù du
Chào năm, năm nói rất nhu
Em ơi hãy nở nghìn thu nụ cười
Chào năm, năm bước qua rồi
Sông nương theo bãi ngân lời yêu thương

TỪ HOÀI TẤN

Đường thiền sen nở” cuốn sách quý về một nữ tu danh tiếng - NGUYỄN CƯƠNG


Sư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

Trong giới tu hành ở miền Nam không ai không biết đến danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà. Sư Bà Diệu Không là người đã xây dựng và sáng lập ni tự Hồng Ân vào khoảng năm 1949 và có nhiều hoạt động xã hội khác.Quyển “Đường thiền sen nở” do hai tác giả Lê Ngân và Hồ Đắc Hoài biên soạn do Nxb Lao Động và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây ấn hành 6/2009. Quyển sách gồm 3 phần: Gia tộc và thân thế, hồi ký của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không và Diệu Không thi lục.

Sư Bà Diệu Không là con của cụ Hồ Đắc Trung (1861 - 1941) quê ở làng An Truyền (Phú Vang - Thừa Thiên Huế). Cụ Hồ Đắc Trung nhận chức thượng thư Bộ Học kiêm Bộ Hộ dưới triều vua Duy Tân, uy quyền rất lớn nhưng cụ là người tôn trọng nghĩa khí, tính thanh liêm ngay thẳng, xuất thân từ Nho học, nhưng sớm có tư tưởng cách tân. Cụ có 10 người con (6 trai, 4 gái). Những người con của cụ sau này đã có nhiều người có công đóng góp cho đất nước như Tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm nguyên phó Chủ tịch UBHC TP Hà Nội, Phó Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội; Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di nguyên Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Y Khoa Hà Nội; kỹ sư Hồ Đắc Liên nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục địa chất; tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân, Sư Bà Diệu Không (con gái út) nổi tiếng trong giới Phật giáo.

Trong phần gia tộc còn giới thiệu nhiều chi tiết “những dấu ấn lịch sử” liên quan giữa cụ Hồ Đắc Trung và gia đình với vua Duy Tân, với cụ pho bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc). Phần này cũng đã nêu khá rõ tiểu sử của Sư Bà những đóng góp cho đạo, cho đời gắn bó với phong trào Phật giáo miền Nam những năm 1960 đấu tranh chống Mỹ - Diệm và những năm tiếp theo cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau năm 1975 Sư Bà Diệu Không với cương vị đứng đầu giới nữ tu miền Nam đã góp phần tích cực vào quá trình thống nhất tổ chức Phật giáo toàn quốc gắn với sự phát triển cua cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phần hồi ký của Sư Bà là phần chính cuốn sách. Phần này được ghi chép lại vào năm 1992, tác giả biên soạn không thay đổi thêm bớt, sửa chữa chỉ bổ sung phụ đề, chú thích và ảnh minh họa. Trong phần hồi ký người đọc bị cuốn hút với lối kể chuyện giản dị, dễ hiểu theo dòng lịch sử đôi khi pha chút dí dỏm về cuộc đời của mình xuất thân trong một gia đình đại thần triều Nguyễn Hồ Đắc Trung cho đến khi xuất gia theo đạo Phật. Trong phần hồi ký, chúng ta lại bắt gặp những gương mặt nữ tiêu biểu ở Huế hồi đầu thế kỷ trước như nữ sử Đạm Phương, bà Trần Như Mân, bà vợ Phan Bội Châu…

Các phong trào Duy Tân, Đông Du đều được nhắc đến. Có một số chi tiết thuộc về “thâm cung bí sử”, chuyện “hậu cung” dưới triều Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại với Bà Từ Cung, Nam Phương hoàng hậu đều được kể lại khách quan.

Phần Diệu Không thi lục đã giới thiệu trên 110 bài thơ trong sự nghiệp thơ của Sư Bà từ thập niên 20 cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước và khá nhiều bài chưa tìm được thời gian sáng tác. Những bài thơ này đã được đăng trên một số tạp chí của Phật giáo ở miền Nam trước đây và một số bài do các đệ tử nhớ ghi lại. Năm 2007, Nxb Thuận Hóa (Huế) cũng đã xuất bản quyển “Diệu Không thi tập”.

N.C
tapchisonghuong.com.vn

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

Nguyễn Thị Hậu : Gặp bác Tạ Chí Đại Trường

Lần đầu tiên tôi “gặp” bác Tạ Chí Đại Trường là vào năm 1992, tại nhà thầy Trần Quốc Vượng. Năm ấy thầy mới đi Mỹ về. Tôi từ Sài Gòn ra ghé thăm thầy. Ngắm nghía những giá sách đầy chật nhà thầy, tôi nhận ra ngay những cuốn sách mới. Có một cuốn mà vừa nhìn thấy tôi đã cầm lấy xem ngay bởi cái tựa sách và cả tên tác giả đều lạ. Đó là cuốn “Thần, người và đất Việt” – cuốn sách mà cho đến giờ tôi vẫn nhớ nhầm tựa sách, luôn đảo thứ tự 3 thành phần trên như “Người, đất và thần Việt” hay “Đất, thần và người Việt”… vì tôi thấy để kiểu gì cũng hay và… có lý.

Tất nhiên sau đó tôi xin phép thầy Vượng photo lại, và nó trở thành một trong số ít những cuốn sách nghiên cứu tôi rất thích, thường đọc đi đọc lại.

Bẵng đi rất lâu, tôi cũng không biết gì thêm về tác giả Tạ Chí Đại Trường và những công trình mới của ông. Cho đến vài năm gần đây mạng Internet phát triển, nhớ đến tên tác giả “là lạ” tôi vào Google tìm kiếm. Thiệt là may, tôi đã tìm thấy nhiều bài viết của ông trên một số Website, rồi sau đó tìm thấy trang Tachidaitruong.com. Bèn copy tất cả các bài viết của ông xuống và xem… từ từ.

Năm ngòai năm kia có 2 cuốn sách của ông được xuất bản trong nước, đó là cuốn sách nói trên “Thần, người và đất Việt”, và “Lịch sử một cuộc nội chiến”. Rồi năm nay thêm một cuốn nữa “Những bài dã sử Việt”… Thế là tôi có thêm cơ hội được “gặp” ông qua các công trình nghiên cứu lịch sử rất thú vị.

Biết bác Tạ Chí Đại Trường mới về Sài Gòn, tôi đã nhờ bạn giới thiệu cho tôi được gặp bác. Bác đã tặng tôi mấy cuốn sách của bác in bên Mỹ, lại còn chỉ dẫn cẩn thận những chỗ in lỗi làm tôi thật vui và cảm động, vì tôi không phải là người nghiên cứu chuyên về lịch sử, và chỉ là 1 trong số hàng trăm độc gỉả của bác. Được gặp và nói chuyện với bác, nghe bác kể về một số công trình của bác in trong nước và nhiều công trình khác, tôi hiểu rõ hơn vì sao mình lại quan tâm và thích thú như thế khi đọc những cuốn sách của ông.

Đầu tiên là giọng văn của ông: nghiêm túc, khúc chiết nhưng không hiếm khi hóm hỉnh, có khi mỉa mai khi châm chọc, có lúc “cực đoan” thậm chí đầy vẻ định kiến khi chê/ phê một ai đó. Nhưng giọng văn ấy cũng rất “có duyên”, lôi cuốn người đọc, có khi làm cho người đọc thầm tranh luận lại. Người đọc không chán, cứ xem đến cùng, xem đi xem lại, như trò chuyện với ông nhiều lần vậy. Giọng văn ấy lôi cuốn còn vì người đọc thấy được “lập trường” khoa học của chính tác giả. Tôi nhận thấy những cuốn sách nghiên cứu lịch sử, sách giáo khoa lịch sử được viết hay, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc thì sẽ làm cho người đọc quan tâm, tìm hiểu và yêu thích lịch sử nói chung và sử học nói riêng.

Thứ hai, quan trọng hơn, đó là vấn đề tư liệu trong các công trình của ông. Ông tiếp cận các vấn đề, sự kiện lịch sử đầu tiên từ chính nguồn sử liệu vốn/ sẵn có. Và cách đơn giản nhất nhưng cũng là cơ bản và khoa học nhất là: Đọc kỹ sử liệu, không chỉ từng câu từng từ mà còn đọc trong sự liên hệ, liên kết các sự kiện, con người mà sử đã ghi chép lại. Để nhận ra, nhìn thấy những gì mà sử gia thời trước không viết ra bằng câu chữ, tức là đọc lịch sử như người cùng thời để hiểu những gì diễn ra đằng sau những câu chữ. Như ông bảo, tất cả những “phát hiện mới” của ông đều đã được ghi chép trong ĐVSKTT cũng như trong các bộ chính sử khác. Những phát hiện “tư liệu mới” của ông làm cho nhiều vấn đề, nhân vật lịch sử trở nên sáng tỏ hơn – nhất là làm ta hiểu hơn bối cảnh xã hội của sự kiện lịch sử - cái nhìn biện chứng hơn. Các vấn đề ông phát hiện, nêu ra liên quan đến những nhân vật, những triều đại lịch sử mà trước nay ta thường chỉ nhìn thấy mặt chủ đạo (ưu điểm hay hạn chế cơ bản, nổi bật, quan trọng nhất…) của nó. Nói cách khác là ông cho chúng ta một góc nhìn khác về lịch sử. Vẫn là những nhân vật sự kiện triều đại đó, nhưng gần gũi, dễ hiểu và cũng có những khiếm khuyết, hạn chế, sai lầm… rất đời thường, rất con người. Lâu nay ta hay nhìn các nhân vật lịch sử chỉ qua lăng kính chính trị. Nhưng họ còn là những con người “xã hội”, con người “gia đình”, con người “cá nhân”. Khi nhìn nhân vật lịch sử trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” như vậy sẽ hiểu hơn những hành động hành vi, những thành công thất bại, quan trọng hơn là hiểu nguyên nhân nào dẫn đến những sai lầm của họ. Có như vậy mới thấm thía bài học kinh nghiệm từ lịch sử.

Thứ ba: Các công trình của ông thực sự là những công trình liên ngành: tiếp cận một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, từ nhiều ngành nhiều tư liệu khác nhau, để tìm ra bản chất vấn đề. Nếu những góc nhìn ấy đều đi đến bản chất của vấn đề thì kết quả nghiên cứu là đúng. Còn nếu như mỗi góc nhìn cho thấy những “bản chất” mâu thuẫn với nhau thì hoặc, phải kiểm tra lại tòan bộ tư liệu, hoặc cách đặt vấn đề của mình là sai! Như vậy phương pháp liên ngành đòi hỏi người nghiên cứu phải thực sự khách quan (và dũng cảm) khi sử dụng kết quả, phương pháp của các ngành khác, bởi vì nó có thể làm phá sản ý đồ nghiên cứu của mình. Có lẽ vì vậy mà lâu nay có những công trình nghiên cứu luôn ghi rằng “sử dụng phương pháp liên ngành” nhưng thường là chỉ sử dụng kết quả nghiên cứu nào phù hợp/ ủng hộ ý tưởng của tác giả mà né tránh, thậm chí lờ đi những gì ngược với suy nghĩ của mình.

Phương pháp liên ngành luôn đòi người nghiên cứu phải đặt những câu hỏi Tại sao, như thế nào với ngay những suy luận của mình… Trong nghiên cứu lịch sử biết đặt câu hỏi đúng là đã thành công được hơn một nửa? Nắm vững tư liệu lịch sử đó là chiều sâu, sử dụng tài liệu liên ngành đó là chiều rộng. Như vậy lịch sử sẽ hiện lên tòan diện hơn. Các công trình nghiên cứu lịch sử VN của bác Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ góc nhìn rộng nhất: từ văn hóa Việt Nam, các thành tố của văn hóa như ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa dân gian, huyền thọai, truyền thuyết… đều được bác sử dụng, miễn là nó cung cấp một cái gì đó để ông có thêm cứ liệu để hiểu đúng, giải thích một cách hợp lý về một sự kiện, một con người lịch sử, trên nền tảng nguồn Sử liệu mà ông đã khảo cứu vô cùng tỉ mỉ. Lịch sử là đời sống, đặt lịch sử trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, do đó khi đọc tác giả Tạ Chí Đại Trường ta nhận thấy “sử học” và “sự thật” khá gần gũi nhau.

Lẽ dĩ nhiên không phải vấn đề nào tôi cũng đồng tình với cách hiểu của ông, nhưng đây chỉ là cảm nhận của riêng tôi và tôi thường chia sẻ với các sinh viên của mình. Bởi vì tôi nghĩ, kinh nghiệm quý báu của người đi trước trong nghiên cứu chính là cách thức tiến hành công việc, là phương pháp chứ không chỉ là việc tích lũy tri thức được bao nhiêu, nhất là hiện nay với mạng Internet tòan cầu. Tuy nhiên nếu có phương pháp đúng ta sẽ tự trang bị cho mình những kiến thức tốt, cần thiết cho công việc cũng như đáp ứng sự yêu thích của mình./.

Nguyễn Thị Hậu

KHỔNG ĐỨC : Đọc thơ Vũ Trọng Quang


Đọc thơ Vũ Trọng Quang :
Hôm qua Hôm nay Hôm sau

Đến tuổi này 86 - cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ nên ngưng bút , ngừng nói, chỉ nên nghe và đọc, mà nghe nào có rõ, thấy cũng lờ mờ; nói chung cơ thể suy yếu, giác quan hao mòn, trì óc đâu còn nhạy bén minh mẫn nữa. Thế mà cứ phải viết, cần viết chỉ vì lũ trẻ con cái mê muội quá tệ…Không viết thì thấy xốn xang mà viết ra mấy ai đã đọc.

Đề tài ở đây lại viết về thơ Vũ Trọng Quang (VTQ): tập thơ Hôm qua hôm nay hôm sau. Tập thơ ra đời từ năm 2006, tôi được tặng muộn 9-2008. Gần một năm rưỡi gối đầu tập thơ của cả một đời. Phải ôm người đẹp thì đỡ biết mấy; đằng này cũng đẹp vậy ”thư trung hữu nữ nhan như ngọc”. Nhưng người đẹp bằng xương bằng thịt còn trao đổi qua lại, thích thú thì có chắc, mà hiểu nhau phải nói là chưa. Còn người đẹp bằng sách bằng thơ thì chỉ có lặn hụp, độc thoại, độc khan, mình nói mình nghe, đâu dám bảo là đã hiểu, đã thấu triệt …Hơn nữa bài thơ là một tư duy không thể tư duy; nhưng nó là sự thể hiện của tư duy, như A. Badiou đã viết :“ Le poème est une pensée impossible! Le pòeme est un devoir de la pensée.” Tôi đã đọc tập thơ được tặng không biết bao nhiêu lần, cảm thẩm thía (chứ không phải như Hoài Thanh đoc thơ Bích Khê nhiều lần mà không hiểu gì cả, nhưng vẫn bình thơ giảng thơ thành sách gối đầu cho bao thế hệ mới là chuyện lạ đời, có biết đâu đó là bờ lũy cản ngăn làm cho thơ Việt không tiến lên được.)

Cuộc đời Vũ Trọng Quang tự nó cũng đã là thơ rồi. Mồ côi cha quá sớm, mẹ góa không nuôi nổi con thơ nên phải tái giá. Tuổi thơ của Quang cũng đầy dẫy bụi đời : lớn lên ở dưới chân cầu, thở mùi tanh của cá, tắm dòng sông nước đen, lớn lên từ tiếng rao bán báo, từ tiếng gõ vào thùng đánh giày. Hôm qua của Quang là dấn thân là đánh mất, dấn thân không phải cho thơ mà vẫn có thơ trong tiềm thức : Em dậy thì bên kia sông Tôi tỏ tình bằng im lặng.

Nhưng chính nhờ sự đánh mất đó, chắc chắn với bao nước mắt và máu đã đổ ra…, để cuối cùng vẫn là kẻ được, ít ra cũng thành công trên đường đời, là kẻ có học thức, có sự nghiệp … Quang chia thơ mình ra theo hệ thời gian : hôm kia, hôm qua, hôm nay, hôm sau…nôm na là dĩ vãng, hiện tại tương lai; nhưng ngày nay thời gian và không gian đã hòa lẫn thành một, thì dĩ vãng, hiện tại, tương lai cũng thành hỗn hợp; trong hiện tại có ẩn ý tương lai, trong tương lai vẫn mang mầm mống dĩ vãng. Leibniz, triết gia của Đức cũng từng nói : Le présent est chargé de passé et gros de l’avenir. Trong thơ lại càng khó phân biệt, cuộc đời, ngay trong tâm tư của VTQuang cũng đầy giằng co mâu thuẫn, điều đó lại càng thể hiện rõ trong thơ với tính tương phản (contraste) :

Cha về ngủ lại trên trời
Mẹ còn đang thức trên đời chúng con

Tôi cởi áo ngồi lại trên cầu – Thức giấc mơ người xa lạ
…Tôi bước xuống chạm mặt mình đang bước lên
Con đường mòn mất dấu cho lần trở lại….

Chân lý không thể nào nói được tất cả, may lắm nó chỉ nói được một nửa thôi.

Tàu qua mau chỗ ngồi chậm rãi
Vội vã xuống ga quá khứ …
( Trở lại)

Ý nghĩa của câu thơ hay là bất khả tri; nhưng cái vô nghĩa có thể mang lại một hồi âm vĩ đại (Le sens de ce beau vers est impossible,,,Un non- sens peut donc avoir une résonnance magnifique – P. Valery).

Nhưng tìm đến thơ là tìm đến cơ sở sinh hoạt chân thật nhất, tìm đến chân lý, nói như Heidegger, nó nằm ở trong nghệ thuật, vì nghệ thuật là cảm tính, từ đó mới phát sinh chân lý nguyên thủy, mà chân lý nguyên thủy là tâm linh tồn tại. Mở đầu tập thơ Hôm qua Hôm nay…chúng ta gặp ngay hình ảnh “Song thân” : Mẹ khi khóc hết lá rừng Chân buông thân phận xuống đường trầm luân…Cha về ngủ lại trên trời…Cha bỏ xác trên rừng..... Mẹ ngồi đan thời gian thành chiếc áo sông dài núi cao biển vô tận……con…đi tìm vô ảnh từ tiếng kêu chim cú mèo…..mở cửa tâm linh tôi khai quật những cuốc đất kinh động đùn lên….

Tính tồn tại của bài thơ là “ý cảnh” thê lương bi thảm “đi tìm hài cốt của cha”, có phải của một Vũ Trọng Quang đâu mà là hàng ngàn hàng vạn cảnh tình con mất chá, vợ mất chồng trong cuộc chiến đầy thảm khốc. Cái chân lý thương đau nầy còn mãi hàng trăm, hàng ngàn năm sau. Nỗi đau không phải của kẻ đã đi về thiên cổ, mà nỗi đau cho người ở lại, cho vợ, cho con…Dấn thân vào thơ, không phải để biết nó nói cái gì, mà là để nghĩ cái gì đã xảy ra, đã phát sinh. Vì bài thơ là một cuộc phẫu thuật, nó cũng là một hiện tượng, cái ẩn ngữ trên bề mặt là dấu hiệu của sự phát sinh…chim cú mèo đã vỗ cánh đưa chiếc áo năm mươi năm …bay về trời thêm một lần Mẹ rưng rưng đội mang khăn sáng Cha ơi con yêu tro bụi vô cùng Đúng là phiến ngôn minh bách ý ( một mảnh ngôn từ mà chứa cả ý nghĩa bao la.)

Cuộc nhân duyên đầu đời của VTQ cũng đổ vỡ. vì đâu ai biết (?); nhưng mãi mãi vẫn để lại trong lòng trai sự sám hối…thành “ người cũ” : Nỗi nhớ rủ tôi tìm lại dấu vết cơn địa chấn lâu rồi tiếng dương cầm mùa đông ngủ triền miên……chiều tím ấn tôi ngồi xuống vỉa hè với chai rượu cùng đợi chờ sám hối tiếng cầu kinh quanh đây nặng nề.

Tiếng chim ríu rít vây quanh
Tiếng lòng thửa ấy lặng thinh bây giờ
Bao la từ chỗ ngơ ngơ. Giảng đường bui mới góc chờ đã qua.
Em đã xa và xa thật chuyến bay mang một lời thề
Nửa trời trái đất không quay ngược nửa trời còn lại hòn vọng thê

Hình như đụng đến thơ là đụng đến tình yêu, theo tôi là cửa ngõ hãm vây chôn chặt đời ta. Mặc cho các nhà bình luận tuyên xưng:” Tình yêu làm cho cuộc đời nên thơ, hay chính thơ làm nên tình yêu cho đời . Hay tình yêu và thi ca khi nó đã trở thành cứu cánh và phương tiện của cuộc đời, thì nó sẽ mang lại ý nghĩa viên mãn “ sống vì sự sống”. Tóm lại, thi ca là mỹ cảm, là tình yêu, ý nghĩa của nó chính là ý nghĩa cao cả trong đời (Le sens de l’amour et le sens de la póesie, c’est le sens de la qualité suprême de la vie). Thật ra thơ đúng nghĩa của thơ là sự chân thành, nên nó cũng là chân lý, cái chân lý tự động phát sinh, và nói như Heidegger, chân lý xuyên qua sự sáng tạo thi ý phát sinh, nên dễ làm cho chúng ta xúc động, tác phẩm tồn tại hay không cũng là ở đó. Và từ tình yêu cá thể lan rộng đến quê hương, đến trở về, ngày về, bước về… sự trở về là nôi dung cơ bản của tâm hồn (Pascal Quignard tùng nói: le nostos est le fond de l’âme- nostos là tiếng Grec có nghỉa là” trở về”) Từ tâm trạng đó mà có “ Hè cháy”,“Tháng chạp”,“ Thủy tinh” v..v…Chúng ta hãy đọc bài ngắn nhất Thả trôi giữa giòng sông cơn thịnh nộ của mùa lòng cạn lời hẹn hò mắc cạn…tôi hạn hán cả giấc mơ khát mây đen. Bài thơ chỉ có bốn câu, đúng ra là 26 chữ mà nghĩa vô cùng rắc rối, đó là tính chất của thơ hiện đại, là khung dệt những ngôn từ nhiêu khê; nhưng nếu chịu khó truy tầm từng chữ trong thơ thì sẽ giải mã được tư tưởng của nó. Đọc Hè cháy lại nhớ đến các câu thơ của Nguyễn Bính: Xếp lại chăn bông cùng áo dạ Mở toang bốn cửa cất then cài. Nắng lên mất thú ngồi bên lửa Mùa hết hoa rồi bạn với ai.

Hay nói như Paul de Man (1919 – 1983) phép tu từ ở đây mang tính thần bí ( nghĩa là vừa ẩn dụ vừa hàm súc, lại còn mang ý cảnh..) nghĩa là phải tìm hiểu ở phía sau ngữ pháp chặt chẽ của văn bản; cũng không khác quan điểm mỹ học của Trung Quốc là Ý tại ngôn ngoài là ý ở ngoài lời hay là “ vị ngoại vị”, “huyền ngoại huyền tức là chỉ vào dư âm dư vị…Để giúp cho bạn trẻ chóng hiểu chúng tôi xin giải mã một đôi từ, như cơn thịnh nộ của mùa có thể là cơn hạn hán; lời hẹn hò mắc cạn, chính là lời hẹn hò đủ thứ mà rồi kết quả chẳng có gì cả. Ngay từ mắc cạn cũng đã có người viết : Có ai ngờ được nước chẳng về xuôi cho thuyền mắc cạn bao kẻ ngậm ngùi.

Hạn hán cả giấc mơ là cho đến giấc mơ cũng không hiện về. Tôi cũng không ngờ là VTQ lại rất sở trường về loại bí hiểm này, như bài “Tháng chạp” : Tôi đợi đất trời trở dạ Trời trở dạ là trời thay đổi thời tiết, nhưng từ này là từ của thôn dã, ít người nói đến từ điển VN cũng không có.…chỉ mình tôi giấu mãi mùa đông trong tay ôm Mùa đông phải hiểu là trái lại với thứ mùa hè đỏ, mùa hè nóng bức thiên hạ sợ chạy re. Nhưng đến Áo vàng đã chân đèo bước xuống thì lại không phải nắng hè nữa mà là hình ảnh tượng trưng…, một lũ bất tài chạy tán loạn. Hay nói như ai đó, nhà thơ chống lại sự khó nói bằng sự đa nghĩa của ngôn từ, hay thay vào ý nghĩa bằng cách làm rối loạn tầt cả ý nghĩa. Bài thơ không phải là một sự miêu tả, cũng không phải là sự biểu hiện…Bài thơ là một cuộc giải phẩu, nó dạy cho chúng ta rằng thế giới không tự hiển hiện như sự sưu tầm đồ vật, thế giới không phải cái gì đề xuất trong tư tưởng . Mà với công cuộc giải phẫu bằng thi ca nó là sự tồn tại độc đáo. Trình tự của nó mang tính gián tiếp, nó đòi hỏi sự thẩm thấu dấn thân hơn là tìm hiểu. Tí dụ như đọc những câu thơ trong bài “Cuối đường” : Xin lỗi vầng trăng khuyết vẫn đợi hai ta ở cuối đường về cả khu vườn tàn phai những cành hoa trộm hái cả lời thề khắc trên cây cao hơn tầm tay với Chỗ nằm động đất bao lâu rồi giấc ngủ ngược đầu nhau…Có người bày dại là cứ đọc thuộc lòng nó đi, rồi đến lúc nào đó ta sẽ thẩm thấu lãnh hội được thôi. Hay muốn hiểu một bài – nhất là loại thơ như của VTQuang – phải xuyên qua một cơn bốc cháy (tức bốc đồng cuồng nhiệt). Bài thơ hướng về ánh sáng nhưng chỗ cư trú của nó vẫn liên đới đến bóng tối (La póesie cherche à savoir à travers une inflammation. Elle tend vers la clarté, mais demeure solidaire des ténèbres).

Thành công của VTQ là luôn luôn hướng về phía trước: Tôi vẫy tay chào chia tay tôi hôm qua…..Tôi chào mừng tôi hôm nay cắt băng khánh thành con đường thênh thang mới ngôn ngữ quay trong không gian nhiều chiều vẫn còn hai hàng cây……. Xin giữ lại xin giữ lại hai hàng bóng mát…Chung quy cũng chỉ là âm dương , là đối thoại, là tình yêu đó thôi. Hơn nữa nghệ thuật là phài tạo cho cá nhân sự chống đối, sự chết chóc phổ cập, căn cơ nghèo nàn, sự bất công…

Tìm lại ly cà phê không đường nhỏ giọt đen xanh như xưa xanh chiều đặc quánh thường trực điếu đen đầu lọc xanh ngực tối, thái độ Ngực tối …tôi cho là hình ảnh tuyệt đẹp, vì đó là tâm tư thầm kín. Đúng như Novalis từng nói : Tôi hiện hữu không phải trong phạm vi tôi bày tỏ, mà chính là trong phạm vi tôi vượt qua….Cái vượt qua chỉ có thể đến bằng ngôn ngữ. Trong bài “ Trương Chi khác” có những câu cực thú :

Lẽ nào sống thường xuyên bằng nghi vấn phải chăng chính từ đôi môi hình trái tim kia mãi mãi màu huyết dụ bao lâu rồi từ đôi mắt khép hờ kia tiếng hát còn nhỏ lệ…..Khổ nỗi mấy ai hiểu được màu huyết dụ. đó là màu máu bầm, màu bordeau… Và trong bài “ Nhã ca khác” với các câu “ Mặt trời mọc khủng khiếp một lần không tắt nắng ở phương tây Làm gì có hạnh phúc lứa đôi hai đường thẳng song song con trăng mộng mị ngàn ngàn xưa không có thật

Dấn thân vào thơ ngày nay- tôi xin nhắc lại, không phải để biết nó nói cái gì mà là để nghĩ cái gì đã xảy ra, cái gì đã phát sinh, cái ẩn ngữ trên bề mặt là dấu hiệu của sự phát sinh. Nhưng thôi hảy cùng với VTQ trở về với thực tại phũ phàng , “ Ở công viên” hay ở đâu đó cũng được:
Mặt trời thản nhiên ánh sáng lạ là vẫn chưa có gì là lạ Người đàn ông bán thân bất toại chào sớm mai câu Biết mà không nói dược

Tiếng dế gõ vào tai đứa bé bước chân quá khứ người vũ nữ cô gái đẹp ngẩn ngơ quét đường Trộn lẫn mọi người chia ra đáp số Đó là Tôi của VTQ, là thực tại phải trải qua đau khổ mới biết đau khổ là gì, mới biết thương người. Hay như ai đó đã nói:“la ligne de force d’une sagesse moderne serait la compréhension (con đường đưa đến sự minh triết hiện đại. có lẽ là sự thông cảm.) Cũng từ đó mà có những Câu hỏi, Sáng tạo, Những Xuân Hương, v…v….Ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của nghịch lý. Bài thơ luôn luôn cố gắng bẻ gãy những kết hợp, những gì được coi như là thông lệ, bài thơ là môt cử chỉ thân thiết trong ngôn ngữ, sự tả tác đào sâu sự chí thiết và lui về trong xó xỉnh của bóng tối.

Thơ của VTQ phải nói như G. Bataille (1897-!960) là sự kiện đốt cháy ngọn lửa nội tâm, ông cũng gọi đó là sự tiêu hao (consumation) đối lại với sự hoang phí (consommation), nó thuộc hiện tượng của chợ búa siêu thị. Nhưng phải chấp nhận sự tiêu hao “ vì thơ là tiêu xài, phung phí, một phần của sự điên khùng trong đời….Nhưng có thể đó là sự minh trí, vì minh trí đúng nghĩa là pha lẫn với điên khùng…

Về thơ… của VTQ là cả cuộc đời làm sao nói hết được, vậy hãy tạm ngưng ở đây, để trả lời thắc mắc của Quang mà cũng là của chung mọi người : Tìm thơ ở đâu? Vấn đề cũng đã có người đặt rồi : “ Ngày nay thơ phải đi về đâu?” (vấn đề đã được đặt ra và được E. Morin giải đáp trong một bài diễn văn đọc tại đại hội thi ca ở Yougoslave mùa kè 1990) xin trích dịch như sau:”Thơ cũng như mọi địa hạt khác, không phải chỉ tiến về phía trước, với ý nghĩa đội ngũ tiền phong phải mang lại cái gì mới hơn cái đã có từ trước. Cái mới không nhất thiết phải là tốt hơn, và đó có thể chính là chân lý của ý tưởng hậu hiện đại, làm cái mới vì cái mới là vô nghĩa. Vấn đề không phải là sản xuất thành hệ thống và cuồng nhiệt tạo ra cái mới, mà cái mới chân chính luôn luôn sinh ra trong sự trở về nguồn…”( nguồn đây không phải là học lại cái cũ) Đó là sự quan tâm đến nhân ái, đến cội nguồn của tính năng, đến nền văn minh…có thể ở đó có hiện tượng hậu-hiện-đại, hậu- hậu- hiện- đại. Nhưng tất cả đều là thứ yếu, cứu cánh của thi ca mới là vấn đề nền tảng, chính chúng ta đang ở trong trạng thái thứ yếu, giờ hãy đưa trạng thái ấy lên hàng đầu, hàng chính yếu. Cứu cánh đó là đặt chúng ta vào trạng thái thi tính (l’état poétique).Mà theo chúng tôi nôm na là sống thơ, là hướng về cuộc sống tình cảm và tình yêu bao la. Hay nói như VTQ Rồi sẽ có thiên đường nơi trái tim không hối thúc mai sau thôi phán xét (Nhã ca khác)./.

KHỔNG ĐỨC

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2009

Tình Thư Cuối Năm

Cuối năm lòng lặng, tức thì
Chiều buông mái lợp trước khi sang đèn
Ngày ròng nước lớn chưa lên
Lao xao bóng đổ tây hiên vạt dài
Xuân mùa sớm tới chờ ai
Bên cầu phơ phất mảnh mai dáng người
Cuối năm một chút nhớ rời
Ngày xưa thấp thoáng tình ơi nàng về


Từ Hoài Tấn

Thơ Đynh Trầm Ca


RƯỢU CUỐI NĂM BÊN BỜ KINH PHƯƠNG NAM


Rượu cuối năm rót cuối bờ kinh
ngọn gió chướng thổi se lòng nước
ta và bạn làm sao biết được
bởi vì đâu so đũa nở trắng bông ?
bởi vì đâu rượu đắng ở cuối lòng
cứ nồng ấm nhưng hồn lãng bạt
bèo bữa trước vì sông mà trôi giạt
chợt nở hoa về rợp bến quê nhà
thì sá gì cuôc nổi trôi ta !

Rượu cuối năm gõ chén hát xuân ca
nghe cuối bãi tiếng doi đất lở
nghiêng mé nước gốc mai già vẫn nở
bạn và ta còn thua cỏ cây nhiều
mới mười năm theo chim vịt kêu chiều
mà gió thổi muốn rách hồn kiêu bạt

Rượu cuối năm cất không lên tiếng hát
khúc xuân ca hiu hắt giọng trầm ca
nâng chén hoài hương gục nhớ mộ cha
gió thổi miết chắc chẳng còn thấy nấm
nâng chén tình quê thương mẹ già lận đận
sinh con ra chất thêm lấy lượng sầu

Nhà trống tàn năm chằng thấy con đâu
gió hú mãi trên tháp Hời (*) u uất
gió chi thổi năm mươi năm không dứt
xô ta trôi, tới rạch cuối, kinh cùng
ôi lục bình vừa trôi vừa trổ bông
ta và bạn có lẽ nào chìm rã !

Rượu cuối năm lòng say mà chưa đã
thêm một ly để cảm tạ đất này
thêm một ly gửi tới những tảng mây
để cuối kiếp ta trôi lên thường trú
thêm ly nữa để thương bờ đất lở
mai lở thêm nhà ta cũng trôi luôn
đời biển dâu hề, dâu biển là đời
đừng chửi tục! (…) giao thừa sắp đến !
chín nhánh rồng thiêng có trăm nghìn bến
đời thơ ta cứ - tấp, cứ - đi !…

Rượu cuối năm gió lọt lòng ly
vọng tiếng hú ma Hời buồn quê cũ
đêm viễn xứ vang vang pháo nổ
giao thừa giao thừa hề ta lăn quay
rượu hết rồi làm sao chết giữa cơn say !…


ĐYNH TRẦM CA
Miền Tây, cuối tháng 12.1991


(*) Hời : từ địa phương Nam Trung Bộ gọi dân tộc Chàm (dân tộc Chăm, Chăm-pa)

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2009

THANH HẢI : "Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh"




















Thi sĩ Bùi Giáng (Ảnh: Lâm Ngọc Duy)


Chàng "trung niên thi sĩ" ra đi đã lâu nhưng đây đó vẫn còn những giai thoại. Hình ảnh một "thi sĩ lập dị" vẫn không phai mờ trong lòng các độc giả. Nhiếp ảnh gia Lâm Ngọc Duy kể về "niềm hạnh phúc nhất của cuộc đời" khi gặp Bùi Giáng.

Giấc mơ thành hiện thực
Vì hoàn cảnh nhưng cũng là một cơ duyên, năm 1980 ông Duy rời Đà Lạt xuống Sài Gòn, đem theo đứa con gái nhỏ sống vất vưởng dọc vỉa hè. Hai cha con tứ cố vô thân, không nhà cửa, hằng ngày ông Duy phải đi chụp ảnh dạo dọc đường phố Sài Gòn tìm miếng cơm, bát cháo lay lắt sống qua ngày.
Một thời gian sau, ông Duy may mắn gặp được nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Hai người trở thành bạn thân, từ đó ông Duy thuê phòng trọ và được nhận vào làm trong Ảnh Viện Đống Đa trên đường Trương Minh Giảng.
Một hôm ông đi qua bùng binh Trương Minh Giảng, thấy một ông già đang nhảy múa, xung quanh con nít vây xúm rất đông. Cũng hiếu kì nên ông chạy lại xem, ngó chừng dung mạo thấy giống Bùi Giáng được nghe qua lời kể của bạn bè, ông Duy liền hỏi: "Xin lỗi! Có phải ngài là Bùi Giáng không?". Ông già nhướng mắt nhìn và hỏi lại: "Sao anh biết ta?". "Dạ, con là độc giả của ngài đây, hâm mộ ngài đã từ lâu nay mới được gặp, thật là một cơ duyên!".
Bùi Giáng rẽ đám trẻ con ra, cầm tay ông Duy kéo vào một con hẻm nhỏ trên đường Trương Minh Giảng. Tại đó hai người chuyện trò và Bùi Giáng đã chép thơ lên vỏ bao thuốc lá tặng ông Duy. Bài thơ chỉ có một câu: "Chép lời bờ cỏ ra hoa".
Nhìn câu thơ mà ông Duy vui mừng khôn tả, thấy thơ lạ nên ông Duy hỏi: "Thơ ngài quả là siêu phàm, con không hiểu được ý thơ?", nghe Bùi Giáng giải thích ông Duy lại càng kính nể và vui mừng hơn (nhưng vì lí do cá nhân nên ông Duy không kể lại lời giải thích của Bùi Giáng).


Theo dòng ký ức
Nghe Bùi Giáng giải nghĩa câu thơ xong, ông Duy chở "ngài" trên xe đạp dạo quanh Sài Gòn". Lúc nào bên mình ngài cũng có bầu rượu và túi thơ như thế. Và cứ khoảng 200 mét, Bùi Giáng lại bắt ông Duy dừng lại, tạt vào lề đường làm mấy hớp rượu rồi mới chịu đi tiếp. Đến ngã ba, ngã tư có khi ngài lại xuống đường làm cảnh sát giao thông, chỉ đường cho xe cộ đi lại! - ông Duy kể".
Sau cả ngày "du ngoạn" Bùi Giáng cho ông Duy địa chỉ nhà và dặn: "Anh muốn tìm ta thì đến đường Lê Quang Định, cứ hỏi nhà của ông già điên thì ai cũng biết, đến mà thấy ta bệnh thì ghé chơi, còn ta khỏe thì im lặng mà về, ta không tiếp" (những lúc bệnh là lúc ông ca hát, nhảy múa, làm cảnh sát...). Chiều tối ấy, hai người từ giã nhau ra về, ông Duy còn vui mừng lắm khi kể với chúng tôi ngày kỷ niệm đó.
Cách ít lâu sau, ông Duy có đến tìm nhà Bùi Giáng mấy lần, nhưng không lần nào gặp được. Người ta bảo: "Hôm nào ông cũng đi từ lúc 3 giờ sáng, có khi cả nửa tháng mới về nhà". Rồi một bận ông Duy đi sớm. Lần đó ông mang theo bộ tách trà nhỏ với hai cái bánh pía và gặp được ngài trong một quán cà phê ở cuối con hẻm. Thấy ông Duy, Bùi Giáng lên tiếng hỏi: "Sao anh biết ta ở đây?", "Dạ, con đi tìm ngài mấy bữa nay mà không gặp, hôm nay đi không ngờ lại tìm được ngài".
Tại quán cà phê đó, ông Duy pha trà mời, Bùi Giáng cúi xuống rồi đưa tay cao quá đầu nhận trà một cách lễ phép, còn húp cả những giọt trà rơi xuống bàn. Cử chỉ của thi sĩ Bùi Giáng làm ông Duy nhớ mãi không quên. Bộ tách trà uống cùng Bùi Giáng hôm đó, đến bây giờ ông Duy vẫn giữ và trân trọng.
Rời quán cà phê, hai người dắt nhau qua chùa Liên Ứng, tại đây ông Duy đã chụp những bức ảnh đầu tiên về Bùi Giáng.
Ngài lại làm thơ tặng ông Duy.

Bài thơ không đề có đoạn viết: "Tăng thanh đầu ngọn yêu đào/Hắc phong hải ngoại tự trào hoàng hôn/Chẻ hai mảnh giấy vô hồn/Lầm sương lạc tuyết là cồn điếu tang/Còn nguyên phố thị hội đàm/Với trăng châu thổ muôn vàn dưới kia". Phía dưới có ghi "Thân tặng Lâm Ngọc Duy, người bạn Quảng Ngãi (tôi bạn Quảng Nam), kí tên Bùi Giáng".
Vào cuối câu chuyện, Bùi Giáng đề nghị: "Anh đưa ta về thăm nhà anh, ta ở lại một đêm mai đi chơi tiếp". Ông Duy ở trọ trong căn nhà lá nhỏ, chỉ có một chiếc giường, đêm hôm ấy ông Duy mời thi sĩ lên giường ngủ. Bùi Giáng không chịu: "Ta nằm dưới đất quen rồi, anh để ta ở đây thoải mái hơn".
Bùi Giáng tiếp: "Anh có làm thơ không? Cho ta coi?". Đọc xong, Bùi Giáng khen hay và nói: "Hay anh in chung với ta một tập đi?", ông Duy khiêm nhường trả lời: "Tôi chỉ đáng xách dép cho ngài sao lại ngồi chung chiếu với ngài được".

Hai lần gặp "một đời" nhớ!
Sau đêm đó, Lâm Ngọc Duy không được gặp lại cho đến khi Bùi Giáng qua đời. Thế nhưng những kí ức về thi sĩ Bùi Giáng đến nay và suốt đời sẽ còn in đậm trong tâm trí ông. Những bài thơ ghi trên giấy vụn, những tách trà xưa uống chung nhau, những bức hình Bùi Giáng, những tập thơ, truyện dịch của Bùi Giáng đến nay ông Duy vẫn còn lưu giữ, tất cả được ép, được đóng khung và trưng trong tư gia một cách trang trọng.
Ai đó có dịp qua Đức Trọng (Lâm Đồng) nhớ ghé nhà Lâm Ngọc Duy. Một căn nhà gỗ nhỏ nép giữa vườn cây cảnh và hoa, hằng tháng ở đây vẫn có những đêm thơ, hằng năm vẫn có những lần giỗ Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn và đặc biệt là được nghe ông kể về những kỉ niệm của ông với "Trung niên thi sĩ", "Trịnh nhạc sĩ".
Cuối cuộc trò chuyện, chúng tôi hỏi ông Duy về những nhận xét riêng của ông đối với Bùi Giáng (về cuộc đời, con người cũng như thơ của ông), ông Duy trả lời: "Ngài là một Bồ Tát nghệ Sĩ, người ta cứ nói là Bùi Giáng điên, nhưng tối thấy ngài không điên, họ nói vậy vì họ không biết, Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh!".


http://www.tuanvietnam.net/

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

Trần Đình Sơn - Tùy bút

Trần Đình Sơn - Hà Vĩnh Tường

Lòng như sắt đá


Mùa hè năm 1968, sau khi thi đậu tú tài II tôi nghe bạn bè rủ rê quyết tâm “thoát ly” vào Sài Gòn học Đại học. Lứa tuổi chúng tôi thời đó ở Huế, đa số bị trầm uất, chán chường sau biến cố Tết Mậu Thân…
Mộng làm thầy thuốc giúp đời không thành tôi ghi danh học Luật khoa, hy vọng sau này làm thầy cãi cho sướng miệng. Trường Luật đông đúc, bát nháo đủ mọi khuynh hướng, tôi có thêm nhiều bạn mới, Hà Vĩnh Tường là một.
Cùng tuổi trâu cày (1949) đứa sinh ở Ninh Bình, đứa đầu thai ở Huế. Thỉnh thoảng giúp nhau giành chỗ ngồi trong giảng đường hay kéo nhau ra ngồi nhâm nhi café bụi quanh hồ con rùa ca bài “ hành phương nam”. Giựt được một chứng chỉ Luật, rủ nhau thi vào khóa Đốc Sự XVII-QGHC. Ai ngờ có số làm quan, Tường đậu thứ 47, phần tôi 78. Mùa thu năm 1969 nhập học, nhìn quanh thấy nhiều khuôn mặt quen biết nhau hồi học Luật, thêm một số đồng hương “nước Huế” vào như Thanh, Nghĩa, Hòa, Ngữ, Như Nguyệt, Thị Vinh…nên “hết sức phấn khởi”.
Tôi xin vào nội trú, từ đó như chim sổ lồng, mặc sức được liền anh, liền chị hướng dẫn, giúp đỡ đi tìm hiểu chuyện đời…Đặc biệt Tường hay vào ký túc xá ở chui, để tham gia cuộc vui. Đầu tháng lãnh học bổng cùng nhau thưởng thức đầu cá lóc hấp ở Cao Thắng, nghêu sò ốc hến trên Nguyễn Tri Phương…Cuối tháng, ngày hai bữa kéo nhau qua “ Thanh Lạc Trai” tạm thời chay lạt ghi sổ.
Năm thứ hai, nhóm gốc “Thần kinh” xin về Thừa Thiên tập sự. Dịp Tết Tường ra thăm, chúng tôi chiêu đãi đủ món đặc sản cố đô “vật chất lẫn phi vật chất”. Mấy o Huế nghe chàng trai Bắc Kỳ miệng tán gái dẻo quẹo, khôi hài có duyên nên ưa lắm. Một hôm tôi rủ Tường đến nhà Nguyễn Trình bên sông An Cựu đánh xì phé chơi. Vốn cao thủ nổi tiếng ở ký túc xá, ai ngờ bị tổ trác hai đứa cháy túi thơ thẩn về nhà nhếch mép không nổi. Xong tập sự, quay về học viện, chúng tôi càng thân thiết hơn. Lúc này, Tường và tôi có chung điểm hẹn trên đường Phù Đổng Thiên Vương nằm cạnh đại học Y khoa, nhà của bạn Nông Thị Trưởng. Tường say đắm
đoá lan rừng Lâm Đồng, Vi Thị Thủy. Về sau mới biết hai bạn vượt qua mọi trở ngại để được chung sống với nhau.

Cuối năm 1972, khóa XVII tốt nghiệp. Từ đây bạn bè mỗi người đi một phương từ Quảng Trị cho đến Hà Tiên. Riêng Tường quyết định về Bộ Nội Vụ rồi khăn gói lên nhận nhiệm sở ở Phước Long. Tôi, cái duyên nghiệp mê đồ cổ từ nhiều kiếp nên lòng cứ đắn đo đi xa sợ “ bể đồ”. Vòng vo đưa đẩy được ngồi chơi xơi nước ngay trước Viện Bảo Tàng trong Thảo Cầm Viên. Tha hồ vượt rào qua lại ngắm nghía, nghiền ngẫm, tôi thích thú tìm lại cái hồn những thứ muôn năm cũ.
Một dịp về Sài Gòn Tường ghé thăm và kéo tôi ra Tự Do uống café kể chuyện vui buồn hoạn lộ. Biết Bác tôi viết chữ Hán đẹp, trước khi rời Sài Gòn Tường đến xin Bác viết cho bốn chữ “TÂM NHƯ THIẾT THẠCH”. Bác cười, hỏi Tường sao mới ra làm việc mà có ý bi phẩn thế. Tường giải thích, cháu làm việc trên vùng đất dữ dằn nếu lòng không như sắt đá thì e không trụ nổi. Cháu muốn treo bốn chữ này để tự nhắc nhở mình thôi. Đó là dịp chúng tôi gặp nhau lần cuối. Đầu năm 1975, tôi được tin buồn Tường đã hy sinh ở Phước Long. Xương máu
hoà chung vào mãnh đất định mệnh đó để tồn tại như lời nguyền của Tường : lòng như sắt đá. Thuỷ, hồng nhan trong cơn gió bụi ôm con quay về Lâm Đồng nương náu người thân. Vượt qua biết bao gian truân, khổ ải cố gắng hết sức nuôi dạy con thành người. Cháu Hà Vĩnh Thuận tốt nghiệp Đại học Đà Lạt rồi chuyển về sống làm việc ở Sài Gòn. Năm 2007, Thùy giã từ thế gian về sum họp với Tường miệng mỉm cười mãn nguyện.
Nay tròn hoa giáp, trải qua khúc quanh lịch sử của đất nước tôi nghĩ lại mà rùng mình, Bạn bè người còn, kẻ mất lưu lạc khắp nhân gian. Thành bại, nhục vinh, hạnh phúc, khổ đau… lứa tuổi 60 nếm mùi tạm đủ. Xin cảm tác bài thơ gửi đến bạn bè


Sáu chục Xuân Thu giữa chợ đời
Nổi chìm ba bảy, chín chơi vơi
Mơ màng hồn mộng thăm quê cũ
Lồng lộng Hương Giang nguyệt rạng ngời

Rạng ngời bóng nguyệt toả dòng Hương
Đỉnh Ngự thông reo khúc đoạn trường
Vương Đế Công Hầu nằm thổn thức
Bân sơn(*), Thiên Thụ(*) giấc hoàng lương(*).


Trần Đình Sơn
Phú Xuân


GHI CHÚ:
- Bân sơn: núi Bân gần bên núi Ngự Bình nơi vua Quang Trung lên ngôi Hoàng Đế
- Thiên Thụ: Lăng Vua Gia Long
- Hoàng lương: giấc mộng kê vàng ngắn ngủi

Thơ Cao Thoại Châu

CHỦ NHẬT


Chủ nhật nhớ em buồn vỡ mắt
Thấy con sáo đứng ở trong lồng
Ở cõi xa nào em có thấy
Đất trời chao đảo dưới chân không

Giờ này chắc hẳn chuông vừa đổ
Chúa gọi chiên ngoan của Chúa về
Đã bỏ mấy tuần không xem lễ
Cuộn mình trong những cánh thư xa

Thư tình đọc thích hơn kinh Chúa
Đó là đời trộn với văn chương
Là con sông nước ròng nước lớn
Khi buồn vật vã lúc thênh thang

Lớn nhanh lên lớn thật nhanh lên
Đừng quên lớn cả trong ngày chủ nhật
Trong mỗi trang thư trong từng chữ viết
Có một ngày lớn kịp theo anh

Chủ nhật anh thành người mất bóng
Lơ ngơ như con sáo đứng trong lồng
Em không hiểu nhưng mà Chúa biết
Vì em là chiếc bóng đời anh

CAO THOẠI CHÂU

Thơ Trần Dzạ Lữ





Ở CHỢ


Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi buồn
Sáng bảnh mắt ra ngồi độc ẩm
Chiều về tra vấn lấy lương tâm

Mười năm ở chợ, ơi trần trụi
Em ạ, em xa ở kiếp nào?
Có thấy ngày xanh ta chuốc mộng
Không thành nên đắp chiếu thương đau

Ở chợ đông, sao hồn cứ lạnh
Đốt thuốc hoài không ấm nửa chiều
Thiên hạ đùn nhau đi kiếm sống
Nhân ái? Tang - thương - ngẫu - lục nhiều

Ta bán rau xanh ngày mệt lử
Đêm còn ngồi đọc sách thánh hiền
Cố quên cơm áo - Vòng danh lợi
Sao đời nỡ hối thúc bên lưng?

Mười năm ở chợ không thay đổi
Tâm tánh ta xưa vốn thật thà
Đâu ước công hầu mơ khanh tướng
Bạc tuổi thanh xuân mong có nhà!

Hồn ta ở chợ thương quê cũ
Nhớ áo nâu xưa, nhớ mẹ già
Nhớ bông bưởi rụng đêm mười sáu
Thơm ngát môi em trước hiên nhà

Mười năm ở chợ không tri kỷ
Gác chuyện văn chương thấy chẳng đành
Nên ta độc thoại - Ta đây nhỉ?
Thương nhớ xa xăm một bóng hình.


1989

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2009

Hai bài thơ Xuân

Cùng với mùa Xuân

Gởi chào cô vài câu thơ nhẹ
Gió mùa xuân sẽ ấm những ngày
Dặm ngàn như có bàn chân khẽ
Bước qua đây nâng chén rượu đầy

Gởi chào cô đôi lời chúc tụng
Nắng tràn Xuân rộn rã cùng mùa
Đường hoa lay gió mừng xuân nữ
Nhắc nhớ lòng ai ngơ ngác xưa



Xuân trên sông Vàm Cỏ Đông

Một ngày nọ khi đi xuống phía nam
Chào đón Xuân
Bên biền sông
Chiếc ghe bập bềnh dưới vòm lá
Ở bờ kinh tắc bên kia chiếc xuồng ba lá cặp bờ
Câu hò của người thiếu nữ vừa rảo chợ về
Mái dầm buông lã
Em ơi mùa xuân tới
Má lúm đồng tiền cười nụ ngọt vào môi

Một ngày nọ khi đi về phía nam
Chào xuân nức nở tiếng chim bầy
Mộng cầu ngàn đêm ước thấy
Cõi lòng di trú đã neo bến nước này
Em ơi mùa xuân tới
Đừng để lỡ xuân qua

TỪ HOÀI TẤN

Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2009

Nhà thơ Nguyễn Trung Bình qua đời


Hôm qua (10/12/2009), lúc 17h15 tại bệnh viện 115 (Sài Gòn) Nguyễn Trung Bình đã qua đời đột ngột do bạo bệnh. Hưởng dương 42 tuổi, theo Âm lịch. Linh cữu sẽ được chuyển về quàng tại quê nhà, làng Long Phước, Nam Phước, Duy Xuyên, Quảng Nam; an táng tại nghĩa trang quê nhà.


Nguyễn Trung Bình sinh ngày 10/5/1968 tại thị xã Hội An, 15 năm sau này anh sống chủ yếu tại Sài Gòn.

Nguyễn Trung Bình (hội viên Hội Nhà văn TP.HCM) làm thơ và viết báo rất cá tính; là tác giả đồng kịch bản lời thoại với Trần Anh Hùng trong phim Cyclo - giải Sư tử Vàng tại liên hoan phim Venise, nhân điện ảnh thế giới tròn 100 năm (1895-1995).

Tác phẩm chính: Miền mây trắng (thơ 4 tác giả, NXB Đà Nẵng,1994), Bài của trẻ dáng nâu (thơ, NXB Văn nghệ TP.HCM, 1996), Thánh địa Mỹ Sơn (đồng biên soạn, NXB Lao động, 2005)… Các phim tài liệu: Cao su Đồng Nai (Hãng phim TSTL TP.HCM,1997), Rối nụ cười (Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu, 1998).


Các bạn hữu văn nghệ xin chia buồn cùng gia đình và cầu chúc hương linh nhà thơ Nguyễn Trung Bình được an vui nơi cõi vĩnh hằng.

Vũ Trà My - Vũ Trọng Quang – Trần Hữu Dũng – Chiêu Anh Nguyễn – Trương Văn Dân – Từ Hoài Tấn – Nguyễn Miên Thảo - Phù Hư - Trương Đạm Thủy - Đồng Chuông Tử - Nguyễn Minh Phúc – Nguyễn Hòa VCV – Phan Ngọc Thường Đoan – Nguyễn Thị Hậu- Mang Viên Long – Linh Phương - Đoàn Quỳnh Như - Nguyễn thị Ánh Huỳnh . . .




THƠ NGUYỄN TRUNG BÌNH

Mùa chuyển

cơn gió lạ tràn qua phố buổi sáng bạn ngồi
mơ với nắng mùa về của cánh chim lâu rồi di cư lên mạn Bắc
chị thong thả gấp từng đồng lẻ cho vào túi áo bà ba đã sờn rồi
đứng lên quảy gánh trái cây đi trên lề ngược dòng xe dưới đường
đông nghịt
thằng nhóc đánh giày đang rảnh vừa nhảy hithop vừa trổ tài nhặt
lá rụng
em nheo mắt nhìn trời trong bất chợt cười một mình như thể mới
phát hiện ra điều thú vị
cảm giác bình yên bị phá vỡ lúc xe cấp cứu chạy qua còi hú
ngày bỗng rần rần chuyện trên trời dưới đất
xăng tăng giá / vàng leo từng phút / máy bay giá rẻ luôn bị trễ /
tàu lửa đụng ô tô / bì heo thối
ngâm hóa chất xuất ra thị trường hàng tấn…
đài FM thông báo những con đường kẹt xe & nhắc người lưu thông
đề phòng cành cây gãy vì có lốc
đám thanh niên hiếu kỳ bu quanh chiếc xe thể thao mới nhập tán chuyện
đứa bé bưng mì rẽ vô hẻm thản nhiên gõ cốc…cốc
dửng dưng bụi bốc lên không gian cùng gió cuốn
xé toang kịch bản đầu ngày
mùa chuyển…

lâu rồi mới thấy sương mờ giăng tràn ngõ phố
bàn tay người đan nhau chờ chuyến xe đầu ngày ghé bến
những bước chân vội vàng đi / về các lối rẽ
quen thuộc đến mức nhàm
người bạn quay quắt với căn bệnh ung thư trong bệnh viện từng
phút
em liên tục nhắn tin vào bầu trời mây thấp kia hỏi trái tim
yêu thương còn nóng
nhà thơ trẻ vò đầu bứt tai sao chậm chân hơn cuốc xích-lô hai nhịp
các nhà thơ amateur ở đâu ra ngồi đầy quán tâng bốc nhau hý
hoáy ký tặng sách
trong ánh mắt chuyển mùa ông già ngồi bệt ở góc ngã tư quấn
lá thuốc đam mê sót lại
không biết ông hay đất trời này thản nhiên như chẳng có lối trở lại
mùa chuyển…

Sài Gòn,ngày trở lạnh 11.2009

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2009

Thơ Lê Ngọc Thuận

NGUYỆT NHẬT

một cuộc tình túng quẩn thiếu tháng hụ ngày
mà thời gian không chịu cho vay - cho mượn
hắn đi - hắn nhảy - hắn chạy
vẫn trong vòng bát quái
hắn đành giở cái cảnh bể hụi - mất trâu
nhịp rượu trong lòng phố chợ
có những chiếc lá vàng không phải tại mùa thu
có những kẻ yêu nhau không nhập đề - thân bài - kết luận
hắn vươn bờ vai trượng phu
ngựa không có để cầm gươm rong ruổi
dao không còn để ra chiều dọc ngang
ngồi với ngọn lửa đời cơm áo
ngó khói bay trắng toả phù vân
tội cho đôi môi mỏi mòn hảo hán
tội cho nụ hôn thất trận hàng binh
tội cho bàn tay trần truồng sự nghiệp
ôi! người đời của tạm
nhưng tình thì không thể ăn gian
chợt nhớ câu thơ chữ hán Đặng tiên sinh gửi
“nguyệt dã vô thương như nguyệt mộng
nhật lai nguyệt khứ - nguyệt phiêu bồng”
là trăng? là hằng? là nga? Là nguyệt?
đã là duyên thiện ác đâu cần
hắn nạp rượu và đợi tới trăm năm
chờ tóc vương phi xưa dài trở lại.

2009


PHẢI GIÓ

buồn cũng bị rình mò theo dõi
vui cũng bị xét hỏi điều tra
ngán ngẩm thay tháng tư ở Huế
trời cứ mưa như mưa tháng mười
tội sông Hương ngây thơ trong trắng
đâu biết ma quỷ ở đôi bờ
nước vẫn cứ vô ưu dòng chảy
trời với trăng vẫn cứ tà tà
trái tim người dụng công nghệ cao
nên nhịp đập lẫn lộn chiêm bao
mộng với thực như mây với gió
mây tan rồi gió lại về đâu?
Ta một mình tự do hơi thở
ngắn hay dài em mãi xa xôi
đâu đó giữa phố xưa đường cũ
tay em còn giỡn với mưa không?
rượu ta uống như kẻ tu hành
nhớ em theo chuông mỏ từng canh
mơ hồ thấy kiếp xưa mình đã
cởi áo nâu sòng theo bóng ai

2009

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

Tưởng nhớ NH. TAY NGÀN




NH. TAY NGÀN
và bài thơ
NỖI LIÊN ĐEN TỐI VÔ CÙNG


Nh.Tay Ngàn không phải là một tác giả quen thuộc đối với người yêu thơ vì thơ ông ít xuất hiện trên báo chí. Ông qua đời đã lâu , để lại cho đời một bài thơ tuyệt vời: NỖI LIÊN ĐEN TỐI VÔ CÙNG. Bài thơ được đăng trên báo Quê Mẹ ở Pháp vào thời gian sau 1975. Đây là một bài thơ tự do dài 255 câu, trong đó tên của người thiếu nữ, Liên, đã được ông nhắc đến trên 50 lần. Có lẽ đây là một trong những bài thơ tự do dài nhất trong thi ca Việt Nam.

Tôi có mười hai điệu Liên sầu
Mấy ngày thơ em hẹn tôi như ánh trăng
Đùa quanh tà áo em
Tôi có mười hai năm đi qua trên hơi thở
Run đau khi tiếng vạc buồn hư không
Ngày thơ Liên chờ tôi buổi nắng
Trí nhớ giống mỗi con cánh cam thương yêu
Biết kêu và biết tình ru lòng tơ mộng
Biết những bài trầm ca giấu trong quyển sách vô vi
Có là chữ Như trong đầu bồ tát
của nền không bị lãng quên
Tôi có mười hai mùa thu bị điên trong trí nhớ
Bằng kẻ đời giấu hết đồ ăn
Trong những thành phố Âu Châu đèn đổ
Nước mưa chiều cùng trận bão nội tâm
Khi Liên qua đời tôi là hình thân ảo ảnh
Khóc rất đau rồi khóc cho riêng tôi

Có nhiều điều lạ lùng nơi người thi sĩ này: cách chọn bút hiệu, cách đặt tựa đề bài thơ, số câu trong bài thơ. Ngay cả cuộc sống và cái chết của Nh. Tay Ngàn cũng lạ lùng. Ông sang Pháp du học vào thập niên sáu mươi, và một ngày kia người ta tìm thấy ông nằm chết đã hai ba ngày trong một căn gác trọ ở Paris.

Đoàn Thị Thư


Nỗi Liên Đen Tối Vô Cùng

Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
Tôi đi xa mãi tôi rồi
Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
Tan mù mù trên miệt hải ngạn
Và lớp sương mốc đổ liên hồi
Tận viễn khơi những con thuyền sôi nỗi
Lướt qua màn đe dọa khi ly hương
Giữa tôi và Liên hôm nay
Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng
Của tôi và Liên hôm nay
Khi mười hai năm xuống dần nói nhỏ
Một mùa thu trước Liên xa
Không còn gì nhớ lại nữa đâu
Những hàng sao im nguyên ngày ấy
Của con đường Trà Vinh sớm hôm
Không còn gì ru nhớ làm chi
Những đốm hoa tím tan nhoè
trước cổng nhà Liên đó
Mười hai năm thành điệu gió ngày mùa
Trên hình bóng Liên xa và xa
Như hiện thân tôi trôi và trôi
Mãi mãi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh

Tôi có mười hai điệu Liên sầu
Mấy ngày thơ em hẹn tôi như ánh trăng
Đùa quanh tà áo em
Tôi có mười hai năm đi qua trên hơi thở
Run đau khi tiếng vạc buồn hư không
Ngày thơ Liên chờ tôi buổi nắng
Trí nhớ giống mỗi con cánh cam thương yêu
Biết kêu và biết tình ru lòng tơ mộng
Biết những bài trầm ca giấu trong quyển sách vô vi
Có là chữ Như trong đầu bồ tát
của nền không bị lãng quên
Tôi có mười hai mùa thu bị điên trong trí nhớ
Bằng kẻ đời giấu hết đồ ăn
Trong những thành phố Âu Châu đèn đổ
Nước mưa chiều cùng trận bão nội tâm
Khi Liên qua đời tôi là hình thân ảo ảnh
Khóc rất đau rồi khóc cho riêng tôi
Trong số cái chết chập chờn các dãy phố đói
Mười hai năm tôi đốt bằng que diêm
Để ném hai diêm đầu về tử hận
Khi Liên rụng sợi tóc quê hương
Trong những năm chiến tranh dân tộc
Còn lại mười ngón tay buồn
Tôi giấu lửa như tên lùn giấu mưu mẹo
Cho Liên cho Liên cho Liên tôi
Dù đầu thu con chim Việt bay mất
Sau buổi chiều Liên chết bơ vơ
Sau con đường Trà Vinh ngày ấy đổ tối
Những mộng tưởng về phượng hoàng đất dương gian
Trở thành cỏ hoang trên lâu đài nến cháy
Buồn ơi khi khóc đủ trăng trong
Có riêng mình hỏi mình trên bi kịch
Của lá hoa và của tim máu loài người
Vào đợt phù du chảy u mê
Tới mấy tầng xoè móng
Có những hoạn cơn tôi không thấy trong đời
Từ khi Liên nhỏ mỗi đêm lệ xót
Khi mình chờ đợi những mặt trời xa
Mà mùa thu chính giữa đảo hoang thái cổ
Rú hoài hoài các giọng bọn khờ vay
Chính giữa chợ đời đeo bóng u ám
Những điềm linh của không hôm qua
Chỉ hiểu công đời là ăn gian sự sống
Trên của thừa tự thêm nhân gian
Những vết chim khi trời vừa sáng
Bảo nhỏ tôi và con mắt Liên xưa
Trông nhạt mù tít tắp thời gian
Để thở rồi thở như trăng đơn
Để nhớ rồi thở mau
Như dòng đời chiều tối
Một con cánh cam vàng mỗi đêm rưng
Những gì không còn dù tiếng Tâm trong uyên thức
Cho mãi mãi về sau

Rồi mùa thu đốt lá để quên tôi
Than ôi mùa thu nào tôi không là kẻ vô tội
Giữa đám đông hôm hôm
Những kỷ niệm Liên sầu đã rơi cùng lệ khúc
Trong mười hai điệu sầu thu xa
Và mùa thu đem tôi xa bến đậu
Của những thiên tài cõi đông
Giữa tôi và Liên bây giờ reo thê thảm
Ngày thơ bom lửa đã nhiều
Lớn lên để hớp toàn bệnh cuồng trí
Trong buổi muốn yêu quê hương
Như thương hoài giọng đàn sai nhịp
Đu đưa cuối bãi Cà Mau
Giữa tôi và bàn tay Liên xa xôi
Chỉ còn lại màu đèn xám trơ nơi gác trọ
Và ngày thu báo mười hai thu
Đi qua bãi dâu của Tố Như ngày rộng gió
Sau cỏ Khâu nhớ chết từng sao
Không đọng lại gì trên đất Trạng Trình nữa

Tôi có những bầu trời để giết hồn ma trơi
Nơi xa đoàn thuyền giương buổi tối
Khi chim Việt đầy mày khói đen
Tiếng hận sầu tiễn thu trên đồng thời gian đứng
Tiếng sóng cuồng đổ ập phương Tây
Tôi giấu một con rồng trên bãi không gian mun
Chờ những đoàn trẻ thơ bay qua ốc đảo
Ngày thơ Liên ước gió trời say
Lúc Liên ngủ hai tay che lấy ngực
Gió ấy cứ mùa loà đêm đêm
Than hoài những tình duyên dang dở
Ngày thơ Liên sợ bóng dừa
Đùa gió Tháp Mười sang Cửu Long đầy máu
Nhưng lửa ở tại quê nhà
Đến hôm nay gió đùa thành trò lửa mệnh
Có khi mình khóc một lần thôi
Để cả triệu lần sau kẻ thù của mình chỉ là lời vô bổ
Trong khuôn diện trả vay
Bằng muôn điều bùng đau như mộng yểu
Liên và con cánh cam đầu chớp linh hồn
Buổi mai con bọ rầy say sương nắng
Liên và bầu trời tôi ngất đi
Khi tất cả ngón tay đeo mù giây kẽm
Ngày thơ hoa tím không đòi mộng vàng
Như cơn điên Bao Tự kêu trong tiếng lụa
Liên và ngây thơ bị mưa
Đau ôi khi mặt trời đen lấm
Những hư vô vào buổi lên đèn
Có lần tôi giữ một sầu khúc không tên
Tôi nhớ cố hương khi tiếng gà réo rít
Liên và cánh dơi Trà Vinh
Xuống mịt mùng đời tôi khi con thuyền chìm trong bão
Giữ mấy phút hư vô reo lên
Lâu đài đầy qụa khoang bên vàm liêu tịch

Tôi có làm gì đâu giữa đất bọn thạo đời này
Tay tôi bỏ rơi từ tâm từ vũng nhỏ
Chợt tiếc đau ở những chiều không thần tượng
Tôi có làm gì đâu cho bản thân tôi
Chỉ còn trái tim tôi tâm sự
Ngày thu đang rụng lá nhiều hơn
Bản sầu ca không còn nàng ca sĩ cũ
Lá và nắng rơi mau
Lá và hoa mùa này đều thẫn thờ đau đớn
Tôi có lạy một chữ danh nào đâu
Trên hoạn tâm con cờ khua như chẳng cần định mệnh
Ngày thu lá cứ vàng rừng
Đoàn trẻ nhỏ say hương con rắn lục
Mai kia sợ rỗng bóng dư đồ


Rồi mùa thu áo cưới Liên đâu
Có phải chim Việt bay hoài trên màu hư không tắt
Mỗi chiều đông cuối chân mây
Gợi quê hương mình bằng đêm móng nhọn
Đổi màu trên những hình hài
Một mai lội ngang cánh hồn hoả ngục
Và muà thu may trí nhớ cho Liên
Luạ nhung hay tơ vàng Kim Tự Tháp
Với cái chết đếm rừng đêm
Heo may lùa ngang mặt cỏ
Tôi theo đó thiếp mê
Thầm gọi Liên như tóc ngày thơ tối ám
Chim Việt không về bến xuân đâu
Bởi vòng quay đổ tan lúc hư không chuyển động
Cùng mỗi vì sao giăng màn
Qua hết thảy thủy chung chẳng còn nghe thấy
Rồi mùa thu hoa rụng trên bóng Liên
Tôi độ chừng đôi bàn tay tôi là lệ ướt
Bởi lệ là lệ của Liên
Bởi lệ hồng là lệ của tình Liên
Khóc dưới vai tôi đêm nào sông Cửu vừa dứt thở
Lệ sầu tôi giấu cho tháng năm
Trời ơi lệ mình lúc ngày thơ là lệ mẹ
Rồi lệ cứ xanh xao
Rồi Liên rồi Liên rồi Liên ôi
Lệ lòng từ đây trở thành biển máu
Trong mỗi ngày mai không còn gì
Trên nỗi nhớ quê hương câm
Trong thành phố tôi đòi chỉ ca ngợi tiền bạc
Có những đời tình bị xóa vào đêm đen
Dưới con cờ và một nghìn bào thai lịch sử
Lệ rời tôi để nhớ Liên
Khi mùa thu may đầy cho Liên áo ly hương một thuở
Nhớ Liên bằng muôn hình ác mộng đóng băng
Môi se lại tơ tằm dưới đầm lầy họp mộng
Những từ tâm phượng hoàng đắp biển dư
Hôm hôm mộng tôi cùng hoang vắng
Sẽ nghĩ rất lâu bằng tình ca
Như Đạt ma rùng mình trong Phạn Ngữ
Cùng sầu điệu cửa tu Tây Tạng hống
Sẽ nhớ mỗi lần hồn Liên xanh như lục thủy
Cửa những từ tâm bay qua đất trời vàng
Nơi tiếc thương cũng là sầu vọng
Đến mái tây rêu mờ
Có hôm tôi rùng mình nhớ xác
Đã nhuốm mấy trận cuồng dương gian
Những bầu trời tôi còn lửa cháy
Kêu ran tim lúc công chúa đội đèn
Tôi ám ảnh con cánh cam trên đầu chim Việt
Nhưng lửa rủ tôi cầm lại sầu thu
Có những oan hồn nhắn tôi cuộc gặp gỡ
Nơi Liên đã khóc đêm ngày
Trong mười hai năm Trà Vinh đầy quạ
Thôi rồi Liên ơi
Có những ngày thơ Liên ao ước
Quạ trời lợp ổ đầy không gian
Chính phút đớn đau tôi chỉ là cơn gió độc
Quên luôn một sớm trở về
Có Liên và có Liên giữa nắng
Nhưng hôm nay hoa nổ móng tay
Khi con người mình bắt đầu nơi Tam Tạng
Rằng biển dư chẳng thể mộng bao giờ
Nơi đất tâm linh để lại toàn sắt thép
Bởi động huyền vi lún lúc mùa thu rơi
Sau cánh bay rũ riệt
Tôi và Liên một ngày dài
Cánh cửa quê hương đầy vết đạn
Năm nào tối mịt ba mươi
Hoa mai trên cổ Liên thành mùi gió vọng
Xa xa đảo lạ vô hình rồi
Tôi chúc Liên như mặt trời vừa nhận ra tuổi tác
Ngày sau mùa thu bị chết với lá vàng
Bước Liên về bảo rằng tình hoài hương ở trong trí tưởng
Một xưa tôi mong đợi phượng hoàng về đời
Nẻo tình ca cỏ non làm hơi thở
Nhưng đèn vừa rủ xuống mê
Tôi thấy con trăng không cần nói ra ngày giao thừa đất mẹ
Trên mấy phương Tây hao mòn
Tôi còn gọi ra hình ảnh Liên lúc mê man
Tiếng đập cửa dầu là tử thần cuồng nộ
Đêm đêm trăng xẻ đời lệ châu
Tưởng lệ huỳnh bắt đầu lên bóng
Tôi con trăng đêm đêm mùi sa đoạ
Mà mùi quê hương con nít ré đau
Giữa khuya con cánh cam lo buổi mai cơn đói khổ
Trong tim trong não trong hồn
Trong trận huyền bí bắt đầu bằng định mệnh
Và mùa thu làm thành bọng tối loài người

Mộng ngày rũ rượi đó Liên
Ước áo vàng sẽ về đây thành cội rễ
Mấy phôi pha làm lại nước huyễn châu
Tôi có mười hai năm bỏ đi như diêm quẹt
Để hồn Liên là bóng Liên tôi
Để ngày thu tôi đợi chờ Liên viết thư bằng mực tím
Nói thương nói nhớ nói nhớ nhớ anh
Trên giải đất đầy mùi chuột chết
Và tình Liên là mối lặng im chờ
Mộng người đổ máu như tôi thôi
Đến chiều hôm con qụa Tây Phương kêu kêu mờ mịt
Trên mối sầu viễn lưu
Tôi đốt tôi ru tôi buồn tôi khóc
Tôi âm thầm tôi cháy nám riêng tôi
Ngày tôi đi Liên ôi tôi đi để chết
Với một mặt trăng tôi giấu đợi tuổi già
Như cánh tay Châu Âu nện mòn nước nhược tiểu
Bằng hư vô bằng vô nguyên với hôn mê
Những mộng đời tôi xé vừa tan
Con trăng từ đây chỉ hiện hình hoang cổ
Cho phút sầu ca bi lệ làm đau
Ngày tôi đi tới hôm nay Liên chết
Đất Trà Vinh mưa xuống mãi tận đầu
Có hay không lúc mình chỉ cầm bằng vô vọng
Mộng đời xưa cũ ấy Liên ơi


nh tay ngàn

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2009

Thơ Nguyễn Ngọc Tư

Hỏi đường

Những ngày lang thang trên đất lạ, với tấm bản đồ rách rã, đôi khi tôi phải dừng lại hỏi đường. Ông ơi, lối đi này dẫn tới đâu, cháu muốn tới những thung sâu những bãi cỏ buổi sáng từng là chợ, ông già im lặng và ngón tay gầy quắt, vẽ cho tôi một con đường

Những ngày hoang mang trên đất lạ, một mình, tôi hỏi những em bé gầy gò, lem luốc
em ơi, đi lối nào tôi sẽ đến đỉnh ngọn núi kia, để nhìn dòng sông kẻ một chân mày nơi đáy vực. Những em bé ngó nhau, lời ngọng ngịu trên môi vạch cho tôi một con đường.

Những ngày phiêu lưu trên đất lạ, tôi hỏi những cô gái tỉa bắp bên đường, chị ơi ngã nào thì tới cánh đồng, bầy dê nhỏ vùi mặt vào cỏ rối, bên lối đi nhiều hoa dại, lúa xỏ mầm qua đất, xanh non. Những cô gái gạt mồ hôi, ánh mắt cười lung linh trao cho tôi một con đường.

Những ngày rong ruổi trên đất lạ, tôi một lần dừng chân lại hỏi con đường, lối nào sẽ dẫn đến người.
Đường im lặng đi lên đồi mải miết, người ngốc ơi, chỉ cần dừng chân lại, sẽ thấy người.
Khúc hát rời Nho Quế

Sông chiều
nhiều nắng mỏng
giang hồ ngồi nhớ xa xăm quê nhà…
*
Cầu nát
Tôi ở bên bờ ngơ ngác
Lòng đục nghẹn ngào trước nước quá trong
Lũ trẻ chăn dê thản nhiên qua sông
*
Em vớt củi giữa dòng
váy em ướt đẫm
phơi củi bằng nắng,
váy lay gió rồi khô,
em hong phận người thương khó bằng gì?
*
Người lẻ bảy ngày ngồi đây muốn khóc
Sông chảy một mình giữa đá, buồn không?




Về quê…

Thằng bạn tôi, thằng bạn bụi bậm, thằng bạn giang hồ của tôi về nhà.
Tôi không biết nhà nó ở đâu, nghe nói có một ngọn đèo, có cây, có cỏ, có khói toả lên từ những mái nhà dưới thung.
Đứa tinh quái, nhiều ý tưởng mới lạ, nhưng nói về quê mình thì cũng chỉ ba từ “đẹp mà buồn”.
Giống cái cách người đời khi kể về quê của họ.
ở quê nó có một bầy em nhỏ. Đứa ngoan đứa không ngoan. Về quê là nghe mẹ trách ba, ba trách mẹ, em này méc em kia. Ngơ ngác xử phân mà đằng nào đúng cũng xốn xang.
Về quê thấy có bầy dê mới, góc cột thêm một ổ mối, cây ổi vườn sau bị gãy mất nhánh rồi. Không có vẻ gì chờ đợi người lang bạt.
Chái sau nhà đã lợp thêm mà không đợi.
Cỏ trên đồi không đợi, mịt mùng xanh.
Hoa bên rào không đợi, đã nở, cũng vừa xong nát rữa
Láng giềng không đợi, đi mua rượu cho chồng, chân rối vào chân. Tay níu chặt cái chai và chiếc nón loay hoay nửa như giấu đôi má rám nửa muốn che vồng ngực chảy não nề. Bên xóm có người về…
Trẻ con không đợi, cứ lũ lượt ra đời, khóc rạn cả một vạt chiều lơi nắng.
Chỉ mẹ đợi bạn về để nói: “ba mầy lúc này suốt ngày say…”.
Chỉ ba đợi bạn về để hỏi: “mẹ mầy đã cạn tình yêu…”.
Chỉ những đứa em đợi bạn về để khoe vết chém còn mới trên vai, “Thù này quyết trả…”
Đứa em gái níu tay anh thầm thì, “anh ơi, môi chạm vào môi thì có con không?”
Bạn tôi mỉm cười.
Cỏ trên đồi đã từng qua mùa cháy.
Xanh xanh.



NGUYỄN NGỌC TƯ

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Lời cám dỗ dịu dàng

những ngày này có cơn mưa đêm
vào hai ba giờ sáng
không ngủ được với mùa
mưa chưa qua
mùa nào chưa hề bước tới
lời cảm ơn chia tay
nhẹ như một điệp khúc

ngồi ở gần đầu cầu
chờ bạn
buổi chiều lâm thâm những hạt
mưa mùa chưa qua
vẫn còn khúc hát đệm cuối
dịu dàng
lời cám dỗ
hãy ở lại đây
mưa mùa chưa qua
tình yêu bắt đầu lại từng ngày như hơi thở
không thiếu được

những ngày này thường có cơn mưa đêm về sáng
đều đều như lời kinh dịu dàng cám dỗ
mưa mùa chưa qua sao



Nỗi cô đơn

Những con đường ôi những con đường giống nhau
Mỗi ngày đi qua ôi mỗi ngày thường giống nhau
Sao chỉ có tình yêu không giống em – nhỏ nhẹ âm thầm
Tình yêu em rực rỡ và náo động
Xáo trộn những con đường đi qua mỗi ngày
Cơn bão ngầm âm ỉ

Mấy lần đi một mình trên con đường này nghiệm nghĩ ra rằng không biết em có thật
Có những lúc khắc khoải và nhớ tha thiết về một hình bóng mờ ảo trong trí tưởng
Như để nhặt lấy hư vô
Nhai nhuyễn một niềm vui bất chợt

Có những con đường giống nhau và không giống nhau
Mỗi ngày qua cũng không giống ai
Đùa nghịch với nỗi buồn độc địa

Nỗi cô đơn đã nhuộm màu
Mỗi ngày khoác một chiếc áo mới

TỪ HOÀI TẤN

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009

LÊ VĂN NGĂN - Thơ về Mẹ


NHÀ CŨ

Chuyến tàu thường đến sân ga dưới nền trời sao khuya
lúc thành phố quê hương anh nằm ngủ dưới ánh đèn yên lặng
Anh mang nỗi cô đơn của đứa con lâu ngày xa cách
một mình đi tiếp chặng đường dài .

Mẹ ơi, Mẹ ơi
anh thường gọi to trước căn nhà cũ
và bỗng nhiên, từ bóng tối mênh mông
có tiếng người thân yêu vội vàng đáp lại
có tiếng cánh cửa vội vàng bật mở
có ánh sáng vội vàng dậy lên cây lá quanh vườn .

Mẹ ơi, Mẹ ơi
anh sợ sẽ đến ngày anh gọi to như thế
nhưng dưới lòng đất , mẹ anh không thể nào đáp lại.
Bấy giờ , xin quê hương thân yêu đừng quên đưa tay choàng lấy một người con
để trái tim anh bớt phần lạnh lẽo .



TRONG ĐÊM


Trong đêm, người mẹ khẽ hỏi mỗi bài thơ con kiếm được bao nhiêu tiền
và người con trai trả lời tiền chỉ đến với con sau mỗi bài thơ hay
sau khi đã ghi lại nước mắt nụ cười và niềm hy vọng của quê nhà.

Trong đêm, người mẹ khẽ hỏi mỗi ngày con làm được bao nhiêu bài thơ hay
và người con ngồi lặng im mãi bên ngọn đèn
và cuối cùng anh ngập ngừng đáp: có lẽ cả một đời mẹ ạ .


Trong đêm người mẹ thở dài
thế thì con của mẹ sống bằng gì ?
chẳng lẽ con của mẹ chỉ sống bằng niềm vui của người khác ?
chẳng lẽ con của mẹ chỉ sống bằng việc pha loãng nỗi buồn của người khác?
chẳng lẽ mẹ sinh con ra
để con đi trên chặng đường đời khúc khuỷu vậy sao?


Trong đêm, người thi sĩ ôm lấy vai mẹ như thời còn thơ ấu
và bảo xin mẹ hãy nhìn chặng đường khúc khuỷu phía triền đồi
nơi ấy , bông hoa thường nở thắm tươi sau mùa đông tận.



THƯ GỞI MẸ VÀ NHỮNG NẮM TRO TÀN

Con đã nhiều năm nhìn thấy nắm tro tàn trong căn bếp của mẹ
Trước khi nằm nguội lạnh và lặng im ,
tro tàn đã là ngọn lửa ấm dưới nền trời giá rét
đã giúp mẹ nấu các thức ăn để bán kiếm tiền
đã giúp con áo cơm sách vở .
Từ ngọn lửa và nắm tro tàn, con đã bước lên đường đời
gặp núi sông rộng lớn
gặp những người bạn thân và người thiếu nữ của mối tình đầu .

Sau nhiều năm cách xa, con lại trở về bên căn bếp của mẹ
bên nắm tro tàn nằm nguội lạnh và lặng im
Mẹ đã qua thời thanh xuân ơi, xin mẹ đã đến lúc ngồi nghỉ
con sẽ thu vén gọn gàng nắm tro tàn của ngọn lửa vừa qua
như thu vén kỷ niệm một người đã từng giúp mẹ con chúng ta sống sót .


Mẹ đã qua thời thanh xuân ơi, xin mẹ đã đến lúc ngồi nghỉ
con sẽ đem tro tàn đặt dưới gốc hoa
và hoa sẽ ra bông trong tiết lập xuân sắp đến
và mẹ sẽ ngồi ngắm nhìn thầm nhủ : tro tàn cũng làm nên vẻ đẹp .



MẸ, CON VÀ NGỌN ĐÈN DẦU


Bóng đêm còn dày đặc chung quanh mái nhà
người con trai thắp lên ngọn đèn dầu và gọi mẹ ơi
Mẹ ơi, thức dậy đi mẹ

nồi nước bún con đã nấu sôi xong
những người thợ dệt đi làm sớm đang chờ bữa sáng .

Trong đêm, người mẹ gánh gánh hàng qua xóm nhỏ
và người con trai cầm ngọn đèn đi trước dẫn đường
Dưới mưa phùn, người mẹ mỉm cười
thầm nghĩ những ngày sắp xuân hàng bán đắt hơn những ngày bình thường
đứa con trai sẽ có thêm chút tiền ăn học
mái nhà sẽ sáng lên vài cành hoa mới .

Dưới mưa phùn, người mẹ mỉm cười
nhưng người con trai chợt rưng rưng nước mắt
Chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ qua đời
và anh sẽ không còn cầm ngọn đèn dẫn mẹ gánh gồng kiếm sống
Bấy giờ, trong vũ trụ mênh mông
anh biết tìm mẹ ở nơi nào .

Bấy giờ, ngọn đèn đã từng soi đường cho người sống
sẽ được đặt lên phía trên mái đầu người chết .


LÊ VĂN NGĂN
(Trích "Viết Dưới Bóng Quê Nhà")

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2009

Thơ Từ Hoài Tấn

Chào tháng chạp

Những chuyến tàu rời ga vào sớm mai có chút hơi sương ẩm ướt
Những cái bắt tay vội vàng sau ly cà phê nơi sân ga
Một năm sắp qua
Chào tháng chạp

Đem về cho em những mộng mị buồn
Căn nhà ngõ vắng
Người đàn ông năm ngoái đã ra đi vào mùa này
Không để lại tin nhắn
Đã đem về cho em người phụ nữ lòng giá băng
Anh mãi mãi đứng ngoài khuôn cửa
Chào tháng chạp

Tôi đi dọc đường tàu chờ chuyến sớm mai
Rời xa thành phố này
Như người đàn ông đã lìa em ra đi
Trong những ngày tháng chạp




Ngồi quán cuối năm

Ngọn gió heo may sáng nay
Báo hiệu mùa xuân sắp về
Thành phố bắt đầu mặc áo khoác
Không gian khô
Bạn bè trò chuyện một năm sắp qua
Tách trà ấm
Chiếc lá khô nhẹ nhàng rơi bên ngoài sân
Nụ cười người đàn bà không tuổi

Cùng ngước nhìn lên bầu trời hôm nay
Những đám mây không đem tới cơn mưa mùa đã hết
Và mùa Xuân sẽ về
Men nồng như năm trước

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Thơ Hoàng Lộc

về tờ thư viết tay

em viết thư tay gửi đường bưu điện

thư phải đi qua mấy trời mấy biển
đi lâu ngày rớt bớt chữ nào không
sao đến tay anh bao bì nhẹ tưng ?

thư thì mỏng mà tình kia quá nặng
thư đã biết anh từng đêm thức trắng
thời điện thư lại chờ cánh thư tay
bao nhiêu mặn nồng đường bộ, đường bay

em viết cho anh thư tròn mặt giấy
mà nghe đâu viết nháp mấy mươi tờ ?
ai viết thư tình rồng bay phượng múa
em viết thư tình quá đỗi gà bươi ...

anh cầm thư em nhớ nhà ghê lắm
bởi thư không chứa hết một quê nhà
nét chữ nhỏ cứ trồi lên trụt xuống
như nỗi niềm dằn xóc những ngày xa

tình cũng thương em lần đầu nắn nót
từng chữ o tròn mỗi nụ môi hoa...

2009
hoàng lộc

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009

MỘT KHÚC CUỐI THU

Sáng nay khi đi xe trên đường
Chiếc lá rơi từ đâu đó
Chợt nhớ mùa thu qua
Hình như đã qua lâu
Mình không hề biết
Ngoài những tất bật của cuộc đời
Ngày nào cũng vậy, đi trên con đường này
Người và xe tấp nập
Nhịp sống lăn tròn
Như trái đất vẫn quay từng giây từng phút

Tình yêu vẫn được nuôi dưỡng như nụ cười
Như khúc hát thanh xuân nồng nàn tuổi trẻ
Một chút mây trang sức cho bầu trời hôm nay
Để thấy không gian mùa thu dịu nhẹ

Em vẫn được yêu như một người tình
Mới tinh mùa hò hẹn
Dẫu trời cuối thu ngoài kia có những chiếc lá vàng rơi xuống bên vệ đường
Vẫn được nghe trong tiếng nói ấm áp và ngọt ngào của những ngày hương mật
Yêu em


TỪ HOÀI TẤN

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009

Truyền Thuyết Về Cây Đàn Guitar

Ngày xưa có một cụ già và người con gái sống ở miền Nam Tây Ban Nha trong một ngôi nhà gỗ. Thời đó, cụ già nổi tiếng là một người thợ mộc giỏi, có người còn nói cụ là người thợ mộc tài danh nhất!Con gái của cụ tên là Citra. Nàng có giọng hát tuyệt vời có một không hai. Mỗi lần nàng cất tiếng hát, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, giọng hát của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ. Dân chúng khắp miền Nam Tây Ban Nha thường tìm đến yêu cầu nàng hát mỗi khi có dịch bệnh phát sinh.Một đêm mưa bão, có người gõ cửa ngôi nhà gỗ của cha con nàng! Họ mở cửa. Đứng trước ngưỡng cửa là một bà già khốn khổ, áo quần tả tơi ướt đẫm. Bà già lạnh cóng, cơ hồ đứng không muốn nổi. Hai cha con vội vàng nhóm bếp lò và mang quần áo khô cho bà cụ, rồi cho bà uống sữa nóng với mật ong cho lại sức. Sáng hôm sau, khi bà cụ đã hồi sức, bà cho Citra biết cụ có một cô cháu nội đang ốm nặng sắp chết vì mắc phải một căn bệnh lạ kỳ khiến mọi lang y đều bó tay. "Đó là lý do một bà già như lão phải lặn lội cả tháng trời đến đây gặp cô, Citra ạ, chỉ để cầu xin cô cứu cháu nội tôi".

Và bà lão ngồi hàng giờ kể cho Citra nghe về cô cháu. Càng nghe, Citra càng cảm thấy gần gũi, gắn bó với cô gái đáng thương chưa quen biết như thể đã thân thiết tự bao giờ. Hôm sau, nàng cáo từ cha già để theo bà lão đi cứu cô cháu bằng chính giọng hát của nàng. Người cha nhờ hai người bạn đi theo hỗ trợ và sau mấy tuần lễ họ đã đến một ngôi làng ở Asturias. Cô cháu của bà cụ đã ngất lịm, thoi thóp gần chết. Citra liền cất tiếng hát. Chưa bao giờ trong đời mình nàng hát hay đến như thế! Nàng hát mãi không thôi... cho đến ngày thứ ba thì cô gái mở mắt tỉnh dâ.y. Cô gái đã được cứu chữa!Nhưng trên đường về, một trận bão tuyết trên vùng núi lạnh đã chôn vùi Citra và hai người bạn già đồng hành.Khi bão đã tan, may sao một đoàn người bắt gặp Citra vùi sâu trong tuyết và lạnh cứng như chết. Họ đã cứu nàng và đưa về với người cha già. Citra thoát chết, nhưng vì thanh quản đã bị liệt vì tuyết lạnh, nàng không bao giờ còn cất tiếng hát được nữa. Thế là nàng trở nên u sầu, lúc nào cũng đắm chìm trong một trạng thái ưu uất đáng sợ...Nóng lòng muốn cứu con gái, người cha bỗng nhớ ra mình còn một súc gỗ hồng trong nhà kho chứa đồ làm mộc của mình. Thế là ngày ngày ông cụ hết chăm lo cho Citra lại đục đẽo trong nhà kho âm thầm làm một món quà cho con gái. Ông cưa gọt cả năm ròng và cuối cùng hoàn thành một thứ nhạc cụ lạ kỳ nhưng xinh đẹp mang hình dáng một người thiếu nữ. Sau đó ông nhờ những người thợ săn trong làng săn về cho ông hai con nai. Một con lớn, ông lấy gân chân căng ra làm những sợi dây trầm; còn con tơ, ông ấy gân căng làm những dây bổng. Khi cây đàn hoàn tất, ông đứng trước cửa nhà vuốt ngón tay trên những sợi dây đàn gân thú. Một chuỗi âm thanh sâu lắng, quyến rũ ngân rung...Lần đầu tiên, từ khi bình phục, Citra bước ra ngưỡng cửa tìm xem những âm thanh thần tiên ấy phát ra từ đâu. Người cha trao cho nàng cây đàn độc đáo ấy. Citra nâng đàn lên và bắt đầu dạo nha.c. Tiếng đàn bay bổng...Dân chúng khắp miền Nam Tây Ban Nha tìm đến xem chiếc đàn lạ lùng ấy. Mỗi lần nàng cất tiếng đàn, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức...Đâu chỉ có thế, tiếng đàn của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ như tiếng hát của nàng ngày trước. Dân chúng thường tìm đến yêu cầu nàng đàn mỗi khi có dịch bệnh phát sinh....Cái tên Citra dần lan truyền khắp thế giới và cây đàn đã được đặt theo tên nàng cũng được mô phỏng ở khắp nơi. Ở Ấn Độ, cây đàn của nàng được gọi là đàn Sitar (hay Chitar), ở Ý nhạc cụ này được gọi là Chitarra. Một số nơi khác, chữ “C” được đổi thành chữ “G” và thế là ngày nay ta có đàn Gitara ở Tây Ban Nha, đàn Guitare ở Pháp, đàn Guitar ở Anh-Mỹ, và đàn Ghi-ta ở Việt Nam.


Theo Internet

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2009

Hương Vị Món Huế

Ẩm Thực Cung Đình Huế

Nói đến ăn uống xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đình, một phong cách ẩm thực được hình thành để phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong hơn một thế kỷ đóng đô ở đây. Có thể nói đó là đỉnh cao của nghệ thuật ăn uống Việt Nam nhưng chưa hẳn đã tiêu biểu cho phong cách ăn uống của dân tộc.
Theo số liệu thống kê gần đây, Việt Nam có khoảng 1.700 món ăn, trong đó riên vùng đất Thừa Thiên Huế có tới 1.300 món. Điều đó cho thấy ẩm thực Thừa Thiên Huế nói chung và ẩm thực cung đình nói riêng rất đa dạng và phong phú. Các món ăn cung đình không những phong phú chất dinh dưỡng, ngon miệng mà còn được trình bày rất cầu kỳ, đẹp mắt. Từ thời Minh Mạng trở đi, vấn đề ẩm thực trong hoàn cung bắt đầu được tổ chức quy mô và chặt chẽ. Mỗi bữa cơm vua có tới 50 món ăn, một món ăn do một đầu bếp trong đội ngự viện phụ trách (khoảng 50 người chuyên lo nấu ăn cho vua mỗi ngày). Đối với các yến tiệc cung đình, vào những dịp hưng quốc, đại khách, lễ đăng quang, lễ sinh nhật nhà vua (hoặc hoàng thái hậu, hoàng hậu, hoàn tử, công chúa…), thiết đãi tân khoa, tiếp thần sứ nước ngoài…, các vua triều Nguyễn thường tổ chức yến tiệc tại điện Cần Chánh. Từ thời vua Khải Định trở đi, yến tiệc được tổ chức tại điện Kiến Trung, sau này có lúc vua Khải Định tổ chức ở cung An Định – cung riêng của vua nằm bên bờ sông An Cựu.
Theo sách Đại Nam hội điển sự lệ biên soạn dưới thời nhà Nguyễn, thì Quang Lộc Tự là cơ quan lo việc cỗ bàn của triều đình, gồm cỗ cúng trong những ngày lễ trọng đại, cỗ yến cho các quan hay tiếp sứ thần Trung Hoa, và ban yến các cho các vị tân khoa đỗ tiến sĩ. Cỗ bàn thường được chia thành các loại: Cỗ hạng lớn gồm 161 phẩm vị, Cỗ ngọc soạn có 30 đĩa, Cỗ quý có 50 phẩm vị, Cỗ điểm tâm có 12 vị. Ngoài ra còn có cỗ chay để cúng ở các chùa, hạng nhất có 25 món, hạng hai có 20 món... Các món ăn được quy định cụ thể và định giá tiền từng loại cỗ, vì vậy ta có thể thống kê qua tên gọi các món ăn. Nếu như vua chúa phương Tây và Trung Hoa thường lấy săn bắn làm thú giải trí vương giả, và sự xuất hiện của thịt thú rừng trên bàn tiệc của các lãnh chúa vương công là chuyện thường xuyên, thì ta thấy nổi lên một điều khác biệt là vua chúa Việt Nam ít ăn thịt thú rừng. Thịt dã thú chỉ thấy trong cỗ cúng với số lượng rất hạn chế: hươu, lợn rừng, công, tê tê, vịt nước, đuôi cá sấu... Hàng năm, trước ngày giỗ 12 hôm, các đội lính săn gồm 300 người và 100 con chó săn được bủa đi săn thú rừng, tối thiểu mỗi kỳ phải săn được từ 10-20 con. Quả là một con số khiêm tốn.
Ta còn có thể biết cách ăn uống ở cung đình qua những sản phẩm mà triều đình quy định cho các địa phương cúng tiến hàng năm theo mùa. Điểm lại các sản vật cung tiến được ghi trong sách xưa, ta thấy hầu hết chỉ là những hoa quả thông thường được trồng ở các địa phương như: dừa ở Vĩnh Long, Định Tường, xoài Phú Yên, bòng bong Quảng Nam, cam đường Thanh Hoá, Hải Dương, vải Hà Nội, mắm rươi Ninh Bình, Nam Định, lê Cao Bằng, Tuyên Quang. Tỉnh phải nộp nhiều thứ nhất là Quảng Bình thì cũng chỉ là dưa hấu, bột hoàng tinh, tương đậu, rượu dâu, thịt cửu khổng khô (ruột một thứ sò lớn ở biển). Chẳng qua đấy là những đặc sản địa phương, có thể thu hoạch một cách dễ dàng, không phải mất công khó nhọc lên rừng xuống biển tìm kiếm như xưa kia người Việt phải làm để cung tiến cho triều đình Trung Hoa.
Nói như vậy không phải trong hoàng cung không có những món ăn cầu kỳ. Theo lời người già trong hoàng tộc kể lại thì có một món ăn lạ là "sâu mây". Đây là một loại ấu trùng sống trong thân cây mây mọc trên rừng. Người ta chặt mây, lấy những con sâu đó về, đem thả vào ngọn cây mía trồng trong vườn. Con nhộng đục thân mía để ăn. Chờ đúng ngày nhộng vừa lớn mới chẻ cây mía ra, lấy nhộng làm thức ăn. Ngoài ra còn có một loại thức ăn được vua chúa nhà Nguyễn ưa thích, đó là con đuông, một loại ấu trùng sống trên ngọn cây dừa, vì vậy mang vị ngọt của cùi dừa. Muốn lấy con đuông phải chặt cả cây dừa, chỉ những vùng trồng dừa ở miền Nam mới lấy được. Đuông hẳn là một món ăn quý, chẳng thế mà hình ảnh và tên của nó đã được khắc trên Cửu đỉnh trước Thái Miếu của kinh thành Huế với cái tên "hồ da tử". Còn theo những người già kể lại thì các bữa ăn hàng ngày của ông hoàng bà chúa trong cung không khác những bữa ăn của dân thường là bao. Món ăn được ưa thích của mẹ vua Bảo Đại vẫn chỉ là cá bống kho, canh cá óc mó, canh rau dại nấu với tôm...
Vào đầu thế kỷ này, một vị phu nhân trong hoàng tộc đã ghi lại những món bà thường ăn để truyền lại cho con cháu học theo. Tập sách mỏng có tên là Thực phổ bách thiện giới thiệu 100 món ăn theo thể văn vần. Điều khiến ta ngạc nhiên là những món ăn đó không khác mấy so với món ăn dân dã. Tạm làm một thống kê thì thấy thịt thú rừng chỉ chiếm 4%, trong khi đó thịt nói chung chiếm 17%, gia cầm chiếm 9%, tôm cá 28% chiếm tỷ lệ cao nhất. Nếu tìm những món lạ và đắt tiền như vi cá, hải sâm, yến sào... thì chỉ có 5%. Ngược lại những món ăn bình thường như rau dưa chiếm tỷ lệ cao là 28% và các thứ mắm chiếm 14%.
Tuy nhiên, cái khác cơ bản ở đây chính là cách nấu nướng sạch sẽ, thực phẩm có chọn lọc hơn và đặc biệt là cách trình bày đẹp và tinh xảo. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét rằng người Huế ăn bằng mắt, bằng mũi trước khi ăn bằng miệng. Tỷ dụ như các thứ rau, dưa được tỉa thành những bông hoa, rau muống ăn sống phải chẻ nhỏ như sợi bún, bánh đậu xanh được nặn thành hình trái cây với màu sắc như thật, chả thịt lợn kết hợp với rau củ xếp thành hình công, phượng với tên gọi "nem công, chả phượng".
Phong cách ẩm thực cung đình ngày nay đang được tái hiện trong những thực đơn của khách sạn và nhà hàng ở Huế. Du khách có thể tới nhà hàng Tịnh Gia Viên của nghệ nhân Tôn Nữ Hà để tìm lại hình ảnh của những bữa ăn cầu kỳ trong khung cảnh vườn cây của các dinh thự xưa. Đến 15 Tống Duy Tân để chiêm ngưỡng những bông hoa hồng, hoa cúc sống động như thật do nghệ nhân Hương Trà làm từ bột đậu xanh. Nhưng để thưởng thức không khí đích thực của chốn hoàng cung thì hãy tìm đến phủ đệ xưa của cung An Định. Nơi đây, hình ảnh buổi dạ yến xưa được làm sống lại, khiến du khách như được sống trong khung cảnh thực của một đêm mùa thu xứ Huế, nhưng lại mang không khí hư ảo của một thời xa xưa.
-------------------------------------------------

Cơm Trái Dừa Món Ăn Cung Đình Huế

Muốn làm thứ cơm này phải dùng loại gạo ngon nấu với nước dừa nạo. Cơm sau khi nấu chín được trộn với thập cẩm như lạp xường, tôm, đậu petit-pois, thịt heo và chả Huế.
Trước khi ăn dùng trái dừa xiêm (dừa nạo) vạt miệng đổ nước ra (nước dùng để nấu cơm), cho cơm thập cẩm trộn sẵn vào trái dừa. Sau đó đem hấp cách thủy, cho nóng lên, khói bốc nghi ngút. Khi ăn dùng nĩa, xúc trực tiếp vào trái dừa, ăn với nước chấm tương ớt. Khi hấp cách thủy, cơm dừa vẫn để nguyên trong trái dừa, nhằm làm tăng độ thơm và cả chất béo của cơm.
Trong cung đình, cơm trái dừa được hấp cách thủy bằng loại dừa xiêm có trái thật nhỏ, chứa khoảng 1 bát cơm nhỏ. Khi món ăn này ra khỏi cung đình, trở thành phổ biến, người ta chọn trái dừa xiêm lớn hơn vì ngoài mục đích thưởng thức ra, còn dùng để ăn cho đủ no.
Cơm trái dừa được nêm nếm vừa ăn trước khi đem đi hấp, do đó khi ăn không phải dùng thêm nước chấm. Ngoài ra nếu khách không muốn ăn cơm dừa thập cẩm, có thể yêu cầu tiệm cho vào cơm những món ăn mà mình ưa thích như lạp xường, tôm, thịt heo hoặc chả Huế.
Ăn từng muỗng nhỏ, nhai chậm rãi để thưởng thức được mùi vị của món ăn cung đình này. Nó có mùi thơm của nước dừa xiêm, ngọt, béo, hạt cơm bóng mượt. Cái thú khi ăn cơm trái dừa là ăn trực tiếp trên trái dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.
-------------------------------------------------

Bát Trân Trong Ẩm Thực Cung Đình Xưa

Miếng ăn, thức uống của vua chúa không những phải ngon, đẹp, tinh, giàu chất dinh dưỡng mà còn
mang tính chất y lý trong từng nguyên liệu sử dụng để đạt được sự trường thọ cho người ăn.
Bát trân là 8 món ăn quý hiếm mà xưa kia chỉ dành cho giới vua quan. Bao gồm:
1 - Nem công: Nem là món ăn đặc biệt của người Việt được chế biến không qua nấu nướng. Thực phẩm tự chín bằng sự lên men vi sinh do tác động của các gia vị có tính nóng (riềng, tỏi, tiêu...) phối hợp vào nguyên liệu chính là thịt đùi công được giã mịn.
Công là một loài chim có bộ lông đẹp, thường sống ở các cây cao hoặc gò cao. Đến mùa giao tình thường xòe cánh múa vũ điệu để gọi bạn. Con người rất thích thưởng ngoạn các vũ điệu ấy. Việc săn bắt công để cung cấp thịt hàng ngày phục vụ chế biến thức ăn không phải dễ dàng. Thịt công có tính giải độc. Khi ăn nem công, thịt công hấp thụ vào máu có khả năng giải các thứ độc tố mà người lỡ ăn phải. Chính đây là điều then chốt để hiểu vì sao nem công lại là món ăn quý.
Như trên đã nói, tính mạng của các bậc đế vương luôn được đặt hàng đầu. Việc tranh giành ngôi báu khiến con người cố sát, đầu độc nhau trong lịch sử của nhiều triều đại không phải là không có. Do đó, món ăn này được xem như "thần hộ mạng".
2 - Chả phượng: Chim phượng là chim đực. Chim cái được gọi là hoàng. Loài chim phượng chỉ sống ở núi cao, ít người trông thấy. Thịt phượng được giã mịn, nêm gia vị, gói vào lá chuối thật kín rồi hấp chín. Cũng như chim công, thịt chim phụng vừa có chất dinh dưỡng, vừa có tác dụng dược tính nhằm bảo vệ tối đa sức khỏe.
3 - Da tây ngưu: Loại thú tây ngưu hay còn gọi là tê ngưu chỉ sống ở trong các rừng sâu, ăn toàn loại cây cỏ có gai. Hình dạng tây ngưu rất xấu xí. Người xưa kể rằng, mỗi khi ra suối uống nước, tây ngưu nhìn xuống suối, thấy bộ dạng mình xấu xí quá, con vật hổ thẹn quậy cho nước thật đục rồi mới uống. Da tây ngưu cứng, dày, duy nhất ở nách có một đám da rất mỏng. Nếu biết bắn hay đâm vào điểm ấy mới làm con vật chết. Phần da nách ấy, ngâm nước cho mềm, nấu thành món ăn rất ngon và bổ dưỡng.
4 - Bàn tay gấu: Gấu đực gọi là bi, gấu cái gọi là hùng. Thú vật này có cổ dài, chân cao, đi được bằng hai chân. Gấu có sức mạnh, có thể dùng hai chân trước khuân cả tảng đá lớn. Chúng rất giỏi leo cây, thích ăn mật ong ở các tổ trên cành cao. Lúc đói hoặc lúc trú đông, gấu có thể ở trong hang không ra ngoài, không có thực phẩm thì chỉ liếm bàn tay (hai chân trước) để sống. Bàn tay gấu là một món ăn rất ngon và bổ dưỡng.
5 - Gân nai: Loài nai lớn hơn loài hươu. Giống nai đực có gạc. Nai ưa sống ở núi. Vào tiết hạ chí, nai đực thường rụng sừng. Sừng non của nai gọi là lộc nhung, là một vị thuốc tráng dương, bổ thận, tăng sinh lực, nhưng phải biết cách bào chế và sử dụng. Gân nai lại được dùng để chế biến món ăn, rất ngon.
Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Cho giò vào nước luộc mềm. Dùng dao nhọn xẻ tách gân ra khỏi phần bắp thịt. Cho gân nai vào phiêu trong nước có ít muối và dấm cho trắng. Khi gân đã mềm, cắt khúc, hầm chung gân nai với các nguyên liệu: tôm khô, măng củ đậu, chả lụa... trong nước hầm gà đã lọc trong veo. Nêm gia vị vừa ăn khi các nguyên liệu đã chín mềm.
6 - Môi đười ươi: Đười ươi là một giống khỉ lớn, có thể đi bằng hai chân như người. Theo sách An Nam chí thì đười ươi chỉ ưa sống trong hang núi, không bao giờ đi theo một đường nhất định. Muốn bắt được đười ươi, con người phải lừa đặt be rượu và các đôi dép da trên đường chúng đi qua. Giống đười ươi hay bắt chước nên uống rượu rồi mang dép như loài người mà nó đã từng thấy. Lúc này chúng vừa say vừa đi xiêu vẹo, người săn thú mới dễ dàng bắt được.
Môi đười ươi ngon, dùng chế biến các món sơn hào dâng vua chúa. Ngày nay, giống thú này rất quý hiếm, cần phải ra sức bảo vệ.
7 - Thịt chân voi: Voi là loài vật to nhất trong loài thú bốn chân. Nó rất thông minh, lanh lợi. Thịt voi rất nhạt nhẽo, người đời vẫn thường nói "mười voi không được bát nước xáo". Khi voi chết, người ta thường chỉ lấy ngà voi. Ở bàn chân voi có một lớp thịt gân mềm, chế biến thành món ăn rất ngon. Nó là một thực phẩm rất khó kiếm nên chỉ dành dâng vua chúa thưởng thức.
8 - Yến sào: Là tổ của loài chim hải yến (én biển) là một thực phẩm cao cấp vô cùng quý giá: Việt Nam là một trong 8 quốc gia trên thế giới có yến sào.
Yến sào có nhiều loại: yến huyết, quan địa, bài... mỗi loại đều có giá trị chất lượng khác nhau, nhưng tất cả đều có giá trị dinh dưỡng cũng như giá trị kinh tế lớn.
Bản thân yến sào không phải là một món ăn ngon, mùi yến sào tanh tanh, vị nhạt nhạt nhưng ăn nó sẽ được bồi bổ thần kinh, gân cốt, chữa bệnh kiết, chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ.
Yến sào có thể chế biến nhiều món ăn:
- Chè yến.
- Chè yến sào hạt sen.
- Yến thả.
- Bồ câu tiềm yến sào.
Ngày nay, trong 8 loại thực phẩm quý hiếm trên chỉ còn yến sào là vẫn dễ dàng tìm kiếm và được phép sử dụng. 7 thứ còn lại, một số loài đã tuyệt chủng hoặc nếu còn, đều thuộc danh mục các thú vật quý hiếm phải hết sức bảo vệ và gìn giữ. Nhưng chúng ta vẫn còn có thể tái hiện các tiệc cung đình bằng chính những nguyên liệu cao cấp mà nguồn tài nguyên phong phú của Việt Nam có thể cung cấp: yến sào, vi cá, bóng cá, hải sâm, cua gạch, tôm hùm, sò huyết, bào ngư để thu hút nguồn khách quốc tế khi họ đến với Việt Nam.
-------------------------------------------------

Ẩm Thực Dân Gian Huế

Qua lời kể của các bà phục vụ trong Đại nội gần gũi Đoan Huy Hoàng Thái hậu (mẹ vua Bảo Đại) thì những bửa ăn trong cung không khác bữa ăn của người dân thường là bao nhiêu. Những món được ưa thích nhất vẫn là cá bống thệ kho khô, canh cá ốc mó, canh rau muống tươi, thậm chí cả canh rau tập tàng gồm nhiều thứ rau dại. Còn cơm thì dùng gạo de An Cựu, thứ gạo ngon trồng ngay cạnh kinh thành chứ không phải là đưa từ đâu xa. Hàng ngày mặc dù là phu nhân các quan trong triều cung tiến những món ăn đặc biệt do tự mình nấu vào cung, nhưng đấy cũng chỉ là nghi thức, chứ người trong cung không chuộng những món ăn đó lắm. Lại nghe có những món ăn nghe tên thì cầu kỳ nhưng vật liệu dùng chế biến thì thật đơn giản. Ví như món cháo ngũ sắc. Muốn nấu một tô cháo thì phải dùng nươc luộc mười lăm con gà, nấu các thứ gạo và đậu riêng biệt, mỗi thứ một màu khác nhau, như đậu đen, đậu đỏ, hạt kê vàng, hạt gạo trắng... khi đổ vào bát, dùng lá chuối ngăn các thứ màu sắc khác nhau, không để lẫn lộn, nhấc lá chuối ra sẽ có một bát cháo năm màu trông rất đẹp mắt.
Thật ra ẩm thực dân gian với ẩm thực cung đình Huế là một. Ngay cả bữa ăn bình thường hàng ngày, tuy các món ăn rất đơn giản, nhưng đều được chế biến do các bàn tay nội trợ khéo léo. Bữa ăn đãi khách tiệc tùng thì công phu hơn, Nghệ thuật biểu hiện ở chỗ sử lý sản phẩm, điều tiết gia vị, và tổ chức bày dọn. Người phụ nữ Huế dù thế nào chăng nữa cũng đặt “công” lên hàng đầu, sau đó mới đến “dung”, “ngôn” và “hạnh”. Việc bếp núc được chú ý, thường truyền thụ trong gia đình từ thế hệ trước đến sau, qua kinh nghiệm thực tiễn hơn là sách vở, khi môn “gia chánh” chưa và đã được đưa vào nội dung giáo dục trong nhà trường, nhất là giới trung lưu và thượng lưu.
Nhìn chung, ngoài những đặc trưng tổng quát của ẩm thực Việt Nam ẩm thực dân gian Huế mang một số đặc trưng riêng nổi bật. Một là tính đa dạng, trên mâm một bữa ăn thông thường ít ra cũng có ba bốn món, đủ các chất, như tôm cá, thịt, rau quả.. Hai là tính mỹ thuật dù giàu nghèo mâm cơm bao giờ cũng được dọn tươm tất trên bàn, trên phản, trên chõng... Lễ tiệc cần phải chú ý bày biện phối hợp màu sắc của thực đơn. Ba là tính tập thể, tất cả các món cần dùng đều được bày ra hết nhất là trong các ngày kỵ giỗ, thậm chí chồng chất lên nhau và mỗi mâm dành cho nhiều người ăn chung. Chúng ta có thể kể ra thêm nhiều đặc trưng khác nữa, nhưng nổi trội hơn hết là tính tinh tế và ngon lành, kể cả món “mặn” lẫn món “chay”. Và để thu hút thực khách, người ta còn đặt tên các món ăn rất “kêu” ghi vào thực đơn, dù nó khá đơn giản, nhất là trong tiệc hỏi tiệc cưới... Bởi thế, trong Tuần văn hoá Huế tổ chức tại Hà Nội từ ngày 8 đến ngày 12 tháng 4 năm 1999, chính gian hàng ẩm thực đã thu hút nhiều khách nhất, vượt cả khả năng phục vụ của nhân viên...
------------------------------------------------

Bánh Nậm Huế

Đặc điểm bánh Nậm: Bánh được làm từ bột gạo trắng trong, gói trong lá chuối, nhuỵ tôm vàng rực, trông chiếc bánh nậm như một bông hoa cúc trắng tinh khiết e ấp nép mình trong chiếc lá xanh. Khi làm bánh nậm,việc chọn tôm và sơ chế cũng là cả một nghệ thuật. Người làm phải chọn những con tôm sống trong môi trường nước lợ tự nhiên, vỏ không dầy có hương vị thơm ngọt, rất đặc biệt. Một chiếc bánh nậm được gói khéo là bột phải được dàn đều trên lá tôm chấy được phết mỏng hơn, nằm gọn trong phần bột trắng. Hai mép lá được vuốt mạnh, thẳng nếp, gói gọn thành hình chữ nhật. Cũng bởi bánh nậm mỏng mảnh mà chẳng cần tới dây buộc, chiếc bánh vẫn giữ nguyên được hình dáng ban đầu sau khi hấp chín
-Nước chấm Bánh nậm: Bánh Nậm được ăn cùng với nước mắm ngọt, cay cay, rất Huế mà không giống với bất kỳ 1 loại nước chấm nào
-Bảo quản: Bánh nậm phải được ăn ngay trong ngày hoặc muộn nhất là ngày hôm sau.
-------------------------------------------------

Bánh Canh Xứ Huế

Mấy năm gần đây, ở Huế người ăn bánh canh đông hẳn lên, từ học sinh, sinh viên, cán bộ... cho đến khách du lịch và nhất là Việt kiều về thăm quê.
Các quán bánh canh lần lượt mọc lên ở những công viên, cổng trường học, nhà máy... quán mở cửa từ sớm tinh mơ cho đến nửa đêm.
Bánh canh ở đây nấu bằng bột mì với cá và da heo, hoặc với thịt băm nhỏ vo viên... Công đoạn chế biến đơn giản và nhanh chóng: nước dùng đun sôi trong nồi, bột nhào xong cán thật mỏng quanh một ống nhôm tròn làm thớt. Dùng dao xắt thành từng con nhỏ, rơi vào nồi nước nóng. Khi bột vừa chín tới, vớt ra tô, chế nước dùng có thịt heo, cá và hành thái nhỏ, chêm gia vị vào rồi ăn nóng.
Ở Huế từ lâu lắm rồi, dưới làng Nam Phổ xã Phú Thượng, Phú Vang cách trung tâm thành phố Huế chừng 6km, đã có nghề bán cháo bánh canh truyền thống. Tuy cũng là cháo bánh canh, nhưng nó hoàn toàn khác với bánh canh đời mới. Vì thế, nếu không quen biết thì du khách dễ nhầm lẫn...
Bánh canh Nam Phổ bắt đầu bán từ buổi chiều khoảng 13 giờ trở đi, hàng bánh canh do một phụ nữ gánh đi bán dạo (ngày trước người bán trẻ hay già đều đội nón Huế, mặc áo dài). Xuất phát từ Nam Phổ, lên Vỹ Dạ, qua chợ Ðông Ba, vào Thành Nội... Trong hàng bánh canh, còn bán cả bánh lọc, bánh ít, bánh nậm v.v... là những thứ bánh đặc sản Huế.
Bánh canh truyền thống Nam Phổ làm bằng bột gạo (xưa không có bột mì), lại chỉ dùng tôm giã nhuyễn trộn trứng. Tô bánh canh hình dẹt, nước dùng trong và sền sệt, thơm phức...
Bánh canh Huế được nhiều người ưa. Giá bình dân, hợp khẩu vị những ai thích ăn cay và nóng. ở Huế nếu có cơ sở chế biến đóng gói, không chừng bánh canh sẽ trở thành một thứ "mì ăn liền" bán chạy cũng nên.
-------------------------------------------------

Bánh Ướt Thịt Nướng

Vùng đất Kim Long của Huế vốn nổi tiếng có nhiều nhà vườn. Nhưng nhiều người lại biết đến Kim Long nhờ có món ăn hấp dẫn: đó là bánh ướt thịt nướng.
Bánh ướt là loại bánh tráng được làm bằng bột gạo có pha bột lọc, tráng mỏng hơn và dùng liền (nên gọi là bánh ướt chứ không phơi khô như bánh tráng). Thịt để nướng thường là thịt heo ba chỉ thái mỏng, ướp tiêu, hành, nước mắm, ngũ vị hương, mè (vừng). Thịt ướp sau vài giờ thì đem kẹp, nướng trên bếp than đỏ hồng cho đến khi đủ độ chín, dậy mùi thơm. Lấy thịt nướng này kẹp với rau thơm, giá, xà lách làm nhân để cuốn bánh ướt.
Bánh ướt thịt nướng Kim Long ngon, hấp dẫn là nhờ chấm với loại nước chấm hết sức đặc biệt, được các chủ hàng chế biến từ nước mắm nguyên chất, đường, chanh, tỏi, ớt... như một bí quyết được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Chính nhờ hương vị nước chấm rất đặc trưng mà món ăn bình dân này của Kim Long được nhiều du khách biết đến, tạo thêm nét chấm phá trong bức tranh ẩm thực đa sắc màu của Huế.
Với hương vị đặc trưng như thế, nếu có dịp đến Huế, trên đường đi thăm chùa Linh Mụ bằng ô tô hay du thuyền, bạn đừng quên ghé lại Kim Long để thưởng thức món ăn đậm đà hương vị quê hương này.
-------------------------------------------------

Bánh Chưng Nhật Lệ

Đây là món ăn nổi tiếng ở Huế và có xuất xứ từ con phố Nhật Lệ trong thành Nội, nơi tập trung hàng chục lò làm bánh. Bánh thơm dẻo, ăn rất khoái khẩu do sự kết hợp nhuần nhuyễn mùi vị giữa nhân đậu, thịt (mỡ và nạc) với gạo nếp và các loại gia vị như tiêu, hành. Người ăn quen lâu ngày thành nghiện, thành thèm.
Ăn bánh chưng Nhật Lệ khi nguội ngon hơn khi nóng. Bóc lớp lá chuối ra, màu bánh xanh thơm nhức mắt. Cắn một miếng, nhân đậu thịt mỡ màu nâu trắng béo bùi ngập chân răng. Một chuyên gia gói bánh của phố Nhật Lệ cho biết: "Nếp là phải nếp tốt, không lẫn tẻ, hạt phải tròn đều. Thịt là loại tươi nóng mới mổ ra. Nấu thì phải nấu cho bánh chín đúng độ, không nhão nát, không sống...". Du khách đến Huế ai cũng tìm ăn bánh chưng Nhật Lệ, để thấm cái hương vị đặc trưng của Lang Liêu ngàn đời "danh bất hư truyền"...
Bánh càng nhỏ gói càng khó vì nó cũng tỉ mẩn đủ thao tác thịt, đậu xanh đánh thành nhân, gạo nếp, lá dong lớp trong, lớp ngoài. Bánh chưng Nhật Lệ có loại tới 30.000 đồng/cặp, có khi tới 50.000 đồng. Nhưng loại lớn này chỉ gói theo đơn đặt hàng, thường là vào dịp giỗ chạp, cưới hỏi hoặc tết.
Cứ sáng sớm tinh mơ là hàng chục người đổ về phố Nhật Lệ lấy bánh chưng đi bỏ cho các điểm bán lẻ. Tính ra mỗi ngày, các lò bánh chưng Nhật Lệ cung ứng ra thị trường năm, bảy nghìn chiếc bánh chưng.
-------------------------------------------------

Bánh Tét Làng Chuồn

Ngoài tranh trướng liễn dân gian, làng Chuồn còn có một thành tựu trong việc gói bánh tét truyền thống của Huế. Kỹ thuật gói và nấu bánh tét phổ biến khắp các làng quê xứ Huế, ở làng Chuồn cũng không có gì khác lạ. Nhưng bánh tét làng Chuồn lại đặc biệt về vật liệu. Tại làng này từ xưa đã khoanh vùng khoảng 20 mẫu ruộng để cấy nếp ngon. Đó là loại nếp thơm, gọi tên là nếp Tây. Tài khéo làm bánh tét làng Chuồn thể hiện trong mọi khâu.
Trước hết là chọn nếp: nếp ngon đều hạt, giã trắng, sàng kỹ tấm cám, không lẫn gạo hay bông cỏ, hạt cát. Nếp được ngâm kỹ, vút thật sạch, để ráo nước (để bảo đảm giữ bánh được chừng nửa tháng). Lá gói bánh là lá chuối sứ không già lắm, có mặt rộng độ bền chắc. Lạt giang vót mỏng dễ cột chặt làm cho bánh ổn định hình thể, và không thấm nước nhiều làm nhão bánh. Nhụy đậu xanh cũng chọn loại đậu xanh mỡ (loại hạt đậu lớn đều), ngâm vút làm nhụy sống. Mỡ lợn là loại mỡ giấy xắt thỏi dài vuông vức góc cạnh. Tiêu, hành, muối nêm vừa ướp đều trong mỡ, thêm một ít muối trộn đều trong nếp.
Khi gói thao tác khéo, để nhụy bánh nằm đúng trung tâm. Đòn bánh gói đẹp giữ vững hình trụ tròn đều, các nuộc lạt buộc khéo đều nhau. Để bánh có màu xanh tự nhiên còn phải bỏ một lượng lá “mật lục” (lá hoang ở bờ bụi có hình thùy, chót lá tóp nhỏ, thân và cành có gai thưa) vào nồi trước khi nấu. Trong quá trình nấu bánh, phải thay nước ít nhất hai lần để khỏi úa màu lá. Giữ lửa đều 12 tiếng làm cho bánh nhừ, giữ được lâu mà hạt nếp vẫn không "sống" trở lại.
Tét bánh bằng chỉ hay sợi gấc làm mặt bánh mịn màng phẳng đẹp, sắp khéo vào dĩa trông như những vầng trăng tròn tươi sáng tỏa hương. Khi ăn, ta cảm nhận vị mềm dẻo của bánh, hương thơm dịu của bánh, vị béo bùi của nhụy bánh và vị cay của tiêu hành, thành một vị tổng hòa thơm ngon, hấp dẫn
-------------------------------------------------

Bánh Khoái

Du khách đến Huế, ai cũng thích một lần được thưởng thức bánh khoái Thượng Tứ. Thượng Tứ hiện có ba quán bánh khoái là Lạc Thiện, Lạc Thạnh và Bạch Yến. Tiệm bánh khoái Lạc Thiện có từ trước giải phóng...Tiệm chỉ có bốn bàn tầng trệt và ba bàn trên gác cho khách ngồi.
Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò (hoặc chim) nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm. Khi nào có khách ăn, nhà hàng mới bắc khuôn lên lò đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ. Tiếng bột bén mỡ xèo xèo bốc lên quyến rũ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày ra đĩa.
Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, thứ nước chấm chỉ các đầu bếp giỏi mới chế được. Ðây là bí quyết gia truyền, quyết định chất lượng, tạo nên hương vị thượng hạng của bánh khoái. Nước lèo Huế được chế biến rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang... Quán bánh khoái Thượng Tứ tồn tại gần ba bốn chục năm nay, đã trở thành văn hoá ẩm thực Huế, làm say lòng du khách, thân thuộc với người Cố Ðô chẳng khác gì cơm hến, tiếng chuông chùa Thiên Mụ, con đò sông Hương. Vâng, đó chính là một phần văn hóa Huế.
-------------------------------------------------

Bánh Tết

Phụ nữ Huế ngay từ thuở còn thơ đã được bà, mẹ… dạy cho nữ công gia chánh, trong gia đình từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường truyền bí quyết, kinh nghiệm riêng về bếp núc cho nhau nên Huế luôn nổi tiếng là mảnh đất có nhiều phụ nữ khéo tay hay làm. Đặc biệt vào dịp Tết đến Xuân sang, bàn tay tài hoa của các chị tha hồ bày biện, đây là niềm vui, là hạnh phúc đầu năm cho mọi nhà: bánh mứt ngọn, màu sắc đẹp, đầy hương vị quê nhà.
Ở Huế, bánh mứt ngày Tết ngoài ý nghĩa thiêng liêng là để cúng bái tổ tiên ông bà – đất trời, chiêu đãi bạn bè khách khứa nhân năm mới, còn là dịp tốt nhất để các bà các cô thi thố tài năng.
Bánh ngày Tết ngày phong phú và đa dạng nhưng người ta chuộng nhất là bánh ngũ sắc, bánh thuẩn, bánh tét.
Bánh ngũ sắc hay còn gọi là bánh in, họ nhà bánh này rất nhiều chủng loại: bánh măng, bánh bột nếp, bánh bột huỳnh tinh, bánh đậu xanh, bánh sen tán… mỗi loại bánh mang đúng loại bột như tên gọi của nó. Bánh được gói bằng giấy gương đủ màu sắc nhưng có quy định cụ thể, ví như màu xanh hy vọng là bánh đậu xanh, màu tím hoàng là bánh bột nếp… Ngày xuân các cô gái Huế lãng mạn thường chọn bánh theo tình yêu sắc màu hơn là hương vị bánh, bởi yêu màu tím nên ăn mãi bành huỳnh tinh dù bánh đậu xanh dòn tan thơm phức, cũng mặc!.
Cứ vào khoảng 25 Tết, trong gió Huế đã thoang thoảng mùi thơm của bánh thuẩn, những chiếc bánh xinh xắn mang đủ hình dáng của loại vật đáng yêu và loài hoa mỹ miều theo khuôn mẫu có sẵn. Bánh được làm bằng bột huỳnh tinh hay bột mì tùy vào sở thích của mỗi nhà, phải đánh bột, đường, trứng thật mạnh và đều tay bánh mới rở ngon mắt. Có điều thú vị là các bà các cô thường thích thử thời vận năm mới qua việc làm bánh thuẩn, nếu bánh nở đẹp thì thời gian đến sẽ vô cùng may mắn, tràn đầy niềm vui và ngược lại… Các cô cậu đang mùa thi cũng thích thú với loại bánh này, dù bận rộn với bài vở nhưng cũng tranh thủ xuống bếp xin mẹ thử quẻ – chỉ là để cho vui thôi – như là một hình thức thư giãn sau bao bận bịu, chứ thực ra bánh đẹp hay không tùy thuộc vào nhiều kỹ thuật, nghệ thuật và một vài bí quyết nhỏ của người làm.
Chiều cuối năm, bên bếp lửa hồng, hương thơm của bánh và đôi má ửng hồng của cô gái trông thật đáng yêu, ta như cảm nhận được mùa xuân đã đến! Dĩa bánh ngũ sắc rực rỡ luôn chiếm vị trí trang trọng trên bàn thời ngày Tết nghi ngút khói hương.
Hiện nay, ở Huế có hai tiệm bán bánh in ngon nổi tiếng là tiệm Hồng Phúc ở đường Phan Đăng Lưu, tiệm Bà Bốn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đặc biệt vào các ngày rằm, mồng một tiệm bánh Bảo Thạnh ở đường Trần Hưng Đạo cũng có bán loại bánh này.
Bánh tét là món bánh không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của mọi nhà – dù giàu sang phú quý hay bình dân nghèo nàn đều có – mức độ nhiều hay ít, chất lượng ngon dở tùy vào hoàn cảnh kinh tế và quan niệm sống của mỗi gia đình: người hay căn cơ, kể thích hào phóng sẽ có sự khác biệt. Thật muôn vàn tiện lợi, Tết – đi chơi về lỡ bữa hay bận rộn tiếp khách – vài ba lát bánh tét ăn vội vàng cũng đủ yên bụng để thù tạc với bạn bè đến tận chiều tối. Ngon nhất Huế là bánh tét làng Chuồn – nếp vừa dẻo vừa thơm, đòn bánh hình trụ tròn thon thon, nhân đậu xanh vàng ươm thơm phức, lát thịt mỡ chínht tâm béo ngậy ngon lành. Người Huế thường dùng sợi lạt buộc bánh để thái thành từng lát mỏng rất láng lẩy khi bày trên đĩa trông rất đẹp như một đóa hoa. Bánh được gói bằng lá chuối – thứ lá to bản – mặt nhẵn, để bánh được giữ lâu ngày thì lúc gói phải có nhiều lớp lá, nếu tiết kiệm lá sẽ rất mau thiu – dùng lạt mềm buộc thật chặt nấu chín kỹ. Để có một đòn bánh tét ngon, người phụ nữ phải chăm chút nhiều đến từng chi tiết: nếp, đậu… rất công phu, quy luật của cuộc sống có bù trừ - trong đau khổ vẫn có hạnh phúc – nên đêm gia thừa, ngồi canh nồi bánh tét, nhìn lửa cháy bập bùng mà nhớ nhung, hồi tưởng, mơ mộng, thật thú vị!.
Gần đây, ở Huế có xuất hiện thêm bánh chưng, nguyên vật liệu và cách làm như bánh tét vậy, chỉ khác về hình thể, bánh chưng có hình vuông, gói bằng lá dong, không để lâu ngày được như bánh tét. Bánh chưng Nhật Lệ ở Thành Nội không nơi đâu hơn tài, rất ngon và bán rất chạy, ngày Tết muốn có bánh chưng ở tiệm này thì phải nhanh chân đặt trước từ trung tuần tháng 12 âm lịch, chậm chân là phải ăn bánh chợ hoặc tự gói lấy.
Ngày nay, phụ nữ Huế có điều kiện tiếp thu thêm nhiều nền văn hóa các miền nên ngoài những món truyền thống trên, Tết Huế còn có nhiều loại bánh đẹp, lạ miệng và hợp khẩu vị như bánh trái cây, bánh kem, bánh bông lan… và đã được nhiều chị em hưởng ứng tích cực.
Dù giàu hay nghèo, ngon, dở… bánh Tết Huế vẫn hấp dẫn mọi người bởi hương vị độc đáo, màu sắc hấp dẫn mang nét riêng đặc sắc của Huế.
-------------------------------------------------

Trái Vả và Chuối Chát Chua Ngọt

Tết là rộn ràng bánh bứt và bao của ngon vật lạ… với bàn tay khéo léo tài hoa của phụ nữ Huế, tất cả các thức ấy đều rất ngon, đẹp và vô cùng hấp dẫn, bởi thói thường người ta thưởng thức món ăn bằng cả khứu giác, thị giác và thính giác mà. Nếu hoa hoa là phải có màu sắc và hương thơm, bánh mứt luôn có vị ngọt để uống với trà ngon thì rượ cay cần phải có đồ nhắm. Vào ngày Tết, ở Huế ngoài những món sang trọng như nem, chả, tré… cũng có một vài món dân dã để nhâm nhi cùng rượu rất tuyệt vời, đó là trái vả và chuối chát chua chua ngọt, tuy là món bình dân, rẻ tiền nhưng lắm người giàu rất mê, món nhậu này luôn hiện hữu và chiếm vị trí không kém phần quan trọng trong thực đơn ngày Tết của mọi nhà.
Đây là một loại kim chi mà thời gian sử dụng và bảo quản được khá lâu, ta vẫn có thể dùng được trong tròn một tháng giêng. Cứ vào khoảng từ 25 tháng Chạp, trong mỗi gia đình đều bắt đầu làm món đặc biệt này. Vơi các tiệm chuyên kinh doanh thực phẩm Tết, họ đã lùng sực khắp các chợ, có khi phải đến tận các vườn ở Kim Long, Nguyệt Biều, Long Thọ để mua trái vả, trái chuối chát, do vậy mà giá cả các mặt hàng này đến gần ngày Tết thường tăng lên vùn vụt, bởi năm mới có một lần, đắt mấy cũng phải theo, chẳng ai kêu ca than vãn, cứ thê mà chen nhau chọn mua. Món này rất dễ làm, trước tiên là chọn trái vả thật tươi, vỏ xanh biếc, ruột đỏ hồng, gọt sạch vỏ, dầm nước muối cho bớt vị chát và giữ được màu trắng xanh, khứa từng lát mỏng theo hình tròn của trái vả trông cho đẹp mắt và cũng để dễ ăn, dấm và đường đun sôi để nguội, xếp trái vả vào thẩu, trộn thêm ít ớt đỏ tươi, một vài múi tỏi để có vị cay, lưu ý là phải có gừng để có được mùi thơm và để ăn vào bụng cho ấm. Màu đỏ của ớt, màu trắng của tỏi, màu vàng của gừng tạo thêm hương sắc hấp dẫn.
Chuối chát chua ngọt còn gọi là sùng bởi nói được tạo hình dáng như một con sùng, chọn trái chuối đừng non mà sẽ bị mềm, nhưng nếu quá già thì sẽ bị cứng và chát, với những trái ở độ tuổi dậy thì là ngon nhất, cách làm giống như trái vả vậy, càng nhiều ớt tỏi gừng càng ngon. Có lẽ điều thu hút mọi người nhất là trái cả và chuối chát không những ngon mà còn vừa túi tiền của mọi thành phần trong xã hội. Thường người ta xếp vả và chuối chát trong cùng một thẩu, vừa đẹp mắt vừa đủ chủng loại. Ngày Tết, ai cũng ngán thịt mỡ, bánh mứt ngọt lịm, được ăn một miếng vả hoặc sùng chua ngọt thay đổi khẩu vị thật là khoái khẩu. Đây cũng là một món nhậu tiện lợi cho nan giới khi phụ nữ vắng nhà; có khách đến thăm chơi, đàn ông khỏi bị phiền hà với bếp núc, tất cả đã sẵn sàng trong thẩu, chỉ cần bày ra, tha hồ thù tạc, và bảo đảm là càng uống càng không say vì đây là món giã rượu tốt nhất. Các tiệm bán buôn quà Tết của Huế không bao giờ thiếu mặt hàng này, đây cũng là món quà xuân thanh lịch, đầy ý nghĩa cho bạn bè và người thân nhân dịp Tết đến.
-------------------------------------------------

Cá chình um Huế

Món này nên dọn ăn trong lẩu để giữ nóng. Xếp một đĩa rau cải non, bắp chuối bào và một đĩa bún để ăn kèm.
Nguyên liệu:
- Cá chình suối 300 gr
- Dưa hường chua 100 gr
- Măng chua 200 gr
- Rau răm, ngò gai, cải non, chuối chát, bắp chuối, cây me đất mỗi thứ một ít
- Hành tím 2 củ
- Ruốc Huế 1 muỗng cà phê
- Bột nghệ 1/2 muỗng cà phê
- Đường 1 muỗng cà phê
- Hạt nêm, ớt bột Huế, tiêu mỗi thứ một ít
Thực hiện:
- Cá chình cắt miếng nhỏ vừa ăn rửa sạch, ướp với ruốc Huế, đường, nước mắm, bột nghệ, hành tím giã nhỏ và bột nêm để 10 phút cho thấm.
- Đun nóng dầu, cho hành tím vào phi thơm, hạ nhỏ lửa. Cho tiếp ớt bột Huế và cá vào xào cho săn lại.
- Nêm một chút ruốc Huế đã đánh tan với nước vào nồi rồi cho măng chua, dưa hường chua và chuối chát cắt lát vào đảo đều, chờ sôi lại vài dạo. Nêm ngò gai, rau răm, cây me đất vào là được.
-------------------------------------------------

Cuốn ram Huế

Món ăn này sẽ giúp bạn có thể cải thiện bữa ăn gia đình. Chỉ cần bỏ chút thời gian chế biến là bạn sẽ được thưởng thức văn hoá ẩm thực cung đình.
Nguyên liệu:
- 100 gam thịt nạc
- 1 cái bánh tráng gạo mè
- 5 tai nấm mèo
- 2 tép hành lá
- 2 vắt bún Tàu
- 1/3 củ cà rốt
- 1/3 củ cải trắng
- Rau sống các loại
- Muối, hạt nêm, hành tỏi, tiêu, đường, dấm
Thực hiện:
- Bằm nhỏ thịt nạc, nấm mèo, hành lá, bún Tàu ướp gia vị vừa ăn và trộn đều.
- Bánh tráng cắt làm 6, cho hỗn hợp đã trộn vào miếng bánh và gói lại theo hình tam giác.
- Cà rốt và củ cải trắng cắt sợi nhỏ ngâm với dấm đường làm món chua ngọt.
- Những miếng bánh gói xong cho vào dầu nóng chiên giòn, sắp xếp ra đĩa và dùng với rau sống kèm nước nắm chua ngọt.
-------------------------------------------------

Bún Huế

Từ lâu món ăn này đã nổi tiếng khắp đất nước, nó sánh ngang với phở của người Hà Nội, hủ tiếu của Sài Gòn. Để tạo ra hương vị cho bún Huế, nồi nước xáo phải có vài ba củ sả gồm cả lá ninh cùng với giò heo được chặt thành từng khoanh và chỉ ninh mềm vừa phải để có vị ngọt nhưng chỉ béo tương đối.
Muốn tạo ra hương vị đặc trưng cho bún Huế nhất thiết phải có ruốc ngon. Người nấu phải nêm ruốc sao cho chỉ giữ lại mùi thơm mà người ăn lại không thấy có ruốc xuất hiện ở trong bún. Đế tạo màu sắc cho nước, người ta phi loại ớt bột ít cay trong mỡ rồi đổ vào nước dùng, làm cho tộ bún luôn có lớp váng mỡ đỏ lóng lánh.
Thịt bò dùng cho bún cũng cần thật tươi, lại được thái lát to, và mỏng. Mỗi tô bún một khoanh giò, thêm gân, thêm chả, bò tái hay bò chín tuỳ theo yêu cầu của khách. Sợi bún phải vừa mềm, vừa dai, vừa giòn. Tô bún khi ăn được rắc thêm một ít tiêu bột, một nhúm hành thái nhỏ, ăn ghém cùng giá sống có kèm sợi bắp chuối và rau thơm. Ngoài ra còn có một đĩa nhỏ đựng ớt trái và mấy lát chanh nhỏ cho khách tuỳ nghi sử dụng.
Sự hòa quyện giữa vị ngọt của nước hầm, mùi thơm của ruốc, của sả, vị cay và thơm của ớt tươi, hành lá, chanh... đã tạo nên một hương vị đâm đà khó quên và rất riêng của bún Huế.
-------------------------------------------------

Cơm hến

Là món ăn đặc sản của người dân xứ Huế với hai nguyên liệu chính là cơm và hến luộc.
Nguyên liệu:
Thịt con hến 100g, cơm trắng 2 chén nhỏ, hoa chuối 20g, khế 1 trái nhỏ, rau má 20g, đậu phộng 20g, mè 20g, rau thơm các loại, cây bạc hà, cây chuối non. Ruốc Huế, muối rang.
Thực hiện:
Con hến rửa thật sạch, cho vào luộc, sau đó gạn lấy nước để ra chén nhỏ, nhặt lấy thịt hến. Cho tỏi vào chảo dầu nóng phi thơm rồi cho thịt hến vào xào đều, nêm mắm ruốc và muối rang, xào khoảng 5 phút là được. Đậu phộng và mè rang chín. Các loại rau thơm hoa chuối, khế, cây bạc hà, rau má rửa sạch để ráo nước và thái nhuyễn. Tất cả cho vào tô, ăn kèm cùng mắm ruốc Huế.
Thưởng thức
Cơm hến phải là cơm trắng để nguội, trộn đều trước khi ăn.
-------------------------------------------------

Cuốn ruốc tôm chua

Lá món ăn không gây ngán, phù hợp với ăn nhẹ và thích hợp với người ăn kiêng.
Nguyên liệu:
Tôm chua 100g, thịt ba chỉ 100g, khoai lang ngọt 100g, rau muống, rau thơm các loại. Bún, bánh tráng, mắm ruốc Huế, ớt.
Thực hiện:
Thịt ba chỉ rửa sạch, luộc chín và thái miếng mỏng. Khoai lang luộc chín, bỏ vỏ, thái miếng. Các loại rau thơm, rau muống rửa sạch, để ráo nước. Cuốn bánh tráng với khoai lang, bún, rau thơm, cuốn phải thật chặt. Sau đó bày ra đĩa, tôm và thịt luộc xếp xen kẽ với các gỏi cuốn. Cuối cùng trang trí thêm với các lát ớt và chấm với nước ruốc pha chế đặc biệt.
Thưởng thức:
Vị chua của tôm hoà quyện với độ ngọt của thịt, khoai, vị cay của ớt sẽ mang lại cho bạn cảm giác thật tuyệt.
-------------------------------------------------

Diếp cuốn

Diếp cuốn là món ăn có nhiều rau nên không bị ngán khi thưởng thức. Đây là món ăn quen thuộc của người dân xứ Huế.
Nguyên liệu:
Tôm 150g, thịt ba chỉ 100g, bún hoặc bánh hỏi 100g, hành lá, rau diếp, ớt, vừng, đậu phộng, mắm ruốc Huế.
Thực hiện:
Tôm, thịt rửa sạch, luộc chín. Tôm lột vỏ, bỏ đầu, thịt thái miếng mỏng. Hành lá chần qua nước sôi. Rau diếp rửa sạch, để ráo nước. Trải rau diếp ra đặt tôm đã lột vỏ, thịt ba chỉ, bún (hoặc bánh hỏi) lên trên cuộn lại và buộc bằng hành lá đã chần qua nước sôi. Món chấm cùng nước tương đậu phộng.
Thưởng thức:
Nếu không thích cuốn cùng lá rau diếp, bạn có thể thay thế bằng lá cải xanh.
-------------------------------------------------

Thanh Trà Xứ Huế

Huế vốn nổi tiếng là miền đất nhiều hoa trái tươi ngon ý vị, nào thơm, mít, dâu… chua chua ngọt ngọt… song ấn tượng nhất vẫn là thanh trà – chỉ riêng cái tên gọi mỹ miều này thôi đã làm cho bao người háo hức. Đây là một loại quả mà người Huế rất thích, họ luôn muốn ăn cho bằng được, ăn đến khi trên cành không còn một quả nào, ăn đến tận cuối mùa… mà lòng vẫn còn thòm thèm tiếc rẻ!
Hàng năm, cứ vào độ tháng 7, 8 là mùa thanh trà chín đẹp, quả thanh trà tươi xanh tròn trĩnh, múi thanh trà mọng nước gợi cho ta bao nhiêu cảm hứng về điều ăn sự uống. Người sành ăn thường chọn thanh trà Nguyệt Biều, họ cho rằng cái ăn cốt để cho thơm miệng, ngọt lưỡi, mát họng mới gọi là đúng gu thưởng thức hương vị cây trái, đặc biệt với quả thanh trà Nguyệt Biều hội đủ các yếu tố tuyệt hảo ấy.
Phong cách ẩm thực mỗi người mỗi kiểu – với thanh trà, người năng nổ nhiệt tình sẽ nhanh nhẹn gọt vỏ, xẻ làm tư hoặc sáu tùy vào độ lớn bé của quả, lột vỏ, bỏ hột và cho vào miệng nhai ngấu nghiến – thao tác ăn như vậy mới khoái khẩu, người khác nhẹ nhàng hơn dù lòng rạo rực nhưng cứ thủng tha thủng thỉnh, lột từng múi nhỏ, tách ra những tép nguyên, đủng đỉnh cho vào miệng nhỏ nhẻ nhai thong thả, ăn thật chậm rãi dường như sợ hương vị sớm tan đi, thú vui nhâm nhi sẽ chóng qua vậy.
Đặc sắc nhất là món thanh trà trộn mực khô, còn gọi là gỏi thanh trà, cách làm đơn giản, chế biến gọn nhẹ nhưng vị ngon thì rất độc đáo khiến người đã ăn, biết ăn muốn được ăn thêm nhiều lần nữa… Này nhé: nướng mực khô trên bếp than hồng chỉ vừa chín để có được vị ngọt thơm và độ mềm, nếu mực chưa chín thì xem như hỏng mà quá lửa thì thịt mực sẽ bị khô cứng và không còn vị ngọt, xé mực ra thành từng sợi nhỏ, thanh trà bóc ra từng múi, tách múi ra thành tép nhỏ, giã ớt, tỏi càng cay càng ngon, pha nước mắm, đường, bột ngọt, tất cả hòa tan và trộn chung vào một dĩa, trang trí trên mặt dĩa một cành hoa ớt, hoa hành vô cùng đẹp mắt và ngon lành đáo để.
Món này ăn với cơm cũng ngon song độc chiêu hơn cả vẫn là để làm mồi uống với rượu làng Chuồn, thật là “ấm dậm”, với bia Huda thì càng thích thú.
Đến mùa thanh trà, trong thực đơn của các khách sạn sang trọng, các tiệm ăn và cả những quán ven đường bình dân đều có món thanh trà trộn mực khô, độ ngon tùy vào giá tiền, cụ thể là tiền nào của nấy. Tuyệt vời nhất là thanh trà loại 1, mực khô loại 1, nước mắm loại 1… và cứ thế thế, với thanh trà, mực, nước mắm loại 2 thì ít ngon hơn, rẻ tiền hơn. Giá cả của mỗi dĩa thanh trà trộn mực khô, còn tùy thuộc vào độ sang hèn của nơi ăn chốn ở, tại khách sạn và quán bình dân – là cả một sự chênh lệch đáng kể.
Thanh trà là món ăn ngon ngày hè – là món tráng miệng của mỗi gia đình, sau bữa cơm đầm ấm, cả nhà cùng nhau ăn một vài múi thanh trà nhiều vitamin bồi bổ cơ thể thì không còn gì sung sướng hơn – quả là đôi khi hạnh phúc không ở đâu xa và cũng chỉ là điều đơn giản nếu con người biết tận hưởng.
-------------------------------------------------

Chè Huế

Ở Huế có tới mấy chục loại chè sang trọng, đài các có, bình dân có. Mỗi loại chè có một hương vị đặc biệt riêng. Người Huế khéo tay, ăn uống cầu kỳ, tinh tế nên chế biến được nhiều thứ chè lạ, ngon và bổ.
Có những loại chè thanh cao mà cầu kỳ như chè hạt sen, chè nhãn bọc hạt sen, chè hạt lựu, chè thịt quay, chè môn sáp vàng, chè bông cau... Một số chè bình dân như: chè bắp, chè trôi nước, chè kê, chè khoai sọ, chè đậu ván, chè bột lọc, chè đậu xanh, chè đậu đỏ, chè thập cẩm, chè khoai môn, chè khoai mài, chè hột é...
Có loại chè cầu kỳ như chè thịt quay. Chè thịt quay được chế biến từ những miếng thịt heo quay, cắt vuông bằng quân súc sắc nhỏ (có cả bì lợn, cả thịt) bọc ngoài là màng bột nếp, rồi cho vào nước đường đun thành chè. Chè này có lẫn cả vị ngọt và mặn nên ăn không ngấy. Chè hạt sen và chè nhãn bọc hột sen là loại chè thanh cao, được chế biến từ hột sen hồ Tịnh Tâm. Chè bắp nấu từ bắp ngô non ở Cồn Hến, chè bắp ngọt thanh, tinh khiết. Chè thập cẩm tổng hợp của nhiều loại chè như chè đậu xanh dừa, chè đậu đỏ, chè bột lọc... Mỗi thứ múc một tý cho vào ly, thêm nước đá, thêm tý cốt dừa. Chè Huế có loại phụ gia quan trọng nhất là bột đao (để làm các loại chè cần độ dẻo như chè đậu ván, chè bắp), đậu phộng rang giã nhỏ và nước dừa. Nước cốt dừa cho vào sau cùng làm tăng vị béo cho ly chè, đậu phụng rang phảng phất hương thơm, tăng thêm độ béo ngậy.
Huế có đến hàng chục quán chè, hàng trăm gánh chè. Nổi tiếng nhất là chè Hẻm ở đường Hùng Vương, chè Tý ở đường Trần Phú, các quán chè ở đường Trương Định. Quán chè trong hẻm sâu thế mà đông khách suốt ngày đêm. Chè ở Huế rất rẻ, chỉ cần hai nghìn đồng là bạn đã có một cốc chè ngon. Chè cũng là một phần của văn hoá Huế, nếu mỗi tối nếm thử một vài loại chè, bạn cũng phải ở Huế cả tuần mới thưởng thức hết vị ngon của chè cố đô Huế.
-------------------------------------------------

Chè Hạt Sen

Món chè sen bọc nhãn lồng xứ Huế đã nổi danh khắp chốn xưa nay. Chè có vị thơm dịu mát của sen, vị ngọt thanh của cùi nhãn, ăn một lần không thể nào quên. Hột sen nấu chè theo kiểu Huế thường là hột sen tươi, vẫn còn nhựa và thơm mùi lá mới.
Nếu là hột sen khô thì thường được rửa và ngâm với nước lạnh, rất ít người đem ngâm nước tro hay một chất khác pha vào. Có lẽ vì người Huế sợ sen bị mất đi vị thơm nguyên chất vì "Sen không hương như cá ươn ngoài chợ, như trai ế vợ, như gái góa lỡ thời..."
Hột sen nấu chè theo kiểu Huế được đem hấp chín, sau đó nấu chung với nước đường cát trắng hay đường phèn trong vắt cho đến khi sôi nhẹ. Vị ngọt của đường đủ thấm vào hột sen là bắc ra ngoài bếp. Để được nồi chè ngon, người nấu phải túc trực canh chừng để lửa cháy vừa phải, tay khuấy, trộn thật nhẹ nhàng, thời gian cũng chỉ vừa đủ để hạt sen "không già, không non". Nấu già, hột sen sẽ mất hương thơm tự nhiên. Nấu non, hương sen sẽ không tỏa ngát. Hương sen dịu mát tự nhiên là thứ "bùa mê" của chè sen xứ Huế mà không hương liệu nhân tạo nào thay thế được.
Hình thức thăng hoa nhất của chè sen là chè hột sen bọc nhãn lồng. Hột sen màu trắng ngà, kết hợp với màu trắng trong của thịt nhãn (còn gọi là nhãn nhục) tạo ra một màu sắc rất dịu, hài hòa và thanh khiết. Hột sen chín bở được gói trong nhãn nhục mềm mại, giòn tan, hợp với sở thích và khẩu vị của nhiều lứa tuổi.
Chè sen bọc nhãn lồng xứ Huế ngon nhất là chè sen hồ Tịnh Tâm bọc nhãn lồng Thành Nội. Hồ Tịnh Tâm nằm phía Đông Bắc Hoàng Thành. Cách đây hàng trăm năm đã nổi tiếng là nơi trồng sen nhiều nhất, hoa sen đẹp nhất và hạt sen thơm ngon đậm đà nhất của kinh thành Huế. Hạt sen hồ Tịnh, cùng với nhiều món ăn nổi tiếng khác của xứ Huế, đã trở thành những món quà quê hương, đại diện cho vùng đất luôn bàng bạc thơ văn và nhạc họa này, giống như chè Thái Nguyên, trà Đà Lạt, cà-phê Buôn Ma Thuột, mè sửng Song Hỷ, mực thước Tư Hiền, tôm khô Rạch Giá... Nhãn lồng được trồng bên những con đường chung quanh Đại Nội, đến mùa kết trái được lồng trong mo cau và gói lài cẩn thận. Có hai loại là nhãn ướt và nhãn ráo. Nhãn ướt mọng nước và thịt mềm. Nhãn ráo giòn nhưng thịt dày và hột nhỏ. Nhãn dùng bọc hạt sen ngon nhất là nhãn ráo. Hột nhãn lồng Thành Nội nhỏ nhắn và vừa vặn với hột sen hồ Tịnh. Do vậy, một người khéo tay với mỗi trái nhãn lồng Đại Nội vừa lột vỏ, có thể lấy hạt ra và thay bằng một hột sen hồ Tịnh, lành lặn và tự nhiên như thuở chưa "thay chàng đổi thiếp”.
Nhãn lồng bọc trong hột sen hấp chín sẽ được đổ vào chung với nước đường cát trắng hay đường phèn để nguội. Quả nhãn đã ra đời, lớn lên rồi già và chín từ trong trái nên chẳng cần gia cố gì thêm. Và thế là, mùi thơm ngọt dịu mát của sen, của nhãn lồng, của đường phèn hòa chung nước mát đã hòa lẫn, thăng hoa để làm nên một cốc chè đầy sức hấp dẫn. Ai một lần đến Huế cũng nên một lần thưởng thức, và chắc chắn sẽ không thể lãng quên.


Netcodo sưu tầm (www.hue.vnn.vn)