Thứ Năm, 30 tháng 9, 2010

Võ Quê giới thiệu nhạc sỹ Nguyễn Phú Yên




Nhạc sỹ Nguyễn Phú Yên
TỪ "TIẾNG CA GIỮ NƯỚC" ĐẾN "BƯỚC TIẾP NHỮNG MÙA XUÂN"

Trong các năm từ 1970 đến năm 1972, cùng với cuộc đấu tranh chống Mỹ trên mặt trận đường phố của thanh niên sinh viên học sinh miền Nam, chương trình “Hát cho đồng bào tôi nghe” đã dâng lên thành một cao trào lớn mạnh trên các thành phố Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Đà Lạt. Từ “Hát cho đồng bào tôi nghe “ đã xuất hiện nhiều nhạc sĩ tên tuổi nòng cốt như Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh, Trương Thìn, La Hữu Vang, Nguyễn Xuân Tân, Nguyễn Tuấn Kiết, Nguyễn Nam, Trần Xuân Tiến…và nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên của Huế được tuổi trẻ học đường miền Nam biết đến nhiều với ca khúc “Thuyền em đi trong đêm” với nội dung ngợi ca người con gái giao liên trong vùng giải phóng.

Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên sinh năm 1946 tại An Truyền (tức làng Chuồn), xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Lớn lên từ một miền quê vốn có nhiều lễ hội như hát bội, đám chay, thu tế với điệu thài mang âm hưởng lễ nhạc chốn cung đình, Nguyễn Phú Yên đã sớm tiếp cận với các loại hình nghệ thuật truyền thống của quê hương. Sau khi tốt nghiệp cùng lúc hai trường Đại học Văn Khoa, Đại học Sư Phạm Huế năm 1969, Nguyễn Phú Yên vào dạy học ở Phan Thiết. Tại đây ca khúc “Mười năm”, phổ thơ của nhà thơ Nguyễn Như Mây đã trở thành một kỷ niệm đẹp của anh trong những ngày tháng gắn bó, buồn vui giữa miền gíó cát cực nam trung bộ.
Khi trở lại Huế trong những năm 70, 71…Nguyễn Phú Yên đã hòa nhập vào phong trào đấu tranh chống Mỹ của thanh niên, sinh viên, học sinh Huế. Thực tế sinh động từ những cuộc hội thảo, xuống đường, những đêm không ngủ, những lần theo Đồn Công tác xã hội sinh viên học sinh Huế thâm nhập về những vùng quê bò bom đạn Mỹ tàn phá đã trở thành chất liệu sống giúp anh nguồn hứng khởi sáng tác. Những ca khúc của Nguyễn Phú Yên như “Nhà em dưới mái trường sơn”, “Cô giáo trẻ trên bản làng xa”, “Thuyền em đi trong đêm”, “Công trường chiều nay”, “Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa” (phổ thơ Võ Quê), “Sài Gòn ơi, vùng lên”,” Tiếng chim rừng hót mừng sông núi”…đã được ngân vang trong các chương trình “Hát cho đồng bào tôi nghe” thời ấy và được in trong các tuyển tập “Tiếng ca giữ nước”, tập ca khúc in chung với Tôn Thất Lập (Hội Sinh Viên Sáng Tác, Tổng Hội Sinh Viên Huế,1970); “Hát cùng đồng bào ta”, nhiều tác giả (Hội Sinh Viên Sáng Tác, Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, 1971); Tạp chí Đối Diện (1970-1971); “Thuyền em đi trong đêm”,đĩa hát ghi chung với Hồng Vân, Tơn Thất Lập ( Nhĩm Cửu Long, CHLB Đức, 1974), "Tiếng hát những người đi tới"... Nhạc sĩ Tơn Thất Lập đã rất tâm đắc viết về anh trong giai đoạn đó: “ Từ những năm đầu thập niên 70, một dòng nhạc dấn thân đậm đà bản sắc dân tộc được dàn trải trên những tiết tấu hiện đại đã lôi cuốn thanh niên, sinh viên, học sinh lao vào các cuộc đấu tranh cách mạng tại các đô thị miền Nam. Đó là những ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên. Âm nhạc của anh tuy hòa chung vào dòng nhạc phong trào nhưng đã sớm bộc lộ một sắc thái riêng rất dễ nhận biết…”
Sau 1975, tiếp nối quá trình sáng tác trong những năm trước đây, mặc dầu bề bộn với công tác ở báo Tuổi Trẻ, nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên vẫn âm thầm miệt mài viết nên nhiều ca khúc mà theo nhạc sĩ Tôn Thất Lập thì “những ca khúc mới sau này của anh đã mở ra hướng tìm kiếm để hòa nhập vào những hơi thở trẻ ngày nay”. Một trong những nét nổi bật của nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên trong sáng tác là anh thường đồng cảm sâu sắc với nhiều nhà thơ để phổ thành cơng những bài thơ về quê hương, về mẹ, về tình yêu mà tiêu biểu là các ca khúc “Gửi Huế thân yêu”, thơ Tạ Nghi Lễ; “Bóng mẹ quê nhà”, thơ Phạm Thanh Chương, “Chợt nhớ quê xưa”, thơ Hồ Đắc Thiếu Anh; “Vẫn ngày xa xưa ấy”, thơ Nguyễn Thị Xuân Thủy; “Hỡi người tình nhỏ”, thơ Đỗ Trung Quân…Mối quan hệ mật thiết giữa thơ ca và âm nhạc đã được Nguyễn Phú Yên tạo nên nhũng giai điệu đẹp, thuần khiết, trữ tình.Vốn quen thuộc với các sinh hoạt cộng đồng, luôn gắn nghiệp vụ của mình trong đời sống xã hội, nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên thường tích cực hưởng ứng tham gia vào các cuộc vận động sáng tác ca khúc của nhiều nơi tổ chức và anh đã gặt hái những thành quả đáng trân trọng qua các ca khúc: “Bước tiếp những mùa xuân” (giải khuyến khích cuộc vận động sáng tác về đề tài Thống nhất Tổ quốc, Hội Văn Nghệ Giải phóng, 1976); Các ca khúc trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”. Thành viên của tập thể các nhạc sĩ sinh viên đoạt Giải thưởng Hồng Mai Lưu. 1990); “Bài ca Thanh niên” (giải hưởng ứng cuộc vận động sáng tác đề tài Thanh niên, Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, 1994); “Gửi Huế thân yêu” (giải A cuộc thi sáng tác về Huế, Thành phố Huế và Hội VHNT Thừa Thiên Huế, 1995).
Bây giờ, tuy nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đang công tác và sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, nhưng anh cho biết nguồn cảm hứng sáng tác về Huế quê hương vẫn còn bền bỉ nung nấu trong tâm hồn anh từng giai điệu nhớ: “ Mẹ đã sinh con trên một bến đò. Nên suốt đời con dạt dào sóng vỗ. Từ đất quê xưa mưa dầm nắng đổ. Con lại ra đi bao dặm đất trời. Con vẫn thầm mong nghe giọng à ơi…Lòng nhớ thương hồi làng quê ngày ấy…( Ca khúc “Ơi mẹ mến yêu”)

V.Q .
nguồn " voque.org"

Mừng cháu ngoại mới ra đời

Hôm nay vừa đúng năm ngày tuổi của cháu ngoại ta
Sanh ngày 25 tháng 9 năm 2010
Tức là ngày 18 tháng tám năm Canh Dần
Vào lúc 7 giờ tối
Nặng 3 kg 26
Cháu trai cùng tuổi cùng niên Canh với ta
Lúc ta đã tròn hoa giáp cháu mới ra đời
Không sớm cũng không muộn
Đứa cháu ngoại đầu tiên

Mừng cháu sống khỏe
Ăn vóc học hay

Thứ Tư, 29 tháng 9, 2010

Thơ Tuệ Sỹ


SƠ HUYỀN



Tang thương một giải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn sa mù
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Thứ Ba, 28 tháng 9, 2010

Lục bát Lê Ngọc Thuận




MỘT
Mặt em mọc nốt ruồi say
Tóc em đã có sợi ngày sợi đêm
Tình em nằm giữa gọng kềm
Khuya trăng lạnh cứng ngoài thềm lá rơi


HAI
Chắc em không phải hồ ly
Mảnh mai nhẹ bổng bước đi mơ hồ
Chắc em khộng phải thánh cô
Để ta còn ngắm trầm trồ líu lo


BA
Ngồi đây với cỏ chao lòng
Nghe mưa nặng nhẹ ròng ròng chưởi ta
Rằng mày không phải là ma
Mà là ngọn gió la đà khộng thôi

Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2010

Thơ Mường Mán


THƠ VIẾT Ở ĐÀ LẠT

Chợt thấy đôi khi lòng là quán
Trống tênh dăm ghế bụi mốc cời
Chờ nhau
Bếp đã thành tro nguội
Tay cũng đành
Mười ngón pha phôi

Chợt thấy đôi khi lòng là sóng
Cuốn tim bay theo bước chân người
Ngã bảy ngã ba
Tình mất bóng
Ngậm riêng mình nửa mảnh
Trăng phai

Chợt thấy đôi khi đời quá mệt
Ta rủ ta lên núi rong chơi
Cám ơn em
Đóa quì độ lượng
Đã hồn nhiên
Mở cửa đất trời...

MƯỜNG MÁN

Thứ Tư, 22 tháng 9, 2010

Thơ Cao Thoại Châu

Hoàng cúc ven sông

Một ngày trở lại bờ sông cũ
Cây lá đôi bờ vẫn tốt tươi
Nắng vẫn vàng như lòng mong ước
Vẫn hiền hòa lờ lững nước sông trôi

Những cảm xúc một thời xưa ấy
Xưa nhưng không cũ bao giờ
Rong rêu phủ trên bờ đá ấy
Dỡn cùng cơn sóng nhỏ đi qua

Như một lời chào ngày trở lại
Ấu thơ ơi tôi đã quay về
Thân tơi tả và hồn bụi bám
Lãng mạn một thời theo con nước đi xa

Cùng với những hồ nghi sự sống
Những tin yêu lắng đọng hôm nào
Bàn tay nhẹ đặt trên đá bến
Giật mình chai sạn biết bao nhiêu

Nước và đá và cây và gió sớm
Lao xao như biết đón tôi về
Những ấn tượng đã chìm trong ký ức
Mang về trả lại bến sông kia

Nước và đá và cây và gió sớm
Mà sao không thấy một người nào
Đã cùng qua một thời trẻ dại
Bây giờ phiêu dạt những nơi đâu

Ở những bến thường hay có quán
Cho người về tìm lại dấu năm xưa
Kẻ cô độc không người ra đón
Bơ vơ cũng thể một căn nhà

Trở lại thấy rất vàng hoa cúc
Không ai trồng vàng rực ven sông
Có phải đấy là tấm lòng tri ngộ
Đón tôi về tơi tả hay không ?

22-9-2010

Thứ Ba, 21 tháng 9, 2010

Hoa & phong vị Huế



Bạn Võ Quê từ Huế mới gửi tặng tập thơ
HOA & PHONG VỊ HUẾ
NXB Thuận Hóa
Sách dày 60 trang, gồm hai phần, thơ ca ngợi Hoa và các đặc sản ẩm thực hương vị Huế

XIN HÃY TÌM ĐỌC VÀ THƯỞNG THỨC

Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

Thơ Đinh Thị Như Thúy

NƠI NGÀY ĐÔNG GIÓ THỔI


một

Nàng ngẩng mặt lên trời cao. Đó là buổi sáng của một ngày đông đến sớm. Gió mang hơi lạnh chảy tràn trề nàng.

Từ đỉnh đầu. Nơi những sợi tóc lay động như những lá cây. Gió buốt lạnh tràn xuống mơn man khuôn mặt. Gió buốt lạnh tràn xuống. Tràn xuống nữa.

Trong mê đắm nàng nhìn những đàn chim xếp đặt một thứ tự rất đẹp bay hết về một phương. Nàng thì thầm bay đi bay đi. Trong những cánh vỗ kia nghe vang vang lời thoả nguyện của một ước muốn.

Trong mê đắm nàng lắng nghe những ngọn gió. Những ngọn gió đang rượt đuổi nhau. Mê mải. Không khởi đầu không kết thúc. Những ngọn gió như ngựa hoang. Ngùn ngụt suốt ngày suốt đêm. Cứ phía trước mà phi mà lồng lộn sải vó.

Mỗi ngọn gió ào ạt kể một câu chuyện. Những câu chuyện về những con người phiêu lưu mê dại tìm thấy nhau ở khát vọng tự do.

Tự do.
Ra đi.
Phiêu lưu.
Mê dại.

Nàng nghĩ rằng nàng biết những cảm giác đó.
Đó là cảm giác mùa đông của xứ sở này.


Nguồn: tienve.org

Thứ Sáu, 10 tháng 9, 2010

Thơ Thanh Tâm Tuyền (1936 - 2006)




SẦU KHÚC

1

Đêm về khuya tình đã vắng như màn trời
Này em đan cho anh những ảo tưởng
Với ngây thơ nào em còn sót

Ngày chưa lên gió cuồng trong hắt hủi
Bạn bè chia tay ném bỏ lại cô đơn
Một mình anh mang nặng

Con đường quen anh bước vào con mắt ráo hoảnh
Và chua cay rơi lá rụng trên hè
Vùng biển đen dâng chùm anh tịch mịch

Nỗi đêm im bập bềnh hòn đảo nổi
Bỗng trôi đi bàng hoàng
Hãy trói lại bằng tóc xoã như hồn em ngơ ngác
Cây mải miết không thưa rời lưu luyến
Đừng vội ném chuỗi cười xuống huyệt lạnh
Trên môi anh cúi nhìn dấu tích mối sầu

2

Anh chìa hai bàn tay khô héo
Nỗi tự do buồn phiền
Hai bàn tay những con đường cỏ cháy
Mùa hè thiêu đốt cả cô đơn
Em giữ lấy
Anh còn đâu ngoài nỗi chết ôm ghì
Trong bóng đen trơ trụi nơi vàm sông
Anh tìm kiếm
Tuổi ấu thơ hòn cù lao xa khuất
Và tình yêu như đám lau buồn
Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm
Ở sau lưng ở trước mặt
Anh thả người trôi nổi

Toàn thân anh rũ liệt
Những loài rắn rết đỉa nhờm
Nâng niu như đồng loại
Anh vẫy hai bàn tay chới với
Gửi lại niềm trong trắng sót thừa
Tặng phẩm đớn hèn
Anh từ biệt

3

Người con gái tóc dài
Đêm lạnh trên đầu núi
Trời sao chừng lãng quên
Câu chuyện tình ngắn ngủi

Khúc romancero
Chàng gi-tan máu nóng
Nostagic Blues
Chàng mọi đen lạnh lùng
Khúc xuân tình kỹ nữ
Là chiều nơi mắt em
Là chiều nơi nghĩa địa
Sâu nhỏ chôn chuyện tình

Đây là một bài ca
Kể rằng nàng đã chết

Đây là một bài ca
Kể rằng nàng đã sống
Cuộc đời như vết chém
Máu chảy xuối từng hồi

Máu chảy mãi rồi ngừng
Thành lời than ri rỉ
Nàng hấp hối và chết
Như một bài ca thương

Khi đêm chạy trở lui
Người nào thổi harmonica
Tôi đến bằng mọi cách
Tiếng kèn khóc oà

Mưa bẩn sân ga
Toa tàu hạng ba
Chuyến xe hàng ốm yếu
Thổ mộ con ngựa già

Đường mòn đưa đến huyệt
Đứa trẻ con thổi harmonica
Trong hoàng hôn tóc rối
Tiếng kèn khóc oà

Từ biệt nàng tôi hỏi
Em đã chết rồi chăng?
Trong quan tài nàng đáp
Ôi đất lạnh mưa băng

Tôi tìm thần chết hỏi
Nàng được tự do chăng?
Thần chết câm và điếc
Tôi nắm tóc bắt gật đầu
Và trở về dương thế

4

Đêm nào em không ngủ
Cái chết vuốt ve môi em bằng những móng tay buốt sắc
Bầu trời sắp tan vào nước mắt
Bởi anh mang nhốt lời yêu đương trong đáy mùa đông
Và dấu ngọn lửa âm thầm huỷ thiêu ký ức

Em biết không? Em biết không?

Anh chối từ một nửa thế giới
Thế giới sương mù trong trí nhớ
Muốn chạm vào đỉnh nào bén nhọn của thân em
Anh đụng tới loài côn trùng kinh hoàng đang thở

Em biết không? Em biết không?

Trong ngục tù giam giữ những than van
Người ta kêu một mình
Thành tiếng động dửng dưng đống sắt rỉ hoen rơi đổ
Não óc anh hàng chấn song nguyền rủa

Em biết không? Em biết không?

Khi em đi qua những đường phố dẫm nát những giấc mộng theo đòi
Hy vọng dội lên trong mọi hồi trống rỗng
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về chiều
Khóc thờ ơ ngoài không trung

Em biết không? Em biết không?

Anh đốt dần xác thịt như cành nhọn
Giữa chiều mùa đông ở đây trong cốt tuỷ
Tuyệt vọng trần truồng
Anh mong em ngủ yên thần chết kiên nhẫn chờ trọn kiếp

Em biết không? Em biết không?

5

Hắn bước ra giữa sân khấu dìu theo một bóng hình tưởng tượng. Không, không một bóng hình trong suốt. Hắn gục đầu vào vai người ấy mà khóc, không nước mắt, chỉ thấy hai luồng khói đục thở ra theo lỗ mũi mờ mịt cả gian phòng làm sặc sụa khán giả. Nhiều người cay chảy nước mắt nguyền rủa trò đùa vô ý thức. Mặt hắn bôi vôi trắng như tường môi hồng như trẻ con. Hắn nhăn nhó: tôi làm sao khóc được, lệ buồn có thể nhỏ, nhưng da mặt làm bằng vữa, tôi làm sao khóc được trên khuôn mặt bất động này. Nói xong hắn nhảy chân sáo, quấn cẳng vào nhau mà không ngã xuống sàn trêu chọc khán giả. Một người la: trò hề mày nhạt lắm, mày phải ngã lộn mèo như con vật nào thảm hại nhất cho tao cười với chứ. Hắn ngơ ngẩn, đứng im hai tay buông thõng, người ta cười, hắn không hiểu, người ta cười. Hốt nhiên người hắn bay lên lơ lửng và bơi trong không khí, hắn ném bỏ hết quần áo bốc mãi lên trần rồi biến mất.

Hắn lại chạy ra giữa sân khấu. Lần này hắn đứng về phía bóng hình trong suốt, đó là một người đàn bà, gục đầu vào vai tên hề bây giờ thành tưởng tượng. Đó là một người đàn bà thật đẹp. Người đàn bà khóc, tên hề đang đóng trò, khóc nức nở. Họ đang chia tay nhau, không thể nhìn thấy hai người cùng một lúc, họ ngăn cách nhau bởi chỉ có một người, người độc nhất là tên hề. Người đàn bà thở than ấy tên hề than thở. Đồ ngu dốt khốn nạn, đồ kiêu căng hợm hĩnh. Tên hề trở về vị trí của hắn, giơ tay xô mạnh người đàn bà đẹp đã hoá ra trong suốt. Hắn ra dấu với khán giả người đàn bà đã ngã, đang quỳ mọp níu chân hắn, hắn lấy chân đá hất, mặt ngửng lên lấy dáng thiểu não của đại đế Napoléon trong trận chiến Waterloo. Người đẹp đang lết lại gần như con sên hèn yếu, hắn cầm lên tay và liệng vào buồng. Một con chim bay ra, con dị điểu dữ tợn đáp xuống vai hắn, thân hắn nghiêng ngả như một pho tượng mất đế. Hắn rút trong người lấy khẩu súng và bắn ngược lên vai, khẩu súng phun nước lên hai gò má. Con dị điểu bay lên, móng sắc lột ngược y phục của tên hề, mỏ mổ lấy mặt nạ. Tên hề hiện nguyên hình là Napoléon, Napoléon mắm môi đang khóc.

Mày chỉ là tên hề buồn, tên hề buồn nhất thế giới chẳng làm ai cười nổi.

6

Như rừng cây trụi lá
Thở bằng cành khô
Cơn mộng hiền lành trở nên điên dại

Gỡ những lần tóc cháy
Nhìn vào mắt nhau
Con mắt thâm quầng như vết cắn

Trưa một màu Minh Châu
Trời hẹp hòi khôn kể

Phiêu lưu mãi là một nhà tù
Dãy tường câm chuyển động
Trên một triền vực sâu

Vũng nhỏ giữa bàn tay khô héo
Mang dấu tích tình yêu
Là những niềm bối rối

Chút hương trong miệng đắng
Như Minh Châu còn đây

7

Anh trở thành giấc mộng
Đường cỏ hoang em trở về
Đáy huyệt sâu hồn tóc cũ
Không ai biết chúng ta yêu nhau
Cuộc biệt ly nơi hư không
Con mắt nào ngó thấy
Mỗi lời như ngọn lửa
Đốt những kỷ niệm tội lỗi

Anh bỏ trống hết cuộc đời
Những buổi chiều ban mai
Những nhớ nhung bầu trời
Những vuốt ve trên bàn tay
Âu yếm trên da mặt
Không gian trong tay ôm
Thời gian trong máu chảy
Anh bỏ trống hết mọi người
Những người đẹp như hy vọng
Những người thân như quê hương
Những kẻ thù một kiếp
Những bạn bè không rời

Em đã chết đã chết
Trong im lặng hết thảy
Hằng hà nỗi trống không
Của đỉnh cùng tuyệt vọng
Ôi đêm nay đêm nay đêm nay
Lăn lộn cùng gai góc
Trong hốc đá tối tăm
Đớn đau ghì lấy em
Anh chỉ là giấc mộng

Một mình em vẫn biết
Chúng ta đã yêu nhau
Rồi anh sẽ ném trả
Hết nước mắt hết giọng cười
Hết phách hồn trí tuệ
Cho rừng sâu lịch sử loài người

Đến gặp em chốn ấy
Trời mưa giông bão bao nhiêu ngày
Con đường băng thái dương
Khoảng chúng ta cách biệt.


THANH TÂM TUYỀN
Trích: LIÊN, ĐÊM MẶT TRỜI TÌM THẤY (1964)

Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010

Ba bài thơ

Ngửi nắng

Mùa tháng chin thơm
Ngoài đường
Tiếng reo đồng nội
Lòng vi vu nhớ
Một cõi âm dương cuồng nộ
Bàn tay chờ
Nắm chặt những ngày
Không tiếng mưa rơi
Khoảng thời gian im đọng
Ngửi mùi nắng len vào da
Những ngày không bóng

Ai đi bên đường kia cất cánh tay vẫy
Chào



Ngày khô

Chị chàng hiu hót bên cánh lá
Lá xanh cây xanh trời xanh
Giọt sương ngời ánh sáng
Một chút mây cũng xanh trong màu nước
Ngày mở đầu trống
Không bước đi những bàn chân son thiếu nữ dậy thì

Bày biện hàng quán ngày nghỉ vắng
Dựa lưng bên ghế
Thời gian bước qua ngày
Khô



Hư tưởng

Tôi bỏ em vào túi áo rồi gài nắp lại
Suốt mùa thu không dỡ ra
Tôi bỏ em vào chiếc ly đầy nước
Bơi bập bềnh hết mùa hè
Tôi bỏ em vào trái tim tôi
Theo hồng cầu chu lưu cùng mạch máu
Có những điều không dự tưởng
Khi yêu


TỪ HOÀI TẤN

Thứ Ba, 7 tháng 9, 2010

Nguyên Minh : Trăng Lưng Đồi (Tạp bút)

Chân dung Nguyễn Đức Sơn qua nét vẽ Đinh Cường

Nguyên Minh, Nguyễn Đức Sơn, Lữ Kiều, Đinh Cường

Chuyến đi có Châu Văn Thuận, vợ chồng Hồ Thanh Ngạn, vợ chồng Lữ Kiều và tôi, vào lúc 10 giờ tối trên xe Phương Trang. Ngồi dựa mình trên ghế nệm, thả hai chân thoải mái xuống gầm xe, suốt đêm tôi chỉ thiếp đi trong khoảng thời gian ngắn ngủi.

Đến Đà Lạt mới 4 giờ sáng. Mưa lâm râm, đủ ướt mình, đủ lạnh run, nhưng tôi phải gồng người, hai chân chàng hảng, bước từng bước một, chậm chạm, dò dẩm, trên con dốc hẹp và trơn. Đến cổng nhà có gắn chiếc bảng nhỏ mấy chữ “điền trang Thân Trọng”, tôi xem như vừa về đến nhà của mình sau một chuyến đi xa. Đáng lẻ tôi phải vùi mình trong tấm nệm bông, ngủ một giấc cho lại sức, nhưng phí đi nếu không nhìn tận mắt cảnh rạng đông ở núi đồi cao nguyên, mà không đâu xa, trước mắt mình, tại ngôi nhà này.


Như mọi lần lên Đà Lạt, ở nhà Lữ Kiều, tôi hay ngồi trên ghế sa lông nệm, dựa ngửa mình, gối đầu trên thành ghế, nhìn ra ngoài khung cửa chính, trầm ngâm với cảnh vật thiên nhiên, đồi núi mênh mông. Bây giờ trước mặt tôi vẫn còn là một màn đen của bóng tối. Bỗng từ trên cây bơ sum sê cành lá bên cạnh nhà phát ra những tiếng kêu của một loài chim lạ, lanh lảnh, như một tiếng thét gào của ai đó trong cái tỉnh mịch, yên lặng, làm tôi giật mình. Rồi con chim vỗ cánh bay đi. Tiếng chim kêu thế tiếng gà gáy báo hiệu trời mới sang canh. Tôi như đang ngồi trong rạp hát xem một vở kịch câm, màn từ từ cuốn lên, và cảnh vật hiện ra từ dưới lên trên rồi mới tới toàn cảnh dưới ánh đèn lờ mờ của sân khấu. Cảnh vật trước mặt tôi từ từ hiện hình, màu xám rồi đến màu xanh lạt và đậm dần của những hàng thông trùng trùng điệp điệp từ dưới thung lủng chạy lên ngọn đồi, mái nhà của khu biệt thự lẻ loi, ở tít đàng xa, như một cái chấm nhỏ màu đỏ trên toàn bức màu xanh của rừng cây và màu xám của mây trời. Thời gian chuyển động qua màu sắc đổi thay. Màu thời gian.

Cũng tại nơi này, khung cảnh này, cách đây 12 năm trước, sau trên hai mươi năm gác bút, tôi khởi đầu lại nghiệp văn chương của mình. Bấy giờ, mặc cho Lữ Kiều, Lê Ký Thương say sưa vẽ tranh sơn dầu, cũng cảnh núi đồi trước mặt, tôi trầm ngâm suy nghĩ, nhận ra màu thời gian chuyển hóa, nhận ra mình cũng biến dạng theo dòng lịch sử, và tôi đi tìm lại cái gì tôi đã bị cướp mất. Tôi viết một mạch, liên hồi qua bài mở đầu “Tưởng chừng đã quên”.

Còn giờ đây, anh nắng mặt trời đã chiếu xuống những vệt màu vàng nhạt lên những khóm hoa trong vườn. Tiếng xe chạy, tiếng nói của những người hàng xóm đã bắt đầu vang lên, lại là lúc chúng tôi chui đầu vào tấm mền bông, ngủ vùi.

Thức dậy mặt trời đã lên đỉnh đầu. Cả bọn kéo nhau ra phố, dạo một vòng, rồi vào ăn trưa ở một nhà hàng mà Lữ Kiều đã quen vợ chồng chủ nhân từ lâu, trước năm 1975. Xong bửa, chúng tôi lang thang, tìm đến một quán cà phê ngồi nhìn xuống con đường quanh co khúc khuỷ nói chuyện bâng quơ. Về lại nhà phải xuống dốc, lưng chừng tôi đứng thở, mới biết mình đã già, sức yếu. Thả người xuống, ngã lưng vào thành ghế sa lông, mắt nhìn mãi không chán cảnh núi đồi trước mặt.

Ngôi nhà của Lữ Kiều nằm ở lưng chừng sườn đồi, không bị che chắn bởi một mái nhà nào, khu vườn từng bậc cấp trồng hồng, cà phê, dọc xuống thung lủng. Và bên kia là đồi thông bao la. Thường khi Lữ Kiều nhờ người hàng xóm trông nom vườn tược, còn ngôi nhà thì đóng cửa kín mít. Thỉnh thoảng vợ chồng Lữ Kiều từ Sài Gòn lên đây nghỉ ngơi và cùng nhau vẻ tranh. Trên vách nhà gỗ treo những bức tranh của các họa sĩ đã từng đến ngôi nhà này như Dương Cẩm Chương, Lưu Công Nhân, Lê Ký Thương, Lê Triều Điển, Phạm thị Quí, Đinh Cường. Tiếc rằng tôi không biết vẽ dù từ ngày thơ ấu tôi ước mơ sau này mình trở thành họa sĩ.

Đáng lẻ 3 giờ chiều này Đinh Cường sẽ đến như đã hẹn. Sốt ruột, Lữ Kiều phải gọi điện thoại mới biết Đinh Cường đã đến phi trường Liên Khương từ lâu nhưng anh cho biết sẽ đến muộn vì đang ngồi uống cà phê với Nguyễn Đức Vân, con của Nguyễn Đức Sơn.

Một tiếng đồng hồ sau, Đinh Cường lửng thửng từ cổng bước vào. Lữ Kiều và tôi ra đón. Đinh Cường nở nụ cười và nói nhỏ:
- Cái dốc quá xuôi làm mình hơi mệt.

Tôi biết Đinh Cường vừa trải qua một cơn bạo bệnh. Tôi nhìn cái va li to, căng đầy, tự nghĩ đi chơi vài ngày, chuyện gì mang quá nhiều hành lý thêm cho mệt. Xuống cái dốc này mà còn phải cầm cái cần dài của cái va li có những bánh xe, tôi tưởng tượng Đinh Cường như một người đang cưởi ngựa, mà phải ngả người ra phía sau cố ghì dây cương để buộc con ngựa là sức nặng của hành lý đang phi nhanh phải chạy chậm lại. Đinh Cường nói với tôi:
- Nếu Nguyên Minh có tường thuật chuyến đi này nhớ nhắc đến cái dốc này nghe.
Tôi gật đầu. Vào đến nhà, Đinh Cường thả người xuống ghế sa lông và đưa mắt nhìn đăm đăm ra ngọn đồi trước mặt. Một lát sau, anh mở cái xách nhỏ lấy ra hai gói trà Ô Long, hai cái DVD và một tập bản thảo cuốn thơ đặt lên bàn:
- Nguyễn Đức Vân biết mình lên ĐàLạt. Hắn đón mình và tặng quà đây.

Lữ Kiều mở gói trà Ô Long bỏ một nắm vào cái bình bằng sứ, chế nước sôi, một lát rót ra những cái tách nhỏ và chúng tôi nhấm nháp, thưởng thức. Đinh Cường rủ ngày mai mướn chiếc xe taxi về Phương Bối thăm Sơn Núi. Cả bọn đều đồng ý. Lữ Kiều mời:
- Còn tối nay tụi mình đến uống cà phê tại Palace.

Lần nào lên Đà Lạt, Lữ Kiều cũng rủ chúng tôi vào đây uống cà phê và nghe tiếng đàn dương cầm của một người bạn trẻ. Còn đêm nay, anh ta vắng mặt, thế vào đó là một cô gái, mang kính cận, dáng nhỏ nhắn, vai gầy, hai bàn tay xinh xắn lướt nhẹ trên phím đàn.

Chúng tôi ngồi ở bộ bàn ghế sa lông nệm, trước cái lò sưởi, mang cảm giác ấm cúng, như tôi đang ngồi trong ngôi nhà thân yêu của mình, nếu không nhìn ra hành lang rộng và dài đặt nhiều bàn ghế trải khăn trắng để đón khách dự buổi ăn tối.

Đinh Cường ngồi một mình, thỉnh thoảng nhìn người phụ nữ luống tuổi – dì của Lữ Kiều – mà mỗi lần chúng tôi lên đây Lữ Kiều đều mời dì cùng đi chơi, Đinh Cường cầm cây bút chì quệt quạt lên tờ giấy trắng khổ A4 chân dung dì Toàn. Tôi đến đứng sau lưng Đinh Cường, im lặng và xem bức họa. Không đầy 15 phút đã hoàn thành một phát họa chân dung một thiếu nữ, đặc biệt là đôi mắt mang vẽ u hoài. Đinh Cường đề tặng Quận Chúa K. Tôi ngạc nhiên bao nhiêu năm, bao nhiêu lần cùng đi chơi với dì Toàn, bây giờ mới biết tên thật của dì, và là một người hoàng tộc.

Tiếng đàn dương cầm thánh thoát, âm thanh bay bỗng lên trần nhà và dội xuống, trong gian phòng ấm cúng, bản nhạc Danube Bleu, làm tôi thấy lòng nao nao, nghĩ đến một ai đó, trong tận cùng trí nhớ. Tôi nhẹ nhàng bước đến chiếc dương cầm, và nhìn cô gái đang thả hồn mình theo từng nốt nhạc. Tôi buột miệng thốt lên, rất nhỏ, gọi tên:
- Phương Anh.
Đó là tên cô cháu gái, con đầu của chị Mai, người chị mà suốt đời tôi kính yêu. Giữa hai cậu cháu đã một thời gắn bó, mang nhiều kỷ niệm. Chính nhờ Phương Anh, cô bé có chiếc răng khểnh, nụ cười có lúm đồng tiền, lúc 12 tuổi khi nghe tôi kể chuyện thời thơ ấu của tôi với Hà - cô bạn láng giềng, mà tôi vừa dẫn Phương Anh ra ga Nha Trang đón Hà từ Sài Gòn ra thăm tôi. Lúc bấy giờ, năm 1969, tôi nằm trong Quân Y Viện Nguyễn Huệ, chờ ngày ra giám định y khoa. Gia đình chị Mai từ Huế vào sống ở Nha Trang. Phương Anh cứ khen mãi về cô Hà. Thế là, suốt một tháng, đêm nào tôi cũng thức khuya viết cho xong truyện dài Đám Tang Đa Đa. Đọc xong bản thảo Phương Anh nói: “Cậu nhớ khi nào sách xuất bản nhớ đề tặng Cháu Phương Anh và cô Hà nhé.” Tiếc rằng khi tôi cho xuất bản “Đám Tang Đa Đa” vào năm 1972, thì Phương Anh đã đi Pháp du học rồi. Còn cô bạn láng giềng “Bắc kỳ nho nhỏ” cũng lên xe hoa. Không những riêng Hà, kể cả T. và Lan, sau này Phương Anh đều gặp họ. Cô cháu gái nói nhỏ với cậu mình trước khi chia tay: “Ráng giữ những tình cảm trong sáng của ba người đàn bà đó nghe cậu.” Tôi nắm chặt bàn tay cô cháu gái như một câu trả lời. Sau này trong truyện “Sợi chỉ mong manh” tôi đã viết: trong trái tim tôi vị trí ba người đàn bà đó; một người bạn, một người yêu và một người vợ có một chỗ đứng khác nhau.

Tưởng rằng chỉ có tôi thấy cô gái say mê, đắm đuối thả hồn theo tiếng đàn dương cầm. Ai ngờ, Lữ Kiều cũng men tới, đứng tựa tay một phía bên phải cây dương cầm, cũng như tôi đang đứng về phía tay trái. Cả hai đang chiêm ngưởng và cùng nói với nhau: Nhớ Phương Anh. Nhớ dáng người. Nhớ tiếng đàn dương cầm của cô cháu gái thân yêu ngày nào trong phòng khách ngôi nhà cũ. Thánh thoát. Từng giọt âm thanh buồn. Phương Anh giờ này đã thành thiếu phụ hạnh phúc bên chồng con. Không biết cô cháu gái đó có bao giờ nhớ đến cậu mình.

Tiếng đàn ngưng bặt. Cô gái gật đầu chào chúng tôi. Khách trong nhà hàng cũng vắng tanh. Chúng tôi ra về, lòng tôi man mác buồn. Trời Đà Lạt vẫn còn mưa lâm râm.
Nhìn đám củi mà người giữ vườn đã chất đống giữa sân được phủ lên tấm bạt che mưa, Lữ Kiều thích chí, hỏi chúng tôi:
- Mưa đã tạnh. Trăng mới tỏ. Đốt lửa lên chứ.
Lửa cháy bập bùng. Tiếng nổ lách tách. Ngồi xoay quanh chiếc bàn tròn, 5 ly rượu cùng cụng vào nhau, đưa lên môi mấp nháp, tôi nhìn những khuôn mặt các bạn vầng trán đã gấp nét nhăn, nụ cười đã xếp ly, khóe mắt đã mỏi mòn, tóc đã trắng bạc, bàn tay gân guốc, nhưng tâm hồn vẫn như thuở còn thanh xuân. Đinh Cường từ Mỹ về, ra Huế triển lãm tranh cùng với Hoàng Đăng Nhuận đang còn ngồi trên chiếc xe lăn, một tay Nhuận bị xuội, tay còn lại vừa mới cầm được cọ vẽ. Nhuận bị đột quỵ đã mấy năm nay. Đinh Cường cũng mới qua cơn bạo bệnh, sức khỏe chưa ổn. Lữ Kiều nói với Đinh Cường:
- Đinh Cường vào ngủ trước đi, dưởng sức mai còn một chuyến đi xa.

Còn lại bốn chúng tôi ngồi với nhau, đáng lẻ phải có Lê Ký Thương và Đỗ Hồng Ngọc, hai bạn này vắng mặt vì bận việc là sáu người còn lại trong nhóm chủ trương tạp chí văn học Ý Thức ngày xưa còn lại ở Sài Gòn. Vắng mặt Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư còn tạm trú trên đất người.

Bên ánh lửa hồng, cái nóng tan ra, lan vào thân xác mình. Còn những lời nói với nhau nhẹ nhàng êm ái sao mà như những hòn đá nặng nề rơi xuống đè nặng trái tim tôi. Đã mang cái nghiệp văn chương thì suốt đời phải trả bằng những tác phẩm chân chính mang đậm tình người, tình quê hương, không gian dối với lòng mình, không uốn cong ngòi bút vì lợi danh. Nếu không viết được nữa thì ngưng bút trải lòng mình qua màu sắc của hội họa như Lữ Kiều, Lê Ký Thương. Hoặc như Châu Văn Thuận dịch sách, dịch kinh Phật. May cho tôi, vẫn còn một trái tim nồng nàn khi gặp lại người yêu xưa. Bên cạnh đó vẫn còn một người vợ hiền, đảm đang, để cho tôi yên tâm, có thì giờ theo đuổi mộng văn chương. Nếu tôi không viết văn được thì tôi mang tội rất nhiều với những bạn bè, người thân và cả lịch sử nữa, đã cho tôi những điều hạnh phúc cũng như nỗi đau đớn ê chề. Cả Hồ Thanh Ngạn, Châu Văn Thuận, Lữ Kiều, Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh đều nhận xét và đồng ý với tôi: “Đến tuổi thất thập cổ lai hy này rồi đâu còn màng đến danh vọng, tiền tài nữa, nên dùng văn chương để trải lòng mình những chiêm nghiệm về đời sống mình đã trải qua.” Nên tôi chỉ bị thôi thúc bởi những cảm xúc, sống lại với nhân vật mà tôi sắp dựng lên cho một bài văn, có thể vừa gọi là ký, tuỳ bút, tự sự hay truyện ngắn gì cũng được. Trong đó sự kiện thì có thật, nhân vật lại nửa thật nửa hư, và hồn tôi lại nhập vào họ, cũng như họ hòa vào tôi. Viết về họ cũng như viết về tôi.
Trăng đã lên cao. Sương mù lúc có lúc tan. Có rồi tan. Tan rồi có. Lửa cũng sắp tàn. Gió mang theo cái lạnh run người. Chai rượu đã cạn hồi nào không hay. Đúng là rượu ngon phải có bạn hiền, những người bạn đi bên cạnh tôi suốt cả cuộc đời. Trời đã khuya lắm chúng tôi mới vào nhà, tìm một giấc ngủ ngon.

Buổi sáng, như đã hẹn, chiếc xe taxi đến đúng giờ, người tài xế gọi điện chờ chúng tôi trên mặt đường lộ. Lữ Kiều hướng dẫn cho anh tài xế vào nhà để giúp Đinh Cường vác lên chiếc va li bỏ vào xe. Tôi cười với Đinh Cường khi nhìn anh thanh niên vác lên vai chiếc va li mà dáng đi đã khệnh khạng, huống gì với tuổi già sức yếu làm sao Đinh Cường có thể mang lên. Đi về Bảo Lộc đến thăm Nguyễn Đức Sơn mang làm gì chiếc va li kềnh càng như thế. Như biết tôi thắc mắc. Đinh Cường nói nhỏ:
- Mang quà cho Phượng và các cháu.

Phượng là tên vợ Nguyễn Đức Sơn.
Chiếc taxi 7 chỗ chạy bon bon trên con đường nhựa láng trơn hơn hai tiếng đồng hồ mới đến nơi Nguyễn Đức Sơn hẹn. Cầu Đại Lào. Đợi không lâu, con gái của Sơn đi chiếc xe gắn máy chạy ra đón chúng tôi lên Phương Bối. Con đường đất nhỏ gồ nghề, quanh co và lên dốc rồi vào lối mòn dưới hàng thông xanh. Nguyễn Đức Sơn đón chúng tôi. Trước mặt tôi, Sơn bây giờ là ông lão già lụ khụ chống cây gậy tre. Trước đây hai năm tôi có gặp lại Nguyễn Đức Sơn tại Galery Tự Do ở Sài Gòn trong dịp khai mạc triển lãm tranh của Thân Trọng Minh và Vũ Thanh Hằng, sau mấy chục năm gặp lại, cả tôi và Sơn đều già cả, bạc đầu, nhưng sức khoẻ của Nguyễn Đức Sơn không yếu như bây giờ.

Chị Phượng và cô con gái chuẩn bị buổi ăn trưa, đải khách. Món càry chay. Măng rừng cạnh nhà. Khoai tây cũng trồng sau nhà. Chỉ có bánh tráng nướng, đậu hủ miếng là mua ngoài thôi. Cả gia đình Nguyễn Đức Sơn đều ăn chay trường từ lâu.

Ngồi trên chiếc chiếu trải giữa hàng hiên hai nhà trên và dưới, gần mười người ngồi sát bên nhau, như truyền hơi ấm cho nhau. Suốt trong buổi họp mặt, chúng tôi chỉ im lặng và thỉnh thoảng phá lên cười thích thú nghe Nguyễn Đức Sơn chưởi thề, văng tục và kể chuyện tiếu lâm thời đại. Tôi ngồi bên cạnh Nguyễn Đức Sơn, tình cờ bắt gặp nơi cánh cửa nhà sau bóng dáng người đàn bà một thời nhan sắc tuyệt đẹp có đôi mắt màu ô liu cùng nụ cười duyên dáng tươi vui, mái tóc màu vàng ửng và uốn cong của cô học trò, người yêu, người vợ của nhà thơ, nhà văn Sao Trên Rừng, bây giờ trở nên tiều tụy, không phải chỉ do thời gian tàn phá mà hình như do cái cực khổ vì lam lủ, hồn lẫn xác. Người đàn bà nhìn tôi với đôi mắt u hoài, xa xăm. Hai tay vòng lại ôm lấy ngực. Mái tóc bạc phơ, xơ xác như mấy cọng râu bắp, búi lại trên đầu. Ánh sáng lờ mờ làm hình ảnh người đàn bà đó thêm bi thảm. Trong tôi bừng lên một nỗi xót xa, và nước mắt tôi sắp chảy ra. Hình như Đinh Cường, đang ngồi đối diện với tôi, nhận thấy nỗi xúc động của tôi, anh đứng dậy mang chiếc va li vào nhà sau, chị Phượng cũng khuất bóng.

Lát sau, Đinh Cường trở ra, ngồi xếp bằng, trên tờ giấy trắng anh cầm cây bút than nguệch ngoặc vẽ chân dung Nguyễn Đức Sơn. Sơn cứ nói. Đinh Cường vẫn im lặng vẽ. Sơn cứ vung hai tay làm bộ tịch diễn tả cảnh một bọn lâm tặc chận đường muốn đâm chém anh, như một con khỉ đang làm trò xiếc. Đinh Cường thỉnh thoảng nhìn vào khuôn mặt Sơn rồi ngón tay của Đinh Cường chạy như cua bò trên trang giấy. Nét khắc khổ, trầm tư, ngạo mạn, cô đơn triền miên của một con người đầy cá tính của Nguyễn Đức Sơn qua nét vẽ của người họa sĩ và là bạn thân nhau từ thuở xa xưa là Đinh Cường đã làm tôi cảm động về một tình bạn. Đinh Cường bảo Nguyễn Đức Sơn viết vào đó vài chữ: Sơn Núi, Phương Bối ngày…Như một bút tích, kỷ niệm ngày gặp lại nhau. Tôi hiểu Đinh Cường chuyến lên Đà Lạt kỳ này của anh không ngoài việc thắp nhang trước mộ bà mẹ vợ và mang quà cho vợ con người bạn thân. Nguyễn Đức Sơn nhìn khuôn mặt mình qua nét vẽ của Đinh Cường, nỗi xúc động hiện ra trong đôi mắt đục ngầu, anh nháy mắt lia lịa và tay run run khi ký tên mình. Đinh Cường và Nguyễn Đức Sơn nắm chặt tay nhau. Nhìn nhau. Không nói gì. Nhưng tôi biết là hai người bạn già đang khóc thầm.

Cô con gái út dẫn thêm hai cô bạn cùng lứa về nhà, gặp chúng tôi các cô chào hỏi và cười vui vẻ. Không khí tươi vui của tuổi trẻ làm khu rừng thông này bớt thâm u, lúc này chị Phượng xỏa tóc xuống quá bờ vai, và nở nụ cười đưa hai hàm răng trắng trên khuôn mặt đã nám xám. Hằng, Phương và tôi cùng chụp một tấm ảnh trước cái giếng, tàn tích còn lại Phương Bối Am này. Đinh Cường, Lữ Kiều cùng Nguyễn Đức Sơn đứng trước cái chòi nhỏ bằng gỗ không thấy cửa sổ, và cánh cửa cái cũng khép kín mít. Đinh Cường chỉ chỗ ngủ của “Sơn Núi” đã bao đời nay. Quanh đó là khu vườn nhỏ, những bụi chuối, những cây mít, cây đu đủ đầy trái, cùng những hàng tre, hàng trúc, và trước mặt chúng tôi nhìn xuống sườn đồi là một rừng thông xanh ngát, bao la. Người ta phá rừng, chặt cây lấy gỗ, lấy đất làm làm trang trại. Nguyễn Đức Sơn lại đem cây giống trồng xuống, một rừng thông bao la xanh ngát màu xanh. Tình cờ tôi thấy trên TV người ta giới thiệu anh là một người bảo vệ rừng. Cái tên và nhất là bút hiệu như vận vào đời mình. Sao Trên Rừng. Những bài thơ, những truyện ngắn của Sao Trên Rừng xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo gần năm mươi năm trước đã làm độc giả ở miền Nam, trong đó có tôi say mê. Sau đó Sao Trên Rừng dùng lại đúng tên thật trong giấy khai sanh: Nguyễn Đức Sơn. Hết Rừng đến Sơn. Làm sao anh không gắn cuộc đời mình với rừng với núi. Bạn bè thân thích đều gọi anh là Sơn Núi. Anh đã trồng một rừng thông bao la nên rừng sẽ bảo bọc anh. Núi sẽ che chắn anh. Phải không Nguyễn Đức Sơn.

Nguyễn Đức Sơn rủ chúng tôi cùng đi vào trung tâm thị xã Bảo Lộc vào một quán cà phê mà chủ quán là bạn của các con gái anh. Quán mang tên “Lối về”. Cô chủ quán tên Thanh, có cái răng khểnh và nụ cười hồn nhiên. Cảnh vật của một sân vườn nhỏ, dễ thương. Ngồi bên cạnh Nguyễn Đức Sơn, trong không khí ấm cúng, tôi nhắc đến Mỵ, một nhân vật nữ trong một truyện ngắn của Sao Trên Rừng tôi không còn nhớ tựa truyện đã làm từng làm tôi say mê và đánh giá rất cao, đó là một truyện ngắn hay nhất của anh. Anh nắm lấy tay tôi bóp chặt. Đôi mắt anh nhìn về một cõi xa xôi nào đó, như đi tìm hình bóng người yêu đầu đời đã nằm tận đáy lòng bị khối núi thời gian nặng nề che lấp. Mối tình đó đã từng làm Nguyễn Đức Sơn đau khổ ê chề. Nguyễn Đức Sơn bỏ ngôi nhà người chú ở Đơn Dương ra đi. Người chú họ và gia đình bán nhà cũ kéo xuống núi, về đồng bằng, mua nhà ở cạnh nhà tôi tại Phan Rang. Cô Mỵ và các người em thành những người bạn thân thiết với chị em tôi.

Nguyễn Đức Sơn nói nhỏ với tôi:
- Ông S. còn sống không?
Tôi lắc đầu. Sao anh không hỏi: “Bây giờ Mỵ sống ra sao?” để tôi trả lời “Đã lâu lắm rồi. Ông chú họ và người vợ già đã chết. Mỵ cũng bặt tin.”

Nhắc đến Mỵ, Nguyễn Đức Sơn không còn nói huyên thiên, anh im lặng. Và tôi cũng im lặng. Chợt tôi nhớ đến T.

Chúng tôi lên xe về lại Đà Lạt bỏ Nguyễn Đức Sơn ngồi lại một mình trong cái quán đó với nổi cô đơn tận cùng ray rứt tâm can anh.

*
Đáng lẻ bài viết đến đây là chấm dứt nếu như tôi tình cơ không nghe những bài ca của Nguyễn Đức Vân từ trên mạng. Album Màu Thương Yêu của Nguyễn Đức Vân đã làm tôi ngạc nhiên, tôi nghe đi nghe lại, lời ca tiếng nhạc thấm vào tâm hồn của một ông già 70 tuổi là tôi. Ca từ giản dị, như lời thì thầm nói về Mẹ, về Cha, về núi đồi Phương Bối, với tất cả lòng yêu thương và vị tha bao la vô bờ bến.

Tôi rất mừng là Nguyễn Đức Sơn có một người con như thế.
Tôi cười một mình khi nghĩ đến có một ngày tôi gặp mặt Nguyễn Đức Vân tôi sẽ gọi anh là “Vân Mây” thân mật như với cha anh là “Sơn Núi”. Cha là Núi. Con là Mây. Cha là Sao Trên Rừng. Con là Mây Trên Đồi./.

Sài Gòn 1 tháng 9 năm 2010
Nguồn: vanchuongviet.org

Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2010

Nguyễn thị Hậu : Từ Một Con Đường


Đường Đồng Khởi có lẽ là con đường nổi tiếng nhất trong những con đường đẹp, buôn bán sầm uất và có tuổi đời xưa nhất của Sài Gòn.

Nằm ở
quận 1 đường Đồng Khởi có chiều dài gần 1km, bắt đầu từ ngã tư với Nguyễn Du ngay trước mặt Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn và kết thúc là đường Tôn Đức Thắng nhìn ra sông Sài Gòn.Trên con đường này tập trung nhiều khách sạn sang trọng, cửa hàng, tiệm cà phê, hiệu sách… đã trở thành địa chỉ văn hóa quen thuộc và in đậm dấu ấn trong tâm trí nhiều thế hệ người Sài Gòn và những người từng đến, từng ở Sài Gòn. Hình ảnh những khách sạn, cửa hàng như thế đã trở thành biểu tượng văn hóa của con đường.

Tại đây khách sạn Continental trong việc trùng tu để có một khách sạn hiện đại đã rất khôn ngoan khi giữ lại kiến trúc cũ, chắc chắn không phải vì nhà đầu tư không đủ nguồn lực xây dựng tòa nhà lên hàng chục tầng để khai thác lợi nhuận từ số diện tích tăng lên rất nhiều.. Nhưng, chắc hẳn chủ đầu tư đã tính đến việc sẽ khai thác nguồn lợi từ “thương hiệu văn hóa” bao gồm vị trí cảnh quan, gíá trị lịch sử - tuổi đời, ký ức của những người từng đến, từng ở khách sạn, giá trị những sự kiện đã diễn ra ở đây, những nhân vật nổi tiếng đã từng lưu trú tại đây. Việc khai thác “lợi nhuận” này ngòai việc tăng kinh phí đóng góp cho thành phố (qua thuế, các dịch vụ khác…) còn mang một ý nghĩa to lớn là đã bảo tồn và khai thác một cách phù hợp và có hiệu quả gía trị di sản văn hóa của thành phố. Đóng góp này tuy “vô hình” nhưng lâu bền vì nó tác động vào tình cảm con người, làm chiếc cầu tiếp nối ký ức của nhiều thế hệ.

Tôi chưa từng lưu trú một ngày nào trong khách sạn Continental nhưng đã có lần dự tiệc, họp hành tại đây. Tất nhiên tôi biết rằng giá cả chi phí dịch vụ ở đây không như nơi khác vì là khách sạn 4*. Không rõ việc xếp lọai khách sạn có tiêu chí nào về giá trị “phi vật thể” của khách sạn đó không? Nếu không thì thật đáng tiếc! Vì giá trị “phi vật thể” có thể “quy đổi” thành “vật thể”: chi phí tại đây cao hơn vì ngòai chi phí cho tiện nghi dịch vụ còn có “phí” từ giá trị lịch sử của khách sạn. Đừng bỏ lỡ những cơ hội vàng như thế để giới thiệu và nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam. Khách nước ngòai và trong nước khi chấp nhận chi phí cao có nghĩa là họ hiểu về gía trị “tiềm ẩn” của khách sạn, thể hiện một “đẳng cấp cao” vì họ không chỉ quan tâm, đòi hỏi tiện nghi sang trọng mà còn có sự hiểu biết trân trọng lịch sử - văn hóa của khách sạn đó nói riêng và Việt Nam nói chung. Ai mà không muốn trở thành người giàu có về tiền bạc và sang trọng về văn hóa?

Có thể người VN chưa quen với cách tính phí cao từ giá trị “vô hình” như vậy, nhưng vì sao không tạo ra một thói quen mới rất văn minh? Cũng như các tour du lịch VN ra nước ngòai đều có việc đưa du khách tham quan bảo tàng của nước sở tại, dù trong nước hầu như người VN chưa có thói quen đến bảo tang tham quan và giải trí.

Nói đến đường Đồng Khởi nhiều người sẽ nghĩ ngay đến tiệm cà phê Givral nổi tiếng trên con đường này. Cà phê Givral đã từng (và sẽ mãi) nổi tiếng vì giá trị vô hình của nó. Nhưng hiện giờ nó nổi tiếng hơn bởi ca khúc “Vĩnh biệt Givral” – C’est fini Givral. Ca khúc này làm ta nhớ đến bộ phim lãng mạn làm rung động bao nhiêu con tim “Mùa hè cuối cùng ở Capri”, còn bây giờ nó làm nhiều người rưng rưng nước mắt. Một phần quá khứ của mình, một phần quá khứ của Sài Gòn đã không còn nữa. May ra chỉ còn trong ký ức của thế hệ U 50, U 60 trở lên mà nay nhiều người không còn ở Sài Gòn…

Một vùng đất đánh mất ký ức, một thành phố không còn ký ức, những thế hệ con người không có ký ức… chẳng ai muốn điều đó xảy ra. Mong sao sẽ không có những “Givral khác”, sẽ không phải nghe “C’est fini…” đối với những di sản văn hóa ít ỏi còn lại của Sài Gòn./.


Nguyễn thị Hậu