Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

NHÀ VĂN SƠN NAM VÀ NỖI ĐỜI TRÔI NỔI . / bài của KIÊN GIANG- HÀ HUY HÀ .


"... nhớ ơn người vú nuôi gốc Miên ( Campuchia ) Phạm Minh Tày lấy bút hiệu Sơn Nam . ..."



Phạm Minh Tày ( nhà văn Sơn Nam ) đã chuyển kiếp từ ngày 13 - 8 - 2008 . Hạt bụi không nghiêng mình nhớ đất quê mà du cư đến Bến Cát Bình Dương , an giấc ngàn thu ở công viên Nghia trang Chánh-Phú- Hòa .
Đồng bào ở Kiên Giang, nhất là các bạn trong Hội Văn học Nghệ thuật Kiên Giang hơi bàng hoàng khi Sơn Nam không gói mình trong câu thơ :

Sống thì xuôi ngược bôn ba
Chết về đất mẹ quê cha ngủ vùi ...

Riêng tôi cảm thấy áy náy hụt hẫng khi Sơn Nam vẫn rời cố thổ ở phút cuối đời . Lắng lòng suy tư , hóa giải sự đắn đo , không riêng của tôi mà một số con cháu thân nhân vẫn thỏa lòng nhìn thấy Sơn Nam an giấc ở phần mộ nằm trong công viên Chánh-Phú-Hòa cũng ấm áp khang trang .

Một ông già miền Nam hốc U Minh trên 60 năm cuộc đời hành trình đầy chông gai hố sâu ... an giấc ngàn thu ở Bình Dương , từ tấm lòng ái mộ mộ nhân tài hiếm hoi ở miền Nam . Đó là một ân huệ .

Trên 50 cây số , người có lòng với Sơn Nam thuở sinh tiền nên không thể xem là khỏang cách vô cùng cách trở . Khoảng cách này cũng là một thử nghiệm với ai còn thương kính Sơn Nam :

Thác còn tinh anh hồn văn gửi lại
Non trăm đầu sách quý của Sơn Nam

Nhớ đời Sơn Nam . Tôi mong mỏi giới bạn đọc cho phép tôi kể sơ mối quan hệ đời thường , đời văn học nghệ thuật và mấy đêm sau cùng với Sơn Nam ở nhà tang lễ 25 Lê Quý Đôn, tp. Hồ Chí Minh .

Năm 1945 , Sơn Nam học trường Collège de Cần Thơ với phẩm chất học sinh giỏi được phụ cấp . Tôi thi rớt , học trường tư thục Nam Hưng Cần Thơ . ( ở trường Delanuoe ) , nay là trụ sở UBND phường An Lạc . Từ đó, hai đứa học trò đồng hương mới có dịp gặp nhau lần đầu trong tình đồng hương .

Năm 1946 - 1954 , cùng tham gia kháng chiến ở tỉnh Rạch Giá , tôi là Thanh niên Cứu quốc, phụ trách Đoàn văn nghệ lưu động thiếu nhi , Sơn Nam được gỉai thưởng Văn nghệ Cửu Long với đầu sách Bên rừng cù lao Dung rồi Tây đầu đỏ năm 1952 .

Ở Rạch Giá , Sơn Nam từng làm thơ ký cho tiệm tạp hóa Bỉnh Thái Xương . Ẩn náu ở Bỉnh Thái Xương, Sơn Nam đanh truyền đơn , đêm đêm dán truyền đơn ở nhiều trọng điểm ( chợ búa, bến xe ) . Ban ngày len lỏi khắp xóm nghèo, phố rách . Đó là những cuộc thám hiểm ngầm . Nhìn bao quát nắm trọng tâm . Đo là quá trình viết và lách của Sơn Nam gạn lọc trong nhiều tác phẩm . Tình đồng hương càng đậm đà trong tình văn học và nỗi đời trôi nổi .

Trong chiến dịch Long-Châu-Hà, tôi là phóng viên chiến trường , Sơn Nam xem lại và duyệt sơ bài, trước khi đưa in - bột nếp để dán ở công sở - " nhà việc " sau khi quân ta chiếm cứ được . Vốn thích xem hát đình ( hát bội ) , anh Sơn Nam vẫn chú ý ( tới) cải lương . Năm 1956 , Sơn Nam trong thời lang thang , đươc soạn giả Hà Triều Hoa Phượng mời về nhà ở mướn, ở sau lưng Nhà đèn Chợ Quán . Nhà nhỏ vẫn chứa đông bạn bè trốn quân dịch và anh em gốc kháng chiến .

Hoa Phượng là thơ ký đánh máy ở Viện Hối đoái lãnh lương rồi nuôi hết anh em . Chính Sơn Nam đã gợi ý cho Hà Triều và Hoa Phượng viết tuồng từ đề tài Nhật Bản ; các vở Cầu sương thiếp phụ
chàng * *, Trăng thượng tuần sắp lặn đều do Sơn Nam cung cấp chứng liệu .

( Có một lần ) , anh Sơn Nam mua được ở vỉa hè một tập sách nhỏ, đó là vở tuồng chèo Nghĩa Kim Bằng , anh đã gợi ý cho tôi soạn vở Người đẹp bán tơ ( Lưu Bình Dương Lễ ) . Đa số kịch bản cải lương của Hà Triều và Hoa Phượng , và ( cả tôi ) đều ăn khách . Đương nhiên , đàn em phải rỉ tai bồi dưỡng , đúng ra là giúp đỡ ( đàn anh) trong cơn chìm nổi . Trong giai phẩm Giải Thanh Tâm và giai phẩm đoàn Thanh Minh, anh Sơn Nam đã viết nhiều bài về sân khấu, gợi ý cho soạn giả cải lương viết tuồng có ấn tượng, định hướng đậm đà bản sắc dân tộc , nhất là ở miền Nam ( này ) .

Trước chiến dịch Long-Châu-Hà , ở vùng nam Thái Sơn, trước khi xuất quân vào ba bản : Vĩnh Trạch , Vĩnh Hạnh - các chiến sĩ đều được thưởng thức chương trình văn nghệ dưới bầu trời đêm .

Riêng Sơn Nam hứng khởi đọc thơ :

Ngồi trên cầu khỉ cheo leo
Em bé mắt nheo
Nhìn theo bộ đội
Bô đội đi rồi , em vẫn ngó theo ...

Rất tiếc tôi không nhớ đoạn thơ sau . Lời thơ chân chất, đã phản ánh rõ nét ánh mắt của trẻ con ở nhà quê đều thương mến chiến sĩ .

Sơn Nam ít làm thơ . làm thơ phải xuất thần. Xuất thần kể như giọt nước bị dồn nén . Trước con người thật có ấn tượng có phẩm chất hoặc trước bối cảnh kỳ vĩ thì cảm xúc xuất thần mới phát tiết cao độ ...

" Làm thơ nghèo khổ lắm. Phải chịu nghèo khổ mà vẫn làm thơ thì mới ra thơ ...".

Lời nói Sơn Nam thật đúng khi tôi vào tuổi 80 .

Nhà văn Sơn Nam có biệt tài kể chuyện tiếu lâm, chuyện khôi hài rất hấp dẫn. văn hóa văn minh miệt vườn vẫn ăn rễ từ nông thôn , từ lễ hội . Cúng Kỳ Yên ở đình là lễ hội lớn ở thôn quê . Nơi nào có đền thờ Lễ Thành hầu-Nguyễn Hữu Cảnh đều được Sơn Nam thăm viếng và chiêm bái .

Trước năm 1975 , Sơn Nam và tôi xuống Châu Đốc , đến chuà Phi Lai để nói chuyện về công trình khai hoang . Sau khi đồng bào ở quanh chùa Phi lai bị thảm sát , tôi và Sơn Nam đều sụt sùi - khi đứng nhìn vô số đầu lâu được gom lại trong vòng" bò le " ... đan bằng tre . Sau chuyến nói chuyện do Sơn Nam chủ xướng và chương trình thi ca câu hò câu hát dân gian do tôi trình bày - để tránh né sự theo dõi - tôi và Sơn Nam tạm ẩn náu tại nhà của một nhà giáo , nhà thơ Liêm Châu ở Châu Đốc .

Đa số anh em được Hà Triều và Hoa Phượng nuôi đều là dân trốn quân dịch và dân có gốc kháng chiến . Ở lâu sợ bể, Sơn Nam quyết định phân tán mỏng , chia nhau tìm nhà trọ, nhà mướn ở ven đô . Chính vì thế , tôi và Sơn Nam sống lang thang .

Sau khi Sơn Nam gặp tôi , chủ nhiệm Ngô Công Đức và Tổng biên tập Hồ Ngọc Nhuận báo Tin Sáng sẵn sàng yểm trợ Sơn Nam .

- Đăng mọi bài của Sơn Nam .
-Trả thù lao cao .

Khi Sơn Nam lâm bệnh năm 2003, báo Tin Sáng đã trợ giúp một số tiền lớn .

Sau ngày 30 - 4 - 1975 , mỗi lần báo Tin Sáng tổ chức tiệc tất niên , Sơn Nam vẫn được mời ở hàng cổ thụ . Dù Ngô Công Đứic qua đời , nhưng góa phụ Ngô Công Đức vẫn đến phúng viếng Sơn Nam .

Suốt 2 đêm trắng với Sơn Nam , tôi dã nghe và thấy biết bao tấm lòng thuộc mọi đẳng cấp , thành phần xã hội Sài Gòn , ở nước ngoài ( đối ) với nhà văn Sơn Nam .

Ngoài tràng hoa lớn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các con cháu của Sơn Nam không thể đếm hết mấy trăm tràng hoa cườm, hoa tươi, thư pháp, bưu thiếp tang .

Gần nửa đêm 16 - 8 - 2008, có nhiều người tóc bạc , phục sức đơn sơ ; có lẽ ở xa, cũng là bạn tâm giao, bạn nghèo của Sơn Nam đã đến bái lạy qua hai hàng nước mắt .

Sơn Nam và tôi sống lang thang trong cảnh không nhà trên dưới 30 năm, nên rất xúc động khi đọc sổ tang :

" Nhớ năm nào tôi với anh sát cánh quyết tâm giữ lại Lăng Ông Lê Văn Duyệt . Lúc đó anh là người góp phần lớn để thực hiện một việc không phải là dễ dàng . Và công lao đó tôi đã thay mặt Đảng bộ, cấp cho anh một ngôi nhà ."
( Nguyễn Chơn Trung - 6 Quang - nguyên chủ tịch UBND quận Bình Thạnh ).

Một trong những giám đốc sở Văn hóa thông tin tp HCM đã ghi trong ' Sổ tang " :

" Rất thương tiếc và cám ơn Sơn Nam có công lớn, bằng tấm lòng tài năng hiếm có góp phần khơi dậy niềm tự hào và lòng biết ơn văn hóa , hào khí Đồng Nai, Việtnam do nhiều thế hệ hun đúc , trường tồn ".
( Dương Đình Thảo )

Thành ủy và UBND tp. HCM với sự hiện diện của các ông Lê Thanh Hải , Nguyễn Văn Đua và bà Phạm Phương Thảo, đã ghi :

" Thành ủy vô cùng thuông tiếc nhà văn Đất Phương Nam Sơn Nam . Nhà văn lớn đã góp phần to lớn bảo tồn phát triển văn hóa dân tộc , sức sống mãnh liệt của tổ quốc , làm giàu đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào nhân dân ".

Rất nhiều người bạn cùng quê hương, nhiều bạn làng văn, nhiều nàh văn , nhà báo, nhiều người Việtnam ở nước ngoài đã ghi nhiều tình cảm , ý tưởng trong sổ tang ; kể cả bản thư pháp và bưu thiếp tang - nên không thể tóm lược hết .

Giáo sư Trần Văn Khê đã viết ngắn gọn, khái quát rất cao :

" Trong suốt cuộc đời, anh đã đem Văn hóa miền Nam Việt đến bao người nhiêu người Việtnam trong và ngoài nước ..."

Tôi đã đọc Tình nghĩa giáo khoa thư trong chuyến xe đò từ Sài Gòn ra Phan Thiết 1964 : Chuyện đời thường mà phi thường .

Sơn Nam nói về 2 bạn học cũ . Ra trường , người bạn ở Cà Mau mua báo chậm trả tiền . Người bạn ở Sài Gòn là nhân viên thu tiền , đòi tiền . Xuống Cà Mau, hai bạn lâu gặp nhau ngủ chung ở xứ muỗi . Kể chuyện đi học xong lại kể chuyện ở Cà Mau , cực khổ nhiều vì sinh nhiều con . Người bạn đi đòi tiền cảm thấy thương bạn nghèo, không nỡ đưa biên lai . Trở về Sài Gòn , người bạn cũ ở Sài Gòn không bị phê bình, thì ( cũng) bị đuổi việc . Mặc !

Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam cũng là tình người sâu lắng , cao khiết . dễ gì còn nhiều người ấp ủ tình nghĩa giáo khoa thư để đối xử, ứng xử nhuần nhuyễn trong cuộc đời còn nhiều thói đời mưa nắng .

Nhớ ơn người vú nuôi gốc Miên ( Campuchia ) Phạm minh Tày lấy bút hiệu Sơn Nam . Đó cũng là chất ngọc trầm tích của tình nghĩa giáo khoa thư .

Hạt bụi nghiêng mình vào cõi nhớ
Gởi lại Tình nghĩa giáo khoa thư .

Tình nghĩa đó chơn chất, sâu lằng mà vô tận .

Nhớ thương anh Sơn Nam , tôi mượn Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam để nhớ hoài Sơn Nam - sau khi đọc nhà văn Văn Phụng Vỹ trong dòng chữ : " Vĩnh biệt bạn già Tình nghĩa giáo khoa thư ".
[]

KIÊN GIANG - HÀ HUY HÀ .

( trích CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP " PHÙNG HÁ " + SƠN NAM "
do Nguyễn Thanh Nhã sưu tầm, biên soạn .
Nxb Văn học , Hà Nội 2011 - tr. 221 - 228 ) .


-----
* ( Sơn Nam : 1926- 2008 ) - tựa chính của Kiên Giang- Hà Huy Hà : " Tình nghĩa giáo khoa thư "
trong tâm hồn nhà văn miền Nam gốc U Minh ".
- Kiên Giang- Hà Huy Hà ( Trương Khương Trinh : 1929 - ) -
- tựa bài hiện thời do BT đặt .

* * Cầu Sương hay thiếp phụ chàng " của Hà Triều và Hoa Phượng ra sau vài năm - soạn giả
đã mượn tựa tiểu thuyết" Cầu Sương hay thiếp phụ chàng", một tiểu thuyết
Ngọc Giáo ( 1911 - 200 ? ) phát hành ở Hà Nội năm 1954 ( Thế Giới xb ) .
Dư luận điểm sách đã lên án tiểu thuyết này" đạo" một tác phẩm Somersest Maugham .
Người viết điểm sách, có lẽ là Thượng Sỹ, bị đánh,
" té nhào" xuống hồ Hoàn Kiếm ? ( T .Phong chú thích ) .


NGUỒN : Blog nhà văn Thế Phong


Nhà thơ KIÊN GIANG HÀ HUY HÀ

TÁC GIẢ BÀI THƠ

“HOA TRẮNG THÔI

CÀI LÊN ÁO TÍM”

- Bài Nguyễn Việt

Từ thập niên 1960 thế kỷ trước, khi chưa có truyền hình chỉ có Đài phát thanh, thì mọi người không ai không nghe qua nhạc phẩm “Hoa trắng thôi cài lên áo tím” được hát đi hát lại nhiều lần, nhạc phẩm này do nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc từ bài thơ mang cùng tên của thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà, trưởng ban thi ca Mây Tần lúc bấy giờ. Mọi người nghe xong là thuộc, vì nhạc phẩm dễ hát và dễ nhớ. Chính điều này bài thơ trở nên bất hủ và không chỉ vang bóng một thời mà sẽ mãi mãi sống trong lòng mọi người.

Tiểu sử về thi sĩ Kiên Giang

Kiên Giang Hà Huy Hà tên thật là Trương Khương Trinh, sinh 17/02/1927 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, là con thứ trong một gia đình gồm năm anh em; vì thế ông lấy tên quê hương đặt thành bút hiệu. Ông cũng là đồng hương của nhà văn “đi bộ” Sơn Nam.

Tuổi thơ của nhà thơ Kiên Giang trải qua những nhọc nhằn từ vùng U Minh Thượng, nơi cha cày ruộng thuê, mẹ gie gạo (giã ra gạo sàn trắng) để có tiền đóng học phí cho thầy. Đến năm 1948, ông đi theo tiếng gọi non sông, rồi làm thơ ở báo “Tiếng súng kháng địch” thuộc Chiến khu 9, miền Tây U Minh. Thời đó ông đã làm thơ về đề tài tuổi thơ, quê hương, như các bài : Khói trắng, Xe trâu, Sàn gạo…

Năm 1943, nhà thơ Kiên Giang theo học trường tư thục Lê Bá Cang ở Sài Gòn. Năm 1944, đến ở tại Cần Thơ đi học trường tư thục Nam Hưng, để rồi có một mối tình học sinh chớm nở, nhưng thời cuộc đã xui ông đi theo kháng chiến. Nên vào năm 1955 cũng vì duyên kiếp ông đã cưới vợ ngay trong chiến khu. Cho nên sau khi hay tin ông đã lập gia đình thì người nữ sinh ấy cũng lên xe hoa.

Từ đó bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” ra đời với hình ảnh người con gái mang tà áo tím thướt tha cùng nét chữ bay bướm đã khiến ông thương thầm nhớ trộm : “Hoa trắng thôi cài trên áo tím / Từ ngày binh lửa ngập quê hương / Khói hôm che khuất chân trời cũ / Che cả người yêu, nóc giáo đường…”. Bài thơ sau này được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc rất phổ biến. Nay “người con gái ấy” hiện đã an nghỉ nghìn thu tại đất Tây Đô, lâu lâu có dịp nhà thơ Kiên Giang lại ghé về thắp một nén nhang để làm ấm lòng người quá cố thay cho lời tạ lỗi.

Cũng từ năm 1955 nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà xuất hiện nhiều trên văn đàn Sài Gòn. Sau làm thơ, ông soạn tuồng cải lương và viết báo. Đến nay ông đang sống cô độc trong tuổi già tại Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ Sân Khấu nằm trên đường Cô Bắc, trước rạp hát cải lương Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo, Q1, Sài Gòn.

Như đã nói ngoài làm thơ, nhà thơ Kiên Giang còn có nghệ danh là Hà Huy Hà. Có lần ông tâm sự : “Học hết lớp 12 tôi tham gia kháng chiến chống Pháp 9 năm, làm biên tập viên, phóng viên cho báo “Tiếng súng kháng địch” ở chiến khu 9. Năm 1955, tôi về Sài Gòn viết báo cho các tờ : Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, Dân Ta, Dân Tiến… Kiên Giang là bút danh khi tôi làm thơ, còn viết báo, soạn tuồng tôi lấy tên Hà Huy Hà. Bút danh này khiến mật thám thời đó lầm tưởng tôi có họ hàng với Hà Huy Tập, Hà Huy Giáp những người làm chính trị ở miền Bắc, nên chúng đã bắt tôi. Sau khi nghe giọng nói Nam Bộ của tôi, chúng đã thả tôi ra”.

Còn làm soạn giả cải lương, Kiên Giang Hà Huy Hà rất nổi tiếng cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Quy Sắc… đến nhà thơ Nguyễn Bính khi vào Nam từng đến nhà ông tá túc nhiều ngày. Các tác phẩm cải lương của soạn giả Hà Huy Hà có thể kể đến “Áo cưới trước cổng chùa”, “Người vợ không bao giờ cưới” là đỉnh điểm cho sự thành danh của ông, trong đó vở cải lương “Người vợ không bao giờ cưới” đã giúp cho cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga đoạt giải thưởng Thanh Tâm “nữ nghệ sĩ cải lương xuất sắc nhất” do nhật báo “Tiếng Dội” của nhà báo Trần Tấn Quốc làm chủ nhiệm tổ chức; Thanh Nga cũng từ đó trở thành một ngôi sao trong giới nghệ sĩ cải lương.

Trước năm 1975, nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà còn phụ trách ban thi văn Mây Tần trên Đài phát thanh Sài Gòn, làm ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn như nhật báo Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lập Trường, Điện Tín, Tia Sáng… Ông cũng từng tham gia phong trào “Ký giả đi ăn mày” và dẫn đầu đoàn biểu tình chống lại những quy chế khắt khe của chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu áp đặt lên giới báo chí lúc đó.

Sau năm 1975, Kiên Giang được cử làm phó đoàn cải lương Thanh Nga, và làm việc tại phòng nghệ thuật sân khấu, đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội Sân khấu thành phố qua 3 nhiệm kỳ.

Nói về thơ của nhà thơ Kiên Giang có rất nhiều, những thi tập đã xuất bản có Hoa trắng thôi cài trên áo tím (1962), Lúa sạ miền Nam (1970), Quê hương thơ ấu…

Còn về soạn tuồng cải lương với tên Hà Huy Hà, ông có những tuồng như sau : Người đẹp bán tơ (1956), Con đò Thủ Thiêm (1957), Người vợ không bao giờ cưới (1958 cùng với Phúc Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Từ trường học đến trường làng, Dòng nước ngược, Chia đều hạnh phúc, Trương Chi Mỵ Nương, Mây chiều xuyên nguyệt thôn, Sương phủ nửa chừng xuân, Chén cơm sông núi, Hồi trống trường làng, Lưu Bình Dương Lễ.

Và viết tân cổ giao duyên, nhà thơ soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà có những bài nổi bậc như : Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò gạch, Cô gái miền Tây…

Nói về thơ Kiên Giang

Vì nhà thơ Kiên Giang có lúc từng là anh em kết nghĩa, là bạn thơ với thi sĩ Nguyễn Bính, nên nhiều người nhận xét thơ ông đã ảnh hưởng thơ của Nguyễn Bính khá nhiều. Nhưng nhiều người cho rằng cái chất “rặt ròng” Nam Bộ trong thơ Kiên Giang là đồ gia bảo riêng của tác giả, không thể ảnh hưởng phong trào thơ “áo bào gốc liễu” như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân được. Ta hãy cảm nhận ít vần thơ sau đây của nhà thơ Kiên Giang để thấy chất “rặt ròng” Nam Bộ trong thơ của ông :

Từ khi cô giáo tập em đồ

Không kê giấy chặm em vô ý

Để dấu tay lem vở học trò (Đồng xu giấy chặm)

Phạt anh ngâm nước vô lu

Bẻ tàu chuối hột che dù cho em (Ngựa trúc)

Lời lẽ mộc mạc Nam Bộ đến thế, bây giờ hiếm hoi gặp lại cái chất đó trong thơ của các thi sĩ miền Nam. Riêng nhà văn Sơn Nam khi còn sống đã nói về nhà thơ Kiên Giang như sau :

- “Kiên Giang là một thi sĩ thành công, một soạn giả đã đưa thi ca vào sân khấu, để lại cho đời những vở tuồng mang đậm chất thơ như Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu Lang Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca… Còn trong thơ ca, Kiên Giang đã viết những câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cứ ngỡ là ca dao : “Ong bầu vờn đọt mù u / Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn”. Thơ Kiên Giang cũng như thơ Nguyễn Bính có nét chung bình dị, mộc mạc, nhưng một bên là chân quê Nam Bộ, còn một bên là chân quê Bắc Bộ”.

Ngoài ra nhà văn Sơn Nam còn bình xét thơ và tuồng của Kiên Giang Hà Huy Hà như sau : “có người nói ông làm thơ dễ dãi đến mức có lẽ không đọc lại bản thảo (?). Cũng có thể như vậy hoặc không như vậy, nhưng nếu dễ dãi mà đã để lại cho đời những bài thơ như “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, “Khói trắng” hay “Tiền và lá”… – những bài thơ sống dai dẳng trong lòng người dân miền Nam suốt một thời thật nên trân trọng”.

Lịch sử bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”

Hoa trắng thôi cài trên áo tím” có lẽ là bài thơ nổi tiếng nhất của thi sĩ Kiên Giang, đã được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc và được nhiều ca sĩ thể hiện rất thành công. Theo nhà thơ Kiên Giang tâm sự :

- “Đây là tâm tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không nhuốm bụi trần. Năm 1944, tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH – cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ. Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi tôi đi kháng chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn : ‘”Con Tám NH. vẫn chờ mày”. Năm 1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. để tâm tình suốt đêm với NH. bên ánh đèn dầu. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh trắng. Câu kết trước là :

Nhân vật trong thơ

Xe tang đã khuất nẻo đời

Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu

Từ nay tóc rũ khăn sô

Em cài hoa tím trên mồ người xưa

thành cái kết khác :

Lạy Chúa ! Con là người ngoại đạo

Nhưng tin có chúa ở trên trời

Trong lòng con, giữa màu hoa trắng

Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi !

Năm 1999, hãng phim TFS của Đài Truyền hình Thành phố có làm phim “Chiếc giỏ đời người” về sự nghiệp hoạt động văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh trường cũ, mới hay tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH. ở nghĩa trang Cái Su. Đúng là

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh

Từng cài trên áo tím ngây thơ

Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng

Anh kết tình tang gởi xuống mồ”

Qua bài viết, người viết đã kể đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ kiêm soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà, và những tâm sự của nhà thơ khi sáng tác thi phẩm “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, đã để lại nỗi buồn man mác trong lòng mọi người qua bài thơ tình đầy lãng mạn.

Chúng tôi xin tải đăng nguyên tác của bài thơ :

HOA TRẮNG THÔI CÀI TRÊN ÁO TÍM

I.
Lâu quá không về thăm xóm đạo

Từ ngày binh lửa xoá không gian

Khói bom che lấp chân trời cũ

Che cả người thương, nóc giáo đường

oOo

Mười năm trước, em còn đi học

Áo tím điểm tô đời nữ sinh

Hoa trắng cài duyên trên áo tím

Em là cô gái tuổi băng trinh

oOo

Trường anh ngó mặt giáo đường

Gác chuông thương nhớ lầu chuông

U buồn thay! Chuông nhạc đạo

Rộn rã thay! Chuông nhà trường

II.
Lần kia anh ghiền nghe tiếng chuông

Làm thơ sầu mộng dệt tình thương

Để nghe khe khẽ lời em nguyện

Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

oOo

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ

Hai bóng cùng đi một lối về

E lệ, em cầu kinh nho nhỏ

Thẹn thùng, anh đứng lại, không đi

III.
Sau mười năm lẽ anh thôi học

Nức nở chuông trường buổi biệt ly

Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo

Tiễn nàng áo tím bước vu quy

oOo

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ

Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình

- Hoa trắng thôi cài lên áo tím

Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh

oOo

Em lên xe cưới về quê chồng

Dù cách đò ngang, cách mấy sông

Anh vẫn yêu em người áo tím

Nên tình thơ ủ kín trong lòng

IV.
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo

Anh làm chiến sĩ giữ quê hương

Giữ tà áo tím, người yêu cũ

Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường

oOo

Mặc dù em chẳng còn xem lễ

Ở giáo đường u tịch chốn xưa

Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh

Nghe chuông truy niệm mối tình thơ

oOo

Màu gạch nhà thờ còn đỏ thẫm

Như tình nồng thắm thuở ban đầu

Nhưng rồi sau chuyến vu quy ấy

Áo tím tình thơ đã nhạt màu

V.
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ

Chở áo tím về trong áo quan

Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt

Khi anh ngồi kết vòng hoa tang

oOo

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh

Từng cài trên áo tím ngây thơ

Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng

Anh kết tình chung gởi xuống mồ

VI.
Lâu quá không về thăm xóm đạo

Không còn đứng nép ở lầu chuông

Những khi chuông đổ anh liên tưởng

Người cũ cầu kinh giữa thánh đường

oOo

“Lạy Chúa con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ở trên cao

Trong lòng còn giữ màu hoa trắng

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !”

(Bến Tre, 14-11-1958)

http://cafevannghe.wordpress.com/2010/04/03/nha-th%C6%A1-kien-giang-ha-huy-ha/

Không có nhận xét nào: