Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Từ Đối diện đến Đứng dậy

Sài Gòn. 29.4.1975. Tờ Điện tín ra số chót. Ngày hôm sau, cả biển người và cờ hoa tràn ngập. Làng báo miền Nam được lệnh đình bản nhưng sau đó có hai tờ may mắn được tục bản là nhật báo Tin sáng và nguyệt san Đối diện.
Không phổ cập đến quảng đại quần chúng mà dư vang trong công luận tưởng không tờ nào bằng Đối diện do một nhóm linh mục chủ trương. Nhiều tờ báo khả tín và công minh hơn, để lại trầm tích văn hóa sâu lắng hơn, phản ánh thực tại xã hội bao quát hơn, song đã mấy tờ có số phận ly kỳ như Đối diện.
Nguyệt san Đối diện do Chân Tín chủ nhiệm, Nguyễn Nghị chủ bút, Hà Châu tổng thư ký tòa soạn. Cứ theo như bìa 4 của mấy số đầu tiên, bộ biên tập quy tụ được những khuôn mặt sáng giá trong làng văn làng báo như Thế Nguyên, Minh Quân... Linh mục tham gia có thể kể đến Trần Thái Đỉnh, Trương Bá Cần... Và còn có cây bút đối lập như hai kiện tướng cùng tên Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung. Từ số 23 (5.1971), nhóm Việt chính thức đảm trách phần văn nghệ và ngưng ở số 69 (4.1975). Mà về sau (đầu năm 1972), nhóm Việt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy Huế, dĩ nhiên, tuân thủ nguyên tắc độc nhất và tuyệt đối: văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực xã hội.
Đối diện số 1 ra mắt (7.1969) minh định ý hướng đối thoại, thì thầm tâm tình và sẵn sàng lắng nghe: “Sẽ là nơi gặp gỡ của tất cả người Việt, bất phân tôn giáo, giai cấp, già trẻ, có tín ngưỡng hay vô tín ngưỡng, nhưng tha thiết với quê hương đất nước, tha thiết với tiến bộ nhân loại, tha thiết với sự phát triển toàn diện con người, tha thiết với những vấn đề của tuổi trẻ hôm nay, của nền văn minh cơ giới của chúng ta”.
Ảnh TL
Khởi sự, tòa soạn đặt tại 38 Kỳ Đồng (Tu viện Dòng Chúa Cứu thế) và từ số 19 đến số 39, dời về 453/41 ter Trương Minh Giảng. Ngày 4.8.1972, chính quyền ban hành sắc luật 007/TT/SLU bắt buộc các tờ báo phải ký quỹ một số tiền khá lớn, nếu không, bị rút giấy phép và ngưng hoạt động. Số 40, linh mục Chân Tín vẫn giữ vai trò chủ nhiệm nhưng trên bìa gắn thêm mỹ danh “Hải ngoại” và địa chỉ tòa soạn chuyển đến tận chân trời góc bể: 107122 Pavillon Parent - Cité Universitaire - Quebec 10 - PQ, Canada (có lúc tòa soạn đặt tại CP Box 334 Sillery PQ, Canada, như số 67). Sang đến số kép 41 - 42, linh mục Trần TamTỉnh chủ nhiệm, Đối diện chọn tư thế ngoài vòng cương tỏa và giữ vị trí chủ đạo trong dòng báo chí bất hợp pháp.
Gần mười năm (1969 - 1978), Đối diện góp mặt 114 số (69 số trước 4.1975 và 45 số sau đó), mang 4 cái tên: Đối diện số 1 - 47, Đối diện số 48 - 54, Đồng dao số 55 - 60, và Đứng dậy số 61 - 114.    
Một chút tò mò về nhà in. Khi thì ăn gió nơi này, khi thì nằm mưa tận đâu đâu, nhiều số không xác định được nơi in (số 26, 30, 36, 39, 57). Ban đầu in tại cơ sở ấn loát báo Đức Mẹ Hằng Cứu giúp của Tu viện Dòng Chúa Cứu thế đường Kỳ Đồng. Từ số 20 tại nhà Trình Bầy của Thế Nguyên, 291 Lý Thái Tổ. Số 24 trở đi, chủ yếu tại nhà Phương Quỳnh của bà Tôn Thất Dương Kỵ, 150F Yên Đổ. Để rồi từ số 40, Masako Mikutina, Shinsei Gakuryo, 84 - 36 Hongo Bunkyoku, Tokyo - Japan đảm trách việc in ấn. Thỉnh thoảng lại lưu động, nhà Thi Nha, Phan Rang (số 47) rồi sang nhà Tha Nhi, Mỹ Tho (số 48). Ghi thì ghi vậy, chứ chắc nhà in vẫn quanh quẩn Sài Gòn!
Ảnh TL
Chuyện báo đối lập bị tịch thu, phạt tiền, đình bản và chủ bút ra tòa như cơm bữa. Năm 1970, liên tiếp 8 số Đối diện bị tịch thu (11 - 18). Riêng hai số 15 và 16 chạy bài của linh mục Trương Bá Cần “25 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” chêm vào những con chữ ca ngợi miền Bắc no cơm ấm áo. Hai số đề cao chủ nghĩa cộng sản này, ngoài việc bị tịch thu còn khiến ông Nguyễn Tín (linh mục chủ bút Chân Tín) nhận trát hầu tòa và lãnh sáu tháng tù.
Năm 1972, linh mục Chân Tín bị Tòa án Mặt trận Biệt khu Thủ đô kết án 5 năm cầm cố và 3 triệu đồng phạt vạ vì đã làm phương hại nền an ninh quốc gia, trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu quân đội. Còn linh mục Chân Tín thì dõng dạc trước tòa: “Chúng tôi không hổ thẹn về những gì đã viết hay cho in trong Đối diện và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc”.
Trong Tìm hiểu tạp chí Đối diện (luận văn tốt nghiệp văn bằng cử nhân báo chí, tại Ban Báo chí, Phân khoa Văn hóa và Khoa học, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1973), sinh viên Nguyễn Thanh Sơn mổ xẻ số 1 đến số 48. Sự nhất quán xuyên suốt trên Đối diện là đả phá chính quyền và hô hào con đường hòa bình trên tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc. Tác giả bình nghị thêm. Chung góp của Đối diện cho nền hòa bình là nhỏ nhoi so với bao nhiêu xương máu của hàng triệu đồng bào ruột thịt. Khuyên son củaĐối diện chính là chỗ gây xúc cảm tình tự dân tộc, cổ súy một xã hội tốt đẹp và phồn thịnh hơn, ý thức được thân phận nô lệ, mất chủ quyền, lệ thuộc ngoại bang.
    Khuyên son của Đối diện chính là chỗ gây xúc cảm tình tự dân tộc, cổ súy một xã hội tốt đẹp và phồn thịnh hơn, ý thức được thân phận nô lệ, mất chủ quyền, lệ thuộc ngoại bang.
Ngay sau ngày thống nhất đất nước, Đứng dậy số 70 (7.1975) in roneo, chỉ “để làm tin”, tục bản theo Quyết định số 1/QĐ TTVH của Bộ Thông tin ngày 4.7.1975 với chủ nhiệm Chân Tín, tổng thư ký Nguyễn Ngọc Lan, thư ký tòa soạn Võ Hồng Ngự. Số 71 tiếp theo (8.1975) trở lại in typo như hầu hết các số trước đó và chính thức bước qua giai đoạn mới. Bài Một con đường đã vượt qua và con đường để đi tới đặt đầu số xác định hướng đi và nhiệm vụ: “Được tục bản giữ nguyên danh xưng “đứng dậy”, dĩ nhiên là Đứng dậy muốn trung thành với hướng đi từ trước của mình nhưng trung thành một cách sâu sắc và đích thực (...) Ngày nay Cách mạng thành công, thế đứng của Đứng dậy đương nhiên đổi mới. Góp phần củng cố và xây dựng Cách mạng trở thành nhiệm vụ đương nhiên của Đứng dậy để trung thực với chính mình, đi đến cùng con đường mà mình đã chọn lựa”.
Nhóm chủ trương tự hào Vui gì hơn làm người lính đi đầu (Tố Hữu): “Đứng dậy cũng được hân hạnh hiếm hoi từ giữa thành phố này phản ánh tuy chỉ một phần nào - trong những giới hạn nhất định của khả năng và hoàn cảnh của nó - nhưng liên tục lịch sử đất nước từ hơn tám năm nay”.
Và đây là “hồi ngũ liên” phấn chấn và hào hùng về những sự kiện trọng đại của đất nước: Những năm tháng gian khổ hào hùng (...) Những năm tháng kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao (...) giai đoạn lịch sử mới: cả nước độc lập thống nhất tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa (số 100, 10.1977).
Mùa Giáng sinh 1978, Đứng dậy cáo biệt “vì tạp chí không còn hội đủ điều kiện để tiếp tục nữa”. Và Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan cùng ban biên tập và tòa soạn dè dặt vài lời riêng với các bạn Kitô giáo: “Việc tạp chí Đứng dậy không còn nữa chỉ nên giúp chúng ta hiểu rõ hơn trong lòng tin là nó không cần thiết vì cái cần thiết thực sự, cái cần thiết tuyệt đối là “một sự sống, một niềm hy vọng và yêu mến lớn lao hơn cả bản thân Giáo hội” (...), nói chi đến bản thân một tờ báo” (số đình bản 114, 12.1978). Và không ai ngạc nhiên, khi đã khép áo lui chân, gần như nhóm chủ trương khuất chìm và lặng im. Bao nhiêu cảnh ngộ, bấy nhiêu tâm sự, mấy ai thấu hiểu.
Đứng dậy số đình bản 114 (12.1978). Ảnh TL
Dòng đời Đối diện là cả một trời khúc khuỷu. Chừng mực nào đó, người ta phải mạnh dạn ghi nhận, nó chỉ còn là cái bóng tĩnh lặng của chính mình trên bến bờ sau 1975, hiền hòa chứ không còn quyết liệt phiêu lưu. Nhóm chủ trương giảm bớt (hay đoạn tuyệt?) thiên chức của phận văn, nghiệp báo đơn giản vì nắm bắt được quan hệ khăng khít giữa văn hóa với chính trị? Ý nguyện, tinh thần dấn thân và thái độ nhập cuộc nung nấu dưới mái nhà Đối diện đã truyền dẫn đến thế hệ sau như thế nào?
Một nhận định thấu đáo đành chờ ánh sáng buổi “tân vận hội” soi rọi cái nhìn từ bên ngoài và từ phía sau với một gián cách thời gian cần thiết.
Trần Trọng Cát Tường
 (Bài viết đăng trên Tạp chí Người Đô Thị số 48, phát hành ngày 29.4)
http://nguoidothi.vn/vn/news/hon-pho/ky-uc-do-thi/3606/tu-doi-dien-den-dung-day.ndt 

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2560 (2016) : Ý nghĩa đản sanh và 7 bước chân đi của thái tử

Đã có khá nhiều tín đồ biết đến ngày Phật Đản là ngày truyền thống của Phật giáo, thế nhưng ít ai hiểu rõ ý nghĩa “Phật Đản” và nguyên nhân có sự Đản sanh, chúng ta cũng cần tìm hiểu qua ý nghĩa và nguyên nhân này.

Tình cảnh xã hội Ấn độ vào thời ấy như thế nào, và buổi bình minh nước ấy cách nay mấy ngàn năm ra sao? Ấn độ, một xã hội đa thần, nhiều giai cấp, con người không sao tránh khỏi những họa hoạn từ giai cấp thống trị đang nắm quyền hành trong xã hội. Chán nản cuộc sống, con người bước vào sự tuyệt vọng, sự mất niềm tin, sự chán nản cùng tột vì không có lối thoát nào khác hơn. Người lìa thành thị vào rừng thâm, kẻ khác lại ép xác khổ hạnh, người người không ngớt bàn tán về nguyên nhân của sự khủng hoảng tinh thần, nhưng rốt cuộc không ai đi đến đâu. Con người xoay quanh mọi hướng như tế lễ, cầu khẩn nơi thần linh nhưng không thay đổi được gì, cảnh tang thương vẫn bao trùm lên khắp xứ sở Ấn độ.

Tại cung tời Đâu Suất, đức Bồ-tát lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng về chí nguyện độ đời của mình. Vì thế, chư thiên và phạm thiên trong 10 ngàn thế giới câu hội cung thỉnh Bồ- tát giáng phàm để tế độ chúng sanh. Khi thấy đầy đủ nhân duyên, vào một ngày trăng tròn tháng tư âm lịch (tháng Visakka), năm 624BC, tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), thành Ca-tỳ-la-vệ (kapilavatthu), xứ Nepal ngày nay, bậc Bồ-tát đại sĩ đã giáng phàm. Đây là bước ngoặc quan trọng cho loài người hướng về ánh sáng và hạnh phúc

Sự “đản sanh”, “giáng phàm”, “giáng sanh”, “giáng đản”, “đản nhật”, v.v… đều mang ý nghĩa là ngày mà các bậc Phật, Thánh xuất hiện sẽ mang đến sự an vui vĩnh hằng cho nhân thế.

Trong bộ Buddhavamsa có ghi: Theo thông lệ của chư Phật, mỗi vị Bồ-tát khi đản sanh phải quán sát 5 điều kiện:

1. Thời kỳ (Kàla): Tuổi thọ chúng sanh thời này không quá 1000 tuổi mà cũng không kém 100 tuổi. Lý do là, nếu sống lâu thì con người đâm ra dãi đãi, bất chấp tội phước; còn như yểu số thì con người chỉ lo mưu cầu danh lợi, thỏa mãn vật chất, không đủ thời gian tu niệm. Do đó, Ngài xuất hiện ở thời kỳ này và tồn tại đến 80 tuổi rồi vào Niết-bàn.

2. Quốc độ (Desa): Ngài chọn Trung Ấn Độ, ở đấy không quá giàu mà cũng không quá nghèo, sự bất công và sự phủ phàng lúc nào cũng hiện diện trong cuộc sống. Hơn nữa, có nhiều sự bất đồng về giai cấp, nghèo khổ, bệnh hoạn luôn là mối đe dọa con người, nhờ thế loài người dễ hướng thiện.

3. Dòng dõi (Kula): Ngài chọn hoàng tộc Sakya. Vì trong 30 tục lệ của chư Phật, tất cả các vị Chánh đẳng giác kiếp cuối không được tái sanh trong dòng dõi thấp hèn, vì nếu tái sanh vào đó thì sẽ bất lợi cho việc hoằng pháp độ đời. Còn như giáng phàm trong giòng dõi cao quý thì việc hoằng pháp sẽ khế lý khế cơ, do đó sẽ có kết quả tốt.

4. Châu (Padìpa): Loài người đang sống và tồn tại ở bốn châu thiên hạ: Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc cu lô châu và Nam thiệm bộ châu. Ngài chọn Nam thiệm bộ châu vì ở châu này loài người không văn minh kiêu kỳ mà cũng không quá lạc hậu đần độn. Nhờ vậy khi gặp Phật, họ dễ dàng lãnh hội giáo lý, tu hành mau đắc đạo.

5. Cha mẹ (Màtara): Đức Phật là thầy của tam giới nên Ngài phải chọn người có đại duyên, đại nguyện với Ngài trong vô lượng kiếp. Vua Suddhodana và chánh hậu Mahamayadevi, nhị vị này đã từng là cha mẹ của Ngài trong nhiều ngàn kiếp nên Ngài chọn hai vị này làm quyến thuộc. Chính vì hạnh nguyện Ba-la-mật mà Ngài xuất hiện nơi đời, khai mở, và hướng dẫn đời sống tâm linh cho bao triệu nhân sinh trên trái đất. Từ đó, tên tuổi của thành Ca-tỳ-la-vệ và khu vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal ngày nay đã được khắc sâu mãi mãi vào tâm thức nhân loại do sự giáng phàm của bậc Bồ-tát vĩ đại mà sau này là Phật Thích-ca Mâu-ni.

Cũng ngày ấy trên hai ngàn năm trước

Khắp vòm trời nhẹ thoảng một mùi hương,

Hoa không riêng mà chung cả mười phương

Đã nở với tình thương nhân loại.


Ngài chào đời giống như bao nhiêu hài nhi khác nhưng có điều khác thường là thân thể không bị hoen ố mà còn rực rỡ như ánh binh minh. Điểm đặc biệt là khi Ngài Đản sanh, lúc đó thế giới sáng rực trong hào quang và thơm ngát mưa hoa của các vị thiên vương đến cung hạ Ngài, mây trời kết ngũ sắc cúng dường, hoa đàm bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi tu di dường như cúi đầu để tiếp đón bậc thầy của nhân thiên, ba ngàn thế giới vang động theo sáu cách (Phương Đông vọt lên phương Tây lặn xuống, phương Tây vọt lên phương Đông lặn xuống, phương Nam vọt lên phương Bắc lặn xuống, phương Bắc vọt lên phương Nam lặn xuống, bốn bên vọt lên chính giữa lặn xuống, chính giữa vọt lên bốn bên lặn xuống). Sau khi Đản sanh, Ngài mở mắt hướng về phía Đông, thấy vô số chư thiên cúng dường hoa cho Ngài. Ngài bèn quay mặt hướng Bắc, ung dung bước đi bảy bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, ứng khẩu:

Aggohamámi lokámim

Settho ettho anuttaro

Ayaca antimà jàti

Natthidàni punabbhavo.

Dịch nghĩa:

Đây là kiếp chót của ta

Duyên sanh không còn nữa

Trên trời và dưới đất

Ta là bậc chí tôn.

Trong lịch sử nhân loại, lần đầu tiên sự kiện hy hữu đã xảy ra, một tin mừng thật sự đã đến với loài người, vì đúng như tên gọi của bậc giáng trần, thái tử Tất-đạt-đa (siddatha) có nghĩa là “vạn sự cát tường”, thái tử sẽ là người mang lại an lạc cho toàn thể chúng sanh đang quằn quại trong vòng luân hồi sanh tử.

Đứng về mặt ngôn từ, quan điểm của Phật giáo Theraveda không dùng từ “Phật Đản sanh” mà dùng từ “Bồ-tát Đản sanh”, vì Phật giáo Theraveda cho rằng, nếu nói Phật Đản sanh thì có người sẽ hiểu Phật đã thành đạo từ nhiều kiếp trước, kiếp này chỉ là thị hiện lại; nhưng nếu đã là Phật rồi lại Đản sanh thì tại sao đến năm 35 tuổi Ngài còn phải chiến thắng ma vương và thành đạo dưới cội Bồ-đề? Còn quan điểm của Phật giáo Đại thừa, sở dĩ có sự xuất hiện của một vị Phật không phải là biến cố ngẫu nhiên mà chính là kết quả được thành tựu từ bao nhiêu tâm nguyện nung nấu ở quá khứ. Trước khi hóa thân làm thái tử, Ngài sống đời sang trọng sung sướng với vợ đẹp con thơ, rồi thức tỉnh cắt đứt những ràng buộc ân ái để sống kiếp khổ hạnh không nhà của người xuất gia, và sau cùng chứng đạo. Phật Thích-ca trong tiền kiếp đã là vị Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp không hề mỏi mệt. Những việc Bồ tát đã làm chỉ vì một nguyên nhân sâu xa, một “đại sự nhân duyên” như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện, đã mô tả: “Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để đặng thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.” (Chư Phật Thế Tôn, dục linh chúng sanh khai Phật tri kiến sử đắc thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế. Dục linh chúng sanh nhập tri kiến đạo cố, xuất hiện ư thế).

Sự xuất hiện của thái tử Tất-đạt-đa là “nội bí ngoại hiện”. Tất cả những điều ấy nhằm chỉ bày “tri kiến Phật” nơi mỗi con người. Tri kiến Phật chính là cứu cánh rốt ráo của tất cả những nỗ lực của hàng Phật tử, dầu thuộc tại gia hay xuất gia. Tri kiến ấy là kết quả đạt được trong quá trình thực hành Bồ-tát đạo của đức Phật Thích-ca Mâu-ni và cả những chư Phật trong quá khứ. Tri kiến ấy là một cái nhìn thật sâu, thật sáng vào bản thể của nhân sinh quan và vũ trụ quan, mà danh từ Phật học gọi là “như thật tri kiến”. Người nào đạt được một cái nhìn như thế đối với vũ trụ và con người thì người đó đã thực hiện được lý tưởng giải thoát. Người ấy tuyệt đối chẳng còn bị chi phối bởi những biến cố tâm lý, vật lý hay hoàn cảnh xã hội nào.

Chính vì thể nhận rốt ráo sự tướng của vạn hữu và nhân sinh như thế nên Ngài tuyên bố rằng: tất cả mọi người bất kể sang hèn, bần tiện hay cao quý, đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật như nhau. Sự chứng ngộ Phật tánh của mỗi người là tùy vào nỗ lực riêng tư của từng cá nhân, chứ không phải ân huệ của một đấng thượng đế hay thần linh nào cả. Lần đầu tiên con người nghe thấy lời xác nhận hùng hồn đến thế, một năng lực tối thượng trong công trình tự giải phóng chính mình.

Từ trước tới nay, chúng sanh đã trầm luân vô tận theo dòng thời gian, trải qua biết bao kiếp sống khác biệt, nhưng họ vẫn nhìn những kiếp sống ấy như một hiện tượng tự nhiên, một định mệnh tất nhiên đã bày sẵn mà con người không cách nào chuyển đổi. Vì thế, sự kiện Đản sanh của đức Từ Phụ đã chiếu soi một làn ánh sáng mới mẻ, như trong kinh Cửu-la-đàn-đầu (kutadanta sutta) đã xưng tụng: “Thật vi diệu thay! Tôn giả Cồ Đàm! Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc”.

Sự Đản sanh là bằng chứng cụ thể cho lời quả quyết: mặc dù trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi nhưng con người là một thực thể có khả năng “chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc” bằng chính nỗ lực tu tập của cá nhân. Đau khổ hay luân hồi sanh tử không phải là định lý tất yếu, một định mệnh nghiệt ngã mà thực ra chỉ là hậu quả của mê mờ vọng tưởng, của vô minh. Hào quang sáng rực trong ngày Đản Sanh là dấu hiệu báo trước một ngày kia Ngài sẽ xóa tan bóng tối vô minh bao trùm tâm thức con người, đưa con người lên địa vị tôn quý tối thượng.

Thời đại đức Phật xuất hiện là thời đại quá suy đồi và hỗn độn cùng cực của xã hội Ấn Độ mà chúng ta có thể thấy qua các kinh điển. Những cuộc chiến tranh khốc liệt giữa các vương quốc lớn nhỏ, sự tranh giành quyền lực trong những người nắm quyền thống trị, chiến tranh đói rét, bệnh tật làm nảy sanh những cảnh cướp bóc để có sự sống còn đã xảy ra khắp xã hội Ấn Độ thời ấy. Sự tranh giành quyền lực đưa đến thảm cảnh con giết cha, em giết anh để đoạt vương vị. Tất cả xã hội Ấn độ là một cơn lốc bạo loạn khổng lồ, thêm vào đó là sự hỗn loạn tinh thần của 62 học thuyết ảnh hưởng lên tâm trí con người.

Bằng nguyện lực, Bồ-tát đã giáng phàm vào một xã hội như thế. Vì hơn ai hết, Ngài thấy rõ ràng, chỉ trong nỗi đau cùng cực con người mới vươn lên bằng chính khả năng của mình, mà sự vươn lên đó chính là sự đứng vụt dậy xác nhận khả năng giải thoát tiềm tàng nơi bản thân mình, xác nhận giá trị tôn quý của mình. Sở dĩ chúng ta không hiểu nên cho rằng chúng ta cách Phật khá xa, nhưng thật ra là rất gần, gần trong gang tấc. Về lĩnh vực tinh thần, Phật có trí tuệ thuần khiết, có đức từ bi rộng lớn, có sức tự tại vô ngại; nhưng về phương diện nhục thể, qua hiện tượng Đản sanh làm người, Ngài cũng giống như chúng ta. Có điều, ý chí Ngài siêu phàm nên đã đạt đến quả vị tối hậu chấm dứt tất cả khổ đau. Điều đó cũng bao hàm ý nghĩa rằng, toàn thể nhân loại đều có khả năng chấm dứt khổ đau thành tựu Phật quả.

Sự giáng phàm của đức Phật là một bước ngoặt để đánh dấu một sự khai sanh mới cho xã hội Ấn Độ nói chung và toàn thể nhân loại nói riêng. Ngài không buộc ai phải quy ngưỡng Ngài, cũng không buộc ai tin Ngài mà chỉ mong mọi người hãy tin, hiểu và thực hành đúng với tâm nguyện của mình thì mới đem lại cho mình sự liễu sanh thoát tử. Có điều, đức Phật đã chiến đấu chống lại những trói buộc của chính mình, chống lại bản ngã nhỏ bé của mình nên Ngài thành tựu như sở nguyện.

Hôm nay, lễ kỷ niệm 2554 năm là để tưởng nhớ về Người, Bậc khai đạo, chỉ đạo và hướng đạo. Một bậc thầy hoàn thiện trong mọi lãnh vực, để mọi người thấy đó cùng quyết tâm bước theo con đường của Phật, đạt được mục đích như Phật thì biểu ngữ Kính Mừng Phật Đản được treo nơi mỗi tự viện từ Bắc chí Nam, mở mang một ý nghĩa cao đẹp đáng được duy trì. Đó mới chính là ý nghĩa “Đản Sanh”.

Tại sao lúc đản sanh thái tử Tất-đạt-đa không đi 1, 2, 3 bước hay 8, 9 bước mà lại đi 7 bước?

Theo quan niệm triết học phương Đông, số 7 là con số biểu trưng cho sự hoàn hảo nhiếp thâu cả vũ trụ. Nó được xác lập trên 7 nguyên lý của thời gian và không gian.

Con số 7 tiêu biểu cho không gian có 4 là: Đông, Tây, Nam, Bắc và thời gian có 3 là: quá khứ, hiện tại và vị lai.

Theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, toàn thể vũ trụ nhân sinh từ vật nhỏ như vi trần đến vật to lớn như núi Tu Di, tất cả không ngoài con số 7:

- Thất đại: địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức

- Thất thánh tài: tín, tấn, giới, tàm quý, văn, xả, huệ

- Thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, thức-xoa-ma-na, sa di, sa di ni, ưu bà tắc, ưu bà di.

- Thất Phật: Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp và Phật Thích-ca.

- Thất thánh quả: Tu-đà-hoàn, tư-đà-hàm, a-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, Bồ-tát và Phật.

Ngoài ra, 37 phẩm trợ đạo cũng chia làm 7 khoa: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo.

Vậy, con số 7 tượng trưng cho sự sinh hóa cả vũ trụ, ngay cả sự sống chết của con người như lập đàn Dược sư thất bảo để cầu an hay tổ chức thất thất trai tuần để cầu siêu cũng dùng đến nó. Vì thế, con số 7 mang ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của nhân sinh quan, vũ trụ quan qua tầm nhìn Phật giáo.

Theo INTERNET

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

Ocean Vương và hành trình thi ca

TTCT - Sang Mỹ định cư từ khi mới lên 2, những tác phẩm thơ ca của Ocean Vương (Vinh Quốc Vương) mới đây đã khiến tờ The New Yorkergọi anh là “người sửa lại ngôn ngữ tiếng Anh”.
Ocean Vương và hành trình thi ca
Ocean Vương -Diacritics.org
Ocean sinh năm 1988 ở ngoại thành Sài Gòn. Hai năm sau, anh cùng sáu người họ hàng di cư tới Hartford, Connecticut, nơi tất cả sống trong căn hộ một phòng ngủ. Tại trường học, Ocean nói với New York Times, anh mất một thời gian dài “vật lộn” với tiếng Anh trước khi có thể sử dụng thuần thục ngôn ngữ này (mãi đến năm 7 tuổi anh mới biết đọc).
Anh có cái tên “Ocean” (đại dương) vì mẹ anh, với vốn tiếng Anh ít ỏi, trong một lần làm móng cho khách đã phát âm câu “I want to go to the beach” (Tôi muốn đến bãi biển) thành một nghĩa khá nhạy cảm [1]. Một vị khách nghe thế bèn đề nghị bà dùng từ “ocean” để thay thế.
Khi biết từ này không phải để chỉ bãi biển mà để chỉ một vùng nước bao bọc nhiều quốc gia, gồm cả Mỹ lẫn Việt Nam, bà đã dùng nó để đặt tên cho con trai mình.
Với một người Mỹ sinh ra trên đất Mỹ, cuộc sống bình thường có thể rất tẻ nhạt, song với tôi ngôn ngữ tiếng Anh là một đích đến” - Ocean trả lời Daniel Wenger của tờ The New Yorker. Giờ đây, ở tuổi 27, anh vừa nhận giải thưởng Whiting Award, Nhà xuất bản Copper Canyon Press vừa xuất bản tập thơ mới nhất của anh - Night sky with exit wounds (tạm dịch: Trời đêm và lỗ đạn bắn).
Tại tiệm cà phê Caffè Reggio, Vương uống trà nhài, mặc áo lụa đen trang trí hình hoa chấm tròn. “Nơi này giống như chốn giao thoa của hai dòng thời gian” - anh nói, tay chỉ vào một cái thùng bằng bạc để làm cà phê espresso (một trong những máy làm espresso đầu tiên của nước Mỹ, do Ý sản xuất) và chiếc quầy nơi Joseph Brodsky, một nhà thơ khác (vốn ban đầu cũng không biết tiếng Anh), từng nhận thư.
Một bối cảnh phù hợp cho một người chịu ảnh hưởng bởi lối châm biếm thẳng thừng của Frank O’Hara [2] và những câu chuyện ngụ ngôn dị kỳ của Federico García Lorca [3]. Đọc thơ của Vương giống như chứng kiến cá bơi: anh lội qua những dòng chảy đa dạng của tiếng Anh bằng trực giác của cơ bắp.
Tuyển tập thơ dài đầu tiên của Ocean Vương, Night sky with exit wounds, hiện đã bán hết trên trang Amazon.com (tính đến ngày 25-4-2016, giờ Việt Nam). Ngoài giải thưởng Whiting Award năm 2016, Vương còn nhận nhiều giải thưởng và khen tặng từ Poets House, Quỹ Elizabeth George Foundation, Quỹ Civitella Ranieri, Quỹ nghệ thuật Saltonstall, Hiệp hội Nhà thơ Mỹ. Những tác phẩm của anh xuất hiện trên các tờ Kenyon Review, The Nation, New Republic, The New Yoker, The New York Times, Poetry và American Poetry Review, giúp mang lại cho anh giải thưởng Stanley Kunitz, hạng mục nhà thơ trẻ. Các tác phẩm của Ocean đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Anh tốt nghiệp ngành văn học Anh thế kỷ 19 tại ĐH Brooklyn (Mỹ).
Thơ của Vương duyên dáng (Bạn, đẩy cơ thể mình/ vào dòng sông/ chỉ để còn lại/ chính mình) và gây kinh ngạc (Nói đầu hàng đi. Nói thạch cao đi. Dao bấm. Kim ngân. Hoàng hoa. Nói mùa thu đi.). Những dòng viết của anh vừa ngắn vừa dài. Sự sắp đặt câu chữ của anh vừa tự sự vừa trữ tình. Cách chọn từ của anh vừa trang trọng vừa phóng khoáng. Nhìn từ bên ngoài, Vương đã nhào nặn một chất thơ mang tính bao hàm.
Vương thích O’Hara và những nhà thơ khác của nhóm New York School [4] vì sự thẳng thắn khi bàn về tình dục. Anh thường trả lời điện thoại tại cửa hiệu làm móng, xem chương trình của Oprah và Ellen trong lúc phục vụ khách.
Năm 2008, Vương học tiếp thị tại ĐH Pace với mong muốn hỗ trợ tài chính cho gia đình, song bỏ học chỉ sau ba tuần. Tại ĐH Brooklyn, Vương chọn chuyên ngành tiếng Anh, viết thơ lên những tấm bưu thiếp để tặng bạn bè.
Khi nhà thơ - tiểu thuyết gia Ben Lerner vào trường, ông giới thiệu Vương với ý niệm rằng đời viết lách là một điều khả thi. Trước đó, theo Vương, “tôi ngỡ mọi nhà thơ đều được sắp đặt trước. Chính quyền quyết định ai là nhà thơ. Obama hoặc Bush hoặc bất cứ ai có quyền nói rằng “Bạn, bạn, bạn””.
Bà ngoại của Vương qua đời vì ung thư xương trong lúc anh đang học ở Brooklyn. Bà được mai táng ở Việt Nam và anh đã quay về đây để dự tang lễ. “Tôi bị choáng ngợp, vì ai trông cũng giống gia đình tôi” - anh nói.
Vài người sẽ xem sự tương đồng này như một nguồn an ủi nhưng “Tôi thích trở nên bấp bênh hơn - Vương nói - Để những điều lạ kỳ có thể xảy ra”. Gia đình anh không hiểu lắm về sự nghiệp của con nên họ gọi anh là “học giả”. Vương không đính chính. “Giọng nói của gia đình tôi vang lên trong đầu mỗi khi tôi viết, khi tôi nghĩ, và tôi nghĩ sẽ chẳng có ngày nào tôi không tự hỏi chính mình rằng tôi nên làm gì với đôi tay này”.■
Ngày nào đó tôi sẽ yêu (Ocean Vương)
Sau Frank O’Hara / Sau Roger Reeves
Ocean, đừng lo lắng.
Phía cuối con đường hẵng còn xa
nó đã sau lưng ta.
Đừng lo. Cha cậu chỉ là cha cậu đến khi một trong hai quên lãng. Như cột sống
sẽ chẳng nhớ đôi cánh của nó
dẫu đầu gối ta bao lần
hôn vỉa hè chăng nữa. Ocean,
cậu có lắng nghe chăng? Phần đẹp nhất
của cơ thể cậu là bất cứ đâu
bóng của mẹ cậu tỏa xuống.
Nơi đây là ngôi nhà của tuổi thơ
thu nhỏ còn một sợi dây bẫy duy nhất.
Đừng lo. Cứ gọi nó là đường chân trời
& cậu sẽ không bao giờ chạm vào nó.
Còn hôm nay. Nhảy đi. Ta hứa đó không
phải một chiếc thuyền cứu hộ. Đây là người
có đôi tay đủ lớn để ôm lấy
những thứ sót lại của cậu. Và đây là khoảnh khắc,
ngay khi đèn tắt, khi cậu có thể nhìn
ngọn đuốc le lói giữa hai chân ông.
Cách cậu dùng đi dùng lại nó
đặng tìm kiếm đôi tay mình.
Cậu xin cơ hội thứ hai
& được trao một chiếc mõm để trút vào
Đừng lo lắng, tiếng súng
chỉ là âm thanh của người ta
đang cố sống lâu hơn chút. Ocean. Ocean,
đứng dậy. Phần đẹp nhất  của cơ thể cậu
là nơi nó tiến đến. Và nhớ rằng,
nỗi cô độc vẫn là thời gian sống
trên đời. Đây là
căn phòng với mọi người trong đó.
Những bằng hữu quá cố của cậu đang đâm
xuyên cậu như ngọn gió
xuyên qua chuông gió. Đây là chiếc bàn
với chiếc chân cập kênh và hòn gạch
để giúp nó đứng. Đúng, đây là căn phòng
rất ấm và chung dòng máu,
Ta thề, cậu sẽ tỉnh –
và nhầm lẫn những bức tường này
với làn da.
(Đỗ Trí Vương dịch)
[1]: Từ “beach” trong tiếng Anh dễ bị đọc nhầm thành “bitch” (nghĩa là “chồn cái” và là một từ để nguyền rủa).
[2], [3]: Frank O’Hara (1926-1966) nhà thơ Mỹ, người dẫn đầu nhóm New York School. Federico García Lorca (1898-1936), nhà thơ Tây Ban Nha.
[4]: New York School: nhóm gồm những nhà thơ, họa sĩ, nhạc công... trong thập niên 1950-1960 của New York, hoạt động với nguồn cảm hứng chủ yếu từ chủ nghĩa hiện thực của châu Âu và những hình thức nghệ thuật mang tính “tiền phong” (avant-garde).
(Nguồn: Diacritics.org)
tuoitre.vn