Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

Thơ Lê Văn Hiếu

Blogger: Một bạn thơ vừa gửi đến mấy bài thơ. Mời quý thân hữu cùng đọc

CON CHIM SẺ TRONG SÂN BỆNH VIỆN

Này chim sẻ ,
Nhảy nhót trong sân bệnh viện
Nhảy nhót bên nỗi buồn
Đầy những số phận.
Này chim sẻ,
Nhảy nhót trong vòng cung bệnh viện
Nơi không có hạt thóc

Không phải sân phơi – cánh đồng
Ở đó có những khuôn mặt rười rượi.
Thấp thoáng,
Bức tường trắng, chiếc áo blu trắng
Chim sẻ rơi không tiếng động,
Bước chân của người thăm nuôi, không tiếng động
Lặng lẽ nhấc bên lề bệnh viện.
Bước chân hy vọng Sẽ nhấc bay về với phận người Se
̃ ngã khụy xuống lằn số mệnh.
Này chim sẻ
Ríu ran bài ca hy vọng
Lặng lẽ bay,
Lặng lẽ rơi.
Và cất cánh nhỏ nhoi lao ra ngoài bệnh viện.


GẶP ĐỒNG HƯƠNG TRÊN THÀNH PHỐ LẠ

Lững thững giữa thành phố lạ
Ngác ngơ chỉ một mình ta
Vô quán gọi vài cốc rượu
Đánh lừa cái nỗi bơ vơ.
Gặp anh xe ôm –đụng chén
Nào hay đụng phải người mình.
Gặp em vé số –chạm mặt
Nào ngờ chạm tiếng quê hương.
Xót xa ngậm thêm vài ngụm
Nghe cay đắng điếc cả hồn
Lời rao cô gái hoa quả
Nghe buồn-chạy dọc sống lưng.
Nghe vui những bàn chân cứng
Dọc ngang ở mọi ngả dường
Ta không một mình một bóng
Bạn ta chẳng phải cô đơn.


MẠCH SỐNG

Trong lúc tôi làm thơ.
Người hàng xóm ngồi tắm chó-thoáng bâng quơ nghĩ về người chồng bị bệnh nằm liệt của đôi ba năm trước.Người hàng xóm khác,nằm hát những bài ca buồn,thầm tưởng về thời xuân sắc,một thời trăng hoa,mà nàng là một cô gái đẹp lộng lẫy.
Và, cụ già trước mặt, tóc đã pha màu cước,tưới những chậu hoa,rồi tỉa tót,ngầm tạo những dáng thế cuộc đời,những thế cây là thế cuộc,có lẽ ông dày trải nghiệm,khuôn mặt ông trầm ngâm.

*Trong lúc tôi làm thơ.
Con chó nằm phơi lông,người đàn bà kia đã lặng im lời hát,có lẽ nàng đã trùm chăn và đã ngủ.Cụ già ngồi uống trà,lắng nghe chim hót,cuồng vọng nghe tiếng lọc của ban mai tinh khiết.

*Trong lúc tôi làm thơ .
Bài thơ chưa xong đã quá nửa ngày,mặt trời sắp treo trên đầu cây sân trước.Nhà bên đã ráo khô thoáng sạch,người đàn bà ấy ngồi buồn như khóc.cô hàng xóm kia vừa thức,lại cất lên tiếng hát bên nồi cơm đang sôi.cụ già hết đứng lại ngồi,ngắm nhìn và tỉa tót.

*Trong lúc tôi làm thơ.
Mọi chiều sống chung quanh tôi trở nên cô độc…

LÊ VĂN HIẾU

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

Cao Huy Khanh : VIỆT NAM - HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2011 : NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 75B – 27.6.2011 (Trích đăng từ 1.1.2010, xem MỤC LỤC DANH SÁCH ở Kỳ 75)

Tưởng niệm
Triều Uyên Phượng
NHÀ THƠ BÁN VÉ SỐ
Nhà thơ sinh khoảng 1944 tại Nam bộ – Mất tháng 6.2011 ở Bình Phước (68 tuổi).

Trước 75 làm sở Mỹ ở Cần Thơ đồng thời làm thơ tình thời chiến với bút danh rất đẹp kể trên so với thực tế ngoại hình xấu trai còm cõi trái ngược hẳn lại cận thị đến 16 độ. Nhưng dù bản thân không bị đi lính do sức khỏe kém, thơ tình thời chiến vẫn để lại ấn tượng tươi mới đặc sắc qua phong cách thơ tự do phóng khoáng, ý thơ thâm trầm:
“Em yêu hãy hôn anh một lần trước khi anh đi lính
giữa thời đại chiến tranh cái gì cũng vội vã hết
phải không em
nhưng nhớ hôn anh một lần này thôi
vì không chừng anh sẽ ra đi
hoặc trong mười năm mười lăm năm
hay vĩnh viễn
Bây giờ anh còn tay bây giờ anh còn chân bây giờ anh còn mắt
bây giờ anh chưa đui mù chưa câm điếc chưa què quặt
nhưng biết mai anh còn đủ không
và cả trái tim anh nữa
biết còn rung động
hay im lìm
ngừng đập.
Nhiều lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì
không biết để làm gì
nhưng dù không biết để làm gì đi nữa
hãy nhớ hôn anh một lần đi
em nhé.”
(Trước khi đi lính)

Sau 75 thất nghiệp tan vỡ tất cả mọi ảo tưởng từ thơ ca đến cuộc sống thực tế cơm áo gạo tiền phải lên TPHCM ngồi bán vé số lề đường Sương Nguyệt Anh ở Quận 1 bên cạnh một quán nhậu nơi có một số bạn bè văn nghệ cũ hay ghé lại tiện thể mua giùm vài vé “cứu đói”. Mắt cận nặng kèm nhem nhiều khi đếm tiền thối tiền lẫn lộn tùm lum!
Đã vậy trong đời sống riêng lại gặp thêm khổ nạn phải sống chung với một phụ nữ thuộc loại “mẹ mìn” ma chê quỷ hờn dữ dằn bậc nhất, làm được bao nhiêu tiền – hoặc bạn bè thương cảm giúp đỡ - đều bị “bóc lột” hết trần thân!
Tuy nhiên nhà thơ “trên mây” buôn bán kiểu đó làm sao sống nổi nên cuối cùng cả hai dắt díu nhau về vùng xa vùng sâu ở tận Bình Phước tìm vào tá túc trong một nữ tu viện có người thân ở đó.
Từ đó sống không ra sống, bản thân mắc bệnh già, vợ thì gần như mù luôn rồi. Chỉ còn cách lâu lâu về TPHCM nhờ anh em bạn bè cũ giúp đỡ tiền bạc được chút nào hay chút đó thôi.
Bất ngờ năm 2007 thấy xuất hiện trở lại ở TPHCM chạy vạy xin làm thủ tục… đi Mỹ theo diện bổ sung mới nhất (nhờ trước kia có làm sở Mỹ) song cái phao cuối cùng này cũng tuột khỏi tầm tay bởi nay gần như đã quên hết… tiếng Anh rồi! Đành thất tha thất thểu quay về tàn đời trong tu viện, ít ai biết tin tức liên lạc.
Vài năm sau trở bệnh nặng đưa lên TPHCM thì tất cả đều ngoài tầm tay mà cũng đã quá muộn màng. Hỏa táng ở Bình Hưng Hòa trong tình cảnh khốn khó cô quạnh mà bạn bè không ai hay biết.

755 – Alăng Bhuôch
ANH HÙNG MÙ
Nông dân người dân tộc Cơ Tu sinh 1921 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (2008).
Lúc 6 tuổi mắc bệnh sởi nên bị mù cả 2 mắt. Dù vậy vẫn theo mẹ (cha mất sớm) vào rừng đốn củi kiếm sống nên dần dà việc gì cũng biết làm, đi đâu cũng được nhờ cây gậy tre dò đường thay cho đôi mắùt.
Từ năm 1958 theo cộng sản đánh Mỹ, tình nguyện vào đội dân công làm công tác mang vác lương thực, vũ khí cho bộ đội từ chiến trường Quảng Nam đến tận Thừa Thiên – Huế. Có khi mang trên lưng khối lượng hơn 60-70kg trong khi bản thân chỉ cân nặng 50kg. Nhiều lần đi lạc đường cuối cùng vẫn tìm về được, có khi bị bom nổ hất xuống hố đất cát vùi lấp tưởng chết rồi vẫn chui ra… sống dậy!
Từ đó được tặng cho biệt danh “Ông già huyền thoại Trường Sơn”.
Năm 1970 từ trong chiến trường làm lễ kết hôn với một cô gái đồng đội đồng hương.
Đến năm 1972 sức khỏe suy giảm mới được cho nghỉ, tính đến khi đó đã gùi trên lưng đến… 18 tấn lương thực vũ khí phục vụ chiến sĩ đánh giặc.
Sau khi chiến tranh kết thúc trở về buôn làng cũ xắn tay vào xây dựng cuộc sống ổn định, làm vườn, đào ao nuôi cá. Bây giờ lại tự tay một mình mò mẫm đào 2 cái ao lớn nuôi cá, mỗi cái đào trong một tháng mình “cày” vợ đẩy xe cút kít đổ đất. Rồi tiếp tục san lấp mặt bằng trồng rau, đào cả một con mương về làm lúa nước và còn vào rừng đặt bẫy săn thú nữa.
Vậy mà năm 2003 khi có chủ trương mở đường, trong một tháng đã tự mình tháo dỡ ngôi nhà chuyển qua bên kia đường nhườøng đất làm tuyến đường Hồ Chí Minh.
Năm 1980 cưới thêm bà vợ nữa cũng vốn là đồng đội cũ đồøng hương với bà vợ cả do chính bà… đi tìm do bà bị ảnh hưởng CĐDC nên không có con. Với vợ mới sinh được 2 con.
Năm 2007 huyện làm hồ sơ ra Trung ương đề nghị phong Anh hùng song chưa được chấp nhận do thiếu giấy tờ. Vì bản thân mù chữ không quan tâm lưu giữ bao nhiêu chứng từ bằng khen và huân – huy chương, đã vậy nhà còn bị một trận cháy tiêu hết tất cả! May mà con cháu trong ngành giao thông vận tải tỉnh đã vận động nhau làm cho một ngôi Nhà Tình thương.

756 - A Lết
MỘT THỜI FULRO
Lao động người dân tộc Ba Na sinh 1956 tại Gia Lai. Sống ở Gia Lai (2008).
Trước 1975 gia đình có người thân đi lính chế độ Sài Gòn cũ nên sau 1975 nghe theo bạn bè đi theo Fulro chống phá cộng sản quấy rối vùng Tây Nguyên âm mưu thành lập quốc gia tự trị. Được phong chức xã trưởng.
Năm 1980 bị bắt đưa về tỉnh giam, tuy nhiên thấy mức độ tội trạng nhẹ nên sau đó được thả ra.
Về tiếp tục hoạt động cho Fulro, được đưa qua Campuchia huấn luyện rồi đưa về quê cũ thăng chức quận trưởng.
Năm 1984 do nội bộ bất hòa gây mâu thuẫn nên bị tố tội “nằm vùng” cho cộng sản, Fulro chuẩn bị đưa ra xử tử. Vì vậy đầu năm 1985 bỏ trốn về đầu thú chính quyền. Sau thời gian đi học tập cải tạo, được trả tự do về với gia đình.
Từ đó chuyên tâm làm ăn xa rời chính trị đấu đá. Nhờ hồi nhỏ có được học hành sơ sơ nên bây giờ tự mày mò học hỏi ra làm nghề sửa chữa radio, cassette. Vợ con làm ruộng và cà phê, bán thuốc Tây. Khuyến khích con trai khôi phục nghề thêu thổ cẩm truyền thống lập hợp tác xã sản xuất buôn bán mặt hàng này thành công. Đời sống cả nhà ngày càng khấm khá.
Năm 2000 rồi năm 2004 tàn quân Fulro nhắn tin về lôi kéo quay lại hàng ngũ ý đồ xây dựng lực lượng “Tin Lành Đề Ga” -- chống cả đạo Tin Lành chính thống lẫn cộng sản -- song đều dứt khoát từ khước. Với niềm xác tín Kinh Thánh đã dạy: “Có những con đường ta ngỡ sáng song đó là nẻo đường đến với cái chết.”

757 - Anh Việt
NHẠC THIỀN, NHẠC KINH
Nhạc sĩ tên thật Trần Văn Trọng sinh 1927 tại Rạch Giá – Mất 2008 ở Mỹ (81 tuổi).
Từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ vừa sáng tác nhạc nổi tiếng từ thời đó đặc biệt với ca khúc “Bến cũ” viết 1946.
Sau 1954 ở lại miền Nam gia nhập quân đội VNCH làm lớn đến chức đại tá từng nắm chức Cục trưởng Quân cụ. Trong chế độ Thiệu ủng hộ cựu Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ nên nhận chức Chủ tịch Hội Văn nghệ sĩ Quân độ theo phe này.
Di tản qua Mỹ 30.4.75.
Trên đất Mỹ ban đầu đi dạy học cho con em Việt kiều. Được một thời gian thì rút lui vào sống ẩn dật để quay trở lại con đường sáng tác âm nhạc mà trước đây phải xa rời do bận công vụ. Ban đầu là những bài hoài niệm đời nghệ sĩ lưu vong như “Ngày tôi xa Sài Gòn”, “Đừng khóc nữa em ơi”, “Xuân viễn xứ”, “Tôi sẽ về quê hương” (1985)…
Sau đó chuyển qua tập trung nghiên cứu Phật học và viết nhạc thiền phổ nhiều thơ của thiền sư Nhất Hạnh (ở nhà thường xuyên mang áo tràng cư sĩ). Năm 1993 và 1996 ra một tập nhạc và 2 đĩa CD nhạc thiền, năm 1997 ra 2 CD nữa phổ nhạc các bài kinh bài kệ Phật giáo do Phật tử hát mình đệm đàn mandoline.
Năm 1999 tổ chức buổi diễn kỷ niệm 50 năm sáng tác âm nhạc với toàn bộ tiền bán vé gửi về quê nhà giúp đồng bào bị nạn bão lụt miền Trung.

758 - A Tiết
SUỐT ĐỜI ĐI BỘ ĐƯA THƯ
Bưu tá xã người dân tộc Xê Đăng sinh 1948 tại Kon Tum. Sống ở Kon Tum (2008).
Từ năm 17 tuổi đã nhận nhiệm vụ làm giao liên cho cộng sản đưa thông tin, thư từ liên lạc từ vùng căn cứ ra huyện. Vì phải đi bộ xuyên qua địa bàn địch gặp rất nhiều nguy hiểnm khó khăn nên thường phải đi băng đường rừng vào ban đêm 2-3 ngày mới tới nơi đồng thời phải tìm cách ngụy trang tài liệu giấu vào giữa ruột ống lồ ô đựng gạo cơm.
Lập nhiều chiến công thầm lặng như vậy nên năm 1970 được kết nạp Đảng.
Sau chiến tranh vẫn bám trụ địa bàn cũ vùng cao phía cực bắc Tây Nguyên vẫn với nhiệm vụ cũ làm bưu tá đi bộ đưa thư và nay thêm công văn, báo chí cho 2 xã cách nhau 100km. Cho nên ngày nào cũng đi suốt từ sáng đến tối mịt mới về nhà, có hôm gặp trời mưa gió phải ở lại tá túc nhà dân mà nơi đây ai cũng đều quen mặt hàng chục năm nay rồi.
Đã hơn 40 năm rồi chân cứng đá mềm không hề nghe được “lên chức” gì cả vẫn miệt mài lội bộ với đầøu đội nón cối vai mang túi vải bộ đội chân xỏ đôi dép mũ đơn giản cứ thế mà đi dẻo dai quả là “Người đi bộ lâu và nhiều nhất nước”.
Không hề có lấy một lời than van mà chỉ khiêm tốn nhỏ nhẹ rằng “Tôi chỉ làm chút chút cho cách mạng thôi không có cái chi để nói mô”!

759 - Ayun Hới
NHỮNG “ĐỨA CON TRỜI CHO”
Nông dân người dân tộc Ê Đê sinh 1931 tại Gia Lai. Sống ở Gia Lai (2008).
Thời trẻ theo cách mạng đánh Mỹ, năm 1968 mang lon sĩ quan bộ đội. Lấy vợ cũng bộ đội dân tộc Jơ Rai.
Sau 1975 vợ xuất ngũ về buôn làng làm ruộng, còn mình tiếp tục được điều qua chiến trường Campuchia. Đến khi bị thương hư một mắt mới được cho ra quân về quê sống với vợ.
Trong chiến tranh đã có 2 con song do điều kiện nuôi nấng khó khăn nên sức yếu đều sớm qua đời khiến 2 vợ chồng già nay đành lủi thủi sống cô đơn buồn tẻ.
Thế rồi một lần nọ gặp một trẻ thơ người Ba Na do mẹ vừa sinh ra đã trút hơi thở nên theo phong tục lạc hậu bị bố bỏ mặc ngoài trời cho “đi theo mẹ nó”, thấy vậy không đành lòng mới “cướp” lấy mang về nhà nuôi nấng xem như con ruột. Aáy cũng nhờ thời đi bộ đội được học hành có hiểu biết đôi chút về nếp sống văn minh đẩy lùi, xóa bỏ các tập tục lỗi thời.
Sau đó lại cưu mang thêm một đứa trẻ bo vơ khác mà lại là dân tộc Kinh.
Từ đó tiếng lành đồn xa, có nhiều đứa trẻ mồ côi lạc loài tứ xứ đều tìm đến hoặc được người khác đưa đến nhờ… nuôi giùm, gọi là con “trời cho”! Đủ các “quốc tịch” dân tộc từ Kinh đến Ê Đê, Jơ Rai, Ba Na… tất cả tạo nên một gia đình “Liên hợp quốc Việt Nam” thu nhỏ: “Cứ một đứa thì bỏ một hòn cuội vào hũ để đánh dấu ngày mình nhận nó vô nhà, cũng được hơn 2 chục hòn cuội rồi…”
Nhưng để nuôi đủ chúng cả 2 vợ chồng phải vất vả làm lụng lên núi xuống rẩy tối tăm mặt mày kiếm thêm chút tiền phụ vào lương hưu bộ đội.
Nhờ trời rồi cũng qua phà, đám con nuôi cứ dần dà lớn lên vững vàng như cây rừng ra đời lấy vợ lấy chồng lại mang về khoe cha mẹ nuôi các cháu. Vậy là hạnh phúc rồi như điều mình từng được học thời đi bộ đội: “Ai làm cho nhiều người hạnh phúc nhất thì người đó hạnh phúc nhất.”

760 – Bạch Hữu Bồng
NHÀ BÁO BỊ MƯU SÁT

Nhà báo Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ.
Qua Mỹ sau 1975 làm chủ nhiệm một tờ tuần báo nhỏ tiếng Việt ở Los Angeles.
Năm 1982 cho đăng một bài điều tra về một băng nhóm xã hội đen trong cộng đồng Việt kiều tại Quận Cam do một số sĩ quan “người nhái” hải quân VNCH – lực lượng biệt kích ưu tú của hải quân VNCH được huấn luyện theo kiểu Mỹ – cầm đầu. Lập tức sau đó bị phục kích bắn nhiều phát đạn khi vừa rời khỏi một nhà hàng ở khu Chinatown nhưng may mà đưa vào bệnh viện cứu sống kịp thời.
Bản thân sau đó tố cáo đích danh một cựu sĩ quan “người nhái” VNCH là thủ phạm và cảnh sát Mỹ đã bắt giữ người này đưa ra toà song cuối cùng được tha bổng vì thiếu chứng cứ cụ thể!
Đành chấp nhận đóng cửa báo rút lui cho yên thân.
(Còn tiếp)
http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hshc-ki-75b

Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2011

Thơ Trần Hữu Dũng

KHÔNG BAO GIỜ BÁO TRƯỚC

Những người đàn bà đi qua đời tôi
Không bao giờ báo trước
Họ đi xuyên qua thân thể/tâm hồn tôi
Những lời yêu thương, những vuốt ve, những mùi hương
Để lại vô vàn dấu vết, lỗ chỗ kỷ niệm
Họ hiện ra tinh khôi như mặt trời rực rỡ
Lại vội vàng biến mất như chim trời, cá nước.


BIỂN

Vòng tay ôm ấp, vỗ về
Từng đêm ru bao lời huyền hoặc
Một hôm trái tính

Biển thịnh nộ
Nhấn chìm mọi thứ
Linh hồn biển hoang dại

Mê đắm trôi dạt
Áp tai vào vỏ óc trên bãi tắm

Còn nghe u u tiếng khóc than…

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Tưởng niệm Nhà thơ Triều Uyên Phượng



Trước 75 nhà thơ Triều Uyên Phượng chuyên làm thơ tình lãng mạn bay bướm cho lứa tuổi học trò đúng như bút danh rất đẹp của mình
Sau 1975 nhà thơ lâm vào cảnh nghèo túng phải bán vé số độ nhật qua ngày .Tuy nhiên nhà thơ “trên mây” buôn bán kiểu đó làm sao sống nổi nên cuối cùng dắt díu vợ về vùng xa vùng sâu ở tận Bình Phước tìm vào tá túc trong một nữ tu viện có người thân ở đó. Sống không ra sống, bản thân mắc bệnh già,cận thị 16 độ, vợ thì mù . Cuộc sống chỉ còn nhờ vả bạn bè cũ và người thân.Anh đã ra đi lặng lẻ,âm thầm vào sáng ngày 5 tháng Năm Tân Mão (nhằm ngày 06 tháng 06 năm 2011 sau một cơn đột quị, gần cả tháng sau bạn bè anh em văn nghệ mới hay tin.

Nhắc đến bút danh Triều Uyên Phượng là chúng ta không thể nào quên những bài thơ tự do đã đăng trên Văn thời Trần Phong Giao phụ trách. Những lời thơ như những tiếng kêu trầm thống của một thế hệ: thế hệ chiến tranh.

Chúng tôi xin được trích đăng lại ba bài thơ do chúng tôi sưu tập, như là nén hương lòng dâng lên hương hồn của người bạn thơ quá cố. (Trần Hoài Thư)

Triều Uyên Phượng

Trước khi đi lính

Em yêu hãy hôn anh một lần trước khi anh đi lính
giữa thời đại chiến tranh cái gì cũng vội vã hết
phải không em
nhưng nhớ hôn anh một lần này thôi
vì không chừng anh sẽ ra đi
hoặc trong mười năm mười lăm năm
hay vĩnh viễn
Bây giờ anh còn tay bây giờ anh còn chân bây giờ anh còn mắt
bây giờ anh chưa đui mù chưa câm điếc chưa què quặt
nhưng biết mai anh còn đủ không
và cả trái tim anh nữa
biết còn rung động
hay im lìm
ngừng đập.
Nhiều lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì
không biết để làm gì
nhưng dù không biết để làm gì đi nữa
hãy nhớ hôn anh một lần đi
em nhé.

Bầy mối của chàng

Chàng mãi loay hoay trí nhớ
sao bầy mối cứ đùn lên hoài
tội nghiệp cho tuổi trẻ chàng
thật tội nghiệp hết sức.

Xin hãy nói dùm với bầy mối
hãy kêu la dùm chàng
hãy kêu la và thét
bầy mối ơi bầy mối
tội nghiệp hết sức.

Sao bầy mối cứ đùn trong trí nhớ chàng vậy
ai làm ơn nói dùm với nàng
Xin hãy buông tha chàng.

khi mãn cuộc

Chàng ngồi xe ra đi và đốt thuốc
Một đốm lửa lòe trong tay chàng
Rồi vụt tắt
Chàng thì thầm trong tay
Đoạn khóc rất sỗ sàng

Điếu thuốc dần tàn dần tàn trên môi
Chàng thì buồn hơn lúc nào
Những hơi thở lụn bại
Kéo dài trong chàng từng cơn.

(Nguồn: Thơ Miền Nam Thời Chiến Tập I- Thư Ấn Quán Hoa Kỳ Xb 2009)

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

Thơ Trần Vàng Sao

L.T.S: Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1942 ở Vỹ Dạ, Huế. Anh là một trong những sinh viên đầu tiên tham gia cách mạng ở Huế trong kháng chiến chống Mỹ.
Thoát ly lên chiến khu năm 1966. Những bài thơ đầu tiên của anh in trên các báo của sinh viên, trí thức Huế đầu những năm 60. Thời kỳ ra Hà Nội an dưỡng anh được bạn đọc đặc biệt chú ý với bài thơ “Bài thơ của người yêu nước mình”. Đó là một bài thơ hay được chọn lọc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản trong và ngoài nước. Thơ anh có bản sắc riêng, độc đáo và đậm đặc chất dân dã của một vùng đất quê hương.









Những bài hát bà ru ba lúc nhỏ bây giờ ru con

(Trích)



Buổi chiều

sau những cơn mưa mùa hè

nước trôi trên đất còn lại những mảnh chai mảnh ngói

mặt trời sáng trong giọt nước mưa đầu ngọn tranh

gió thổi cây cối rung hết lá cho khỏi ướt.



Mùa thu bắt đầu bằng những cơn bão

và nước lớn trên những con sông

rất nhiều tàu giấy chìm trong vũng nước trước nhà

con gà con chết trôi mắc ở đầu miệng cống

nửa đêm gió thổi to

rụng những trái trứng gà trên mái tôn



Chiều chiều con chim chi bay ngang đập cánh

gió đùa cọng rơm ngoài sân




Tháng chín trời mưa không lâu

mưa chưa qua tới bên này sông đã tạnh

hột mưa bay qua cửa sổ gió đàn ngọn lửa củi tre cười trong bếp


Trưa hôm sau trời nắng rất to gió rung những bông cỏ gà hai bên đường

con chuồn chuồn ớt đậu đầu chót nhánh nè dưới ao

con buồn ngủ trên vai

mẹ già đi lượm mù u bà hát thổ nho nhỏ cho con chuồn chuồn không bay xa

cái ống xoáy con chơi vất trong góc nhà



Mặt trời treo trên dây nôi

Như trái trứng gà sống nửa đêm gió thổi rụng trên mái tôn

sáng mai bà đi lượm

đem về dú trong rương với lá thầu đâu và rơm

còn mùi hương thắp rất kín.





Không đề



Bây giờ là mùa xuân

tôi ăn ở với em làm vợ chồng

cây cỏ tốt tươi

hột mưa tháng giêng rất má

trớt trên ngọn trầu không

tôi ăn ở cùng em làm vợ chồng mọi người mừng em phúc hậu

em đứng sau lưng tôi mở mắt cười

tôi nói rất ngắn cảm ơn hết mọi người

đến chúc mừng chúng tôi trong ngày đám cưới.



1976


Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

Cao Huy Khanh : VIỆT NAM - HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011 : NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 75 – 20.6.2011 (Trích đăng từ 1.1.2010, xem MỤC LỤC DANH SÁCH ở kỳ 75)

751- Vương Văn Nô
“CLB ÔNG BÀ CHÁU”
Thường dân sinh 1932 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2002).
Thương binh chống nạng với một chân giả về già vẫn chưa yên, thấy trẻ em nghèo thất học lang thang hư đốn không đành lòng bèn lập ra “CLB Ông bà cháu” nhằm tập trung chúng lại đưa về nhà dạy chữ và dạy đạo lý làm người.
Tất cả được chừng 100 em gọi ông bằng “ông Tư” như người ông ruột thịt trong gia đình.
Đó là niềm vui tuổi già của mình: “Trải qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt, giờ không nỗi đau nào bằng nhìn trẻ em nghèo không được học hành. Tôi không thể nào ngồi yên như vậy được.”

752 - Vương Văn Trung
NGƯỜI CÙNG KHỔ CƯU MANG NGƯỜI CÙNG KHỔ
Thường dân sinh 1953 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2006).
Bộ đội có mặt trong trận chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 1972.
Thương binh xuất ngũ vừa nhiễm CĐDC vừa còn mang một mảnh bom trong tim và trong phổi trái. Sinh 2 con đều bị thiểu năng trí tuệ, mắt lác, viêm đa khớp không đi lại được. Năm 2004 còn phải mổ ung thư dạ dày. Chỉ trông mong vào lương hưu 2 vợ chồng (vợ công nhân) để trang trải mọi thứ.
Vậy mà vì lòng thương nguời nên trong nhà còn nuôi thêm một cụ già neo đơn không ai chăm sóc lại bị mù 2 mắt cộng thêm bệnh tiểu đường trong hơn 20 năm cho đến đến ngày cụ mất (từ 1983 – 2005).

753 - Xuân Đức

NHÀ VĂN CUỐC ĐẤT
Nhà văn tên thật Nguyễn Xuân Đức sinh 1947 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2011).
Năm 1965 vừa tốt nghiệp phổ thông xung phong đi bộ đội chiến đấu trên chiến trường quê hương quen thuộc Cam Lộ.
Sau 75 có thời gian xin tạm ra quân về quê nhà khai khoản đấùt hoang trồng trọt nuôi mẹ già và đàn con nhỏ. Năm 1979 được quan tâm cho đi dự trại sáng tác rồi học Trường Viết văn Nguyễn Du thì không có đủ tiền tàu xe, sinh hoạt và nuôi vợ con nữa nên phải tận dụng… đi buôn lẻ!
Năm 1982 tốt nghiệp ra trường thuộc đơn vị ở Hà Nội (Nhà hát kịch Quân đội) nhưng vẫn xin về Quảng Trị vừa sáng tác vừa tranh thủ… cày cuốc! Vậïy mà vẫn không thoát được kiếp nạn: Cháy nhà cháy sạch tất tần tật kể cả áo quần con cái khiến con phải mặc quần đùi đến lớp bị cô giáo đuổi về khóc nức nở!
Vẫn cặm cụi vượt lên tất cả vừa tiếp tục làm vườn vừa làm nhiệm vụ ở đoàn kịch vừa tranh thủ viết lách.
Bù lại sau đó là thành công gây tiếng vang của những cuốn tiểu thuyết “Cửa gió” (2 tập, 1980-84), “Người không mang họ” 1984; kịch “Tổ quốc” (viết chung với Đào Hồng Cẩm), “Người mất tích”, “Cái chết chẳng thể dễ dàng gì”, “Aùm ảnh”… Đặc biệt viết kịch rất nhiều đủ thể loại từ kịch nói, kịch thơ, kịch hát và cả kịch bản phim truyền hình.
Năm 1990 chuyển ngành – hàm trung tá – về Sở Văn hóa – Thể thao Quảng Bình. Và cuối cùng năm 1995 lên tới chức…giám đốc sở đến 2006 nghỉ hưu. Tiếp tục viết kịch “Chuyến tàu tốc hành trong đêm”…

754 - Xuân Vũ

VIẾT SÁCH CHỐNG CỘNG NHIỀU NHẤT
Nhà văn tên thật Bùi Quang Triết sinh 1930 tại Bến Tre – Mất 2004 ở Mỹ (75 tuổi).
Tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền tây Nam bộ cùng thời với Sơn Nam, làm phóng viên chiến trường.
Năm 1954 tập kết ra Bắc chuyển qua viết văn được kết nạp Hội Nhà văn VN, bạn của các nhà văn Nam bộ tập kết như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng.
Năm 1963 trở lại chiến trường miền Nam, hoạt động ở miền đông rồi miền tây Nam bộ ngay tại quê hương Bến Tre.
Bất ngờ năm 1971 ra đầu thú chính quyền Sài Gòn tại Bến Tre với lý do thất vọng về chủ nghĩa cộng sản thực tế không như lý tưởng từng ấp ủ thời trẻ. Được chế độ Sài Gòn tin dùng cử làm làm quan chức cao cấp Nha Chiêu hồi (chiêu hồi Việt cộng) rồi sau chuyển về Đài Mẹ VN do Mỹ lập ra.
Trong thời gian này bắt đầu cho xuất bản các cuốn hồi ký chống Cộng kể về khoảng thời gian vượt đường Trường Sơn vào Nam như “Đường đi không đến”, “Xương trắng Trường Sơn”, “Đến mà không đến” có hiệu quả khá thuyết phục vì kể chuyện người thật việc thật bản thân mình từng trải qua. “Đường đi không đến” được tặng giải thưởng văn học nghệ thuật của chế độ cũ 1973.
Trong biến cố 30.4.75 lên tàu chạy qua Hong Kong rồi đến Mỹ.
Tại Mỹ sau thời gian đầu làm nghề khác để nuôi 5 con đồng thời vẫn dành thời gian để viết tiếp. Đến 1989 nghỉ làm ngoài hẳn để bắt đầu tập trung sáng tác. Với sức viết khủng khiếp trong khoảng 27 năm đã viết đến gần 80 tác phẩm trong đó in 74 cuốn qua 10 nhà xuất bản hải ngoại (riêng “Đường đi không đến” tái bản 8 lần).
Tất cả đều chuyên chú vào chủ đề chống Cộng dù là hồi ký (mảng sáng tác thành công nhất: “Mạng người lá rụng”, “Kẻ sống sót”, “Đỏ và Vàng”, “Khúc ruột người Nam”, “Trả ta sông núi”, “2.000 ngày đêm trấn thủ Củ Chi”, “Văn nghệ sĩ miền Bắc mà tôi biết”…), truyện ngắn (6 tập), tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết “đồng quê”, truyện dã sử, khảo luận… Cả viết báo cũng rất nhiều nữa
Về già mắc bệnh vẫn cố giấu bệnh để viết xem như là một thiên chức cao cả theo gương nhà văn Liên Xô ly khai cộng sản A. Soljenitsyne (1918-2008) Nobel Văn học 1970: “Viết văn đối với tôi là một việc cao quý mà gian khổ và đau khổ, lắm khi đầy đe dọa nữa.”
Mất đúng ngày đầu năm mới 1.1.2004.
HẾT ĐỢT I – KỲ TỚI BỔ SUNG ĐỢT II
--------------------------------------------------------------

MỤC LỤC DANH SÁCH
(Đợt I – Xếp thứ tự ABC, theo họ hoặc tên đứng trước
)

Andrew Lâm – Kỳ 24
Anh Cu Cá – K1
Anh Joseph Quang Cao – K3
Anh Doan – K29
Ba Hường – K29
Ba Lãng – K1
Ba Phúc – K29
Ba Thi – K30
Bà Bốn Thời – K44
Bà Hồng – K12
Bà Nguyễn (1) – K1
Bà Nguyễn (2) – K1
Bà Nguyễn Bảo Tùng – K1
Bà Nguyễn Thông Thái – K1
Bà Trần Giòn – K18
Bảo Ninh – K1
Bảy Lòng – K29
Bảy Lốp – K25
Bé Hai – K29
Blúp Dứ K1
Brigitte Lê – K1
Bùi Đình Thăng – K1
Bùi Giáng – K1
Bùi Kiến Thành – K20
Bùi Minh Giám – K7
Bùi Minh Quốc – K1
Bùi Thị Bông – K40
Bùi Thị Hiền – K20
Bùi Thị Thìn – K1
Bùi Tấn Hoàng – K39
Bùi Tường Huân – K1
Bùi Văn Lành – K1
Bùi Văn Thành – K2
Bùi Văn Toán – K9
Bửu Chỉ – K2
Calvin P. Tran – K9
Cam Thị Cúc – K20
Cao Thị Quế Hương – K5
Cao Văn Khánh – K68
Cao Văn Viên – K2
Cáp Thị Hồng – K20
Chánh Trinh – K2
Châu Kỳ – K2
Chế Linh – K68
Chị Ly – K2
Chóe – K3
Chu Thế Dũõng – K67
Diễm Châu – K2
Duy Khánh – K66
Duy Ngo – K40
Duyên Anh – K2
Dư Hải – K2
Dương Bá Quy – K24
Dương Đức Lộc – K2
Dương ĐứcVực – K3
Dương Hòa – K3
Dương Hứa – K3
Dương Lệ Chi – K52
Dương Nghiễm Mậu – K3
Dương Quỳnh Hoa – K3
Dương Thanh Liêm – K3
Dương Thị Diệp – K26
Dương Văn Ba – K9
Dương Văn Phúc – K8
Dương Văn Minh – K68
David Duong – K68
Dominic Hong Duc Golding – K16
Donna Jean Johnson – K62
Đàm Vĩnh Hưng – K3
Đào Linh – K3
Đào Minh Vân – K20
Đào Mộng Nam – K4
Đào Ngọc Lời – K4
Đào Văn Cường – K51
Đào Văn Thức – K29
Đào Văn Tư – K4
Đào Xuân Quý – K4
Đạo Dừa – K45
Đặng Hồng Nhựt – K9
Đặng Ngọc Giang – K4
Đặng Ngọc Khoa – K4
Đặng Quý Địch – K59
Đặng Thị Kim Hồng – K11
Đặng Thị Thanh Thúy – K53
Đặng Thị Tuyết Mai – K22
Đặng Thị Xuân Hợp – K4
Đặng Văn Minh – K8
Đặng Văn Quang – K24
Đặng Văn Tuyến – K4
Đinh Công Bảy – K11
Đinh Công Đắc – K16
Đinh Huy Cài – K68
Đinh Thị Đen – K8
Đinh Thị Tuất – K4
Đinh Văn Em – K4
Đinh Viết Tứ – K22
Đoàn Công Tính – K9
Đoàn Minh Phượng – K4
Đoàn Thị Luân – K18
Đoàn Văn Toại – K24
Đỗ Đình Goòng – K7
Đỗ Hòa – K4
Đỗ Mậu – K6
Đỗ Ngọc Yến – K5
Đỗ Nguyễn – K32
Đỗ Thanh Nhuận – K43
Đỗ Thị Kim Ngân – K5
Đỗ Thị Là – K5
Đỗ Thông Minh – K5
Đỗ Văn Trọn – K35
Đồng Văn Khuyên – K5
Đơn Dương – K43
Đức Huy – K37
Giao Linh – K68
Già Dêr – K9
Giản Chi – K5
Giao Tiên – K32
Hà Thanh – K57
Hà Thị Tính – K11
Hà Thúc Cần – K68
Hạ Quốc Huy – K54
Hanmoi Nguyen – K5
Hoa Hướng Dương – K5
Hòa Vang – K5
Hoài Điệp Tử – K5
Hoàng Bình Trọng – K47
Hoàng Cát – K6
Hoàng Cơ Minh – K68
Hoàng Đình Huấn – K6
Hoàng Hải Thủy – K68
Hoàng Hồng Kiên – K66
Hoàng Kiều – K10
Hoàng Kim Nhuận – K47
Hoàng Minh Nhân – K66
Hoàng Mộng Thu – K6
Hoàng Ngọc Tuấn – K6
Hoàng Ngọc Tuấn (2) – K6
Hoàng Phủ Ngọc Tường – K6
Hoàng Thi Thơ – K6
Hoàng Thị Lựu – K11
Hoàng Thị Lý – K10
Hoàng Thị Nghị – K6
Hoàng Thị Thoa – K6
Hoàng Trúc Ly – K6
Hoàng Văn Uyên – K67
Hoàng Việt Hùng – K11
Hồ Huy – K9
Hồ Phúc Yên – K12
Hồ Thị Rinh – K7
Hồ Ngọc Mỹ – K7
Hồ Thị Thanh – K7
Hồ Ting – K9
Hồ Trọng Âm – K7
Hồ Văn Bê – K10
Hồ Văn Thương – K32
Hồng Khắc Kim Mai – K7
Huyền Vũ – K7
Huỳnh Ba – K7
Huỳnh Bá Thành – K7
Huỳnh Ngọc Đảm – K19
Huỳnh Ngọc Thương – K7
Huỳnh Phan Anh – K8
Huỳnh Phước Đường – K13
Huỳnh Tấn Mẫm – K19
Huỳnh Thị Kiều Thu – K10
Huỳnh Thị Xưa – K10
Huỳnh Trí – K8
Huỳnh Văn Thắng – K10
Huỳnh Văn Thủy – K18
Jackie Zudis – K13
Jenny Do – K8
Jimmy Phạm – K65
John Nguyen – K9
Kăn Lây – K39
Kbôr Gioang – K10
Kevin – K18
Kha La May – K10
Không tên (1) – K8
Không tên (2) – K8
Khúc Minh Thơ – K8
Khương Thế Hưng – K8
Kiều Chinh – K10
Kiều Thị Hòa – K10
Kim Browne – K15
Kim Dung Trần – K11
Kim Hạnh – K11
Kim Ngọc – K56
Kim Phúc – K11
Kim Vermeire – K11
Ksor Phi Ly – K21
Lam Phương – K50
Lâm Chí Trung – K13
Lâm Triết – K11
Lâm Văn Bảng – K12
Lâm Việt Bắc – K29
Lê Anh – K12
Lê Ân – K48
Lê Bá Đại Dương – K13
Lê Bá Quát – K12
Lê Bửu Tần – K12
Lê Cao Đài – k12
Lê Cao Nguyên – K12
Lê Chăm Đào – K12
Lê Công – K54
Lê Đình Duật – K12
Lê Đình Hùng – K13
Lê Đức Luận – K13
Lê Đức Tuấn – K54
Lê Hoán – K13
Lê Hoàng Thân – K13
Lê Hồng Kông – K39
Lê Hùng Dũng – K41
Lê Hữu Dùng – K14
Lê Hựu Hà – K14
Lê Lan Anh – K15
Lê Long – K14
Lê Lựu – K37
Lê Mạnh Thát – K13
Lê Minh Đảo – K23
Lê Minh Đức – K38
Lê Ngọc Bìnhh – K14
Lê Như Khoa – K14
Lê Phước Huệ – K14
Lê Phước Thúy – K14
Lê Quang Vịnh – K14
Lê Tân – K61
Lê Thanh Bùi – K14
Lê Thành Aân – K45
Lê Thành Nhơn – K14
Lê Thành Quận – K15
Lê Thành Ứng – K44
Lê Thị Diễm Thúy – K22
Lê Thị Hồng Thủy – K50
Lê Thị Huệ – K15
Lê Thị Liễu – K15
Lê Thị Nghê – K15
Lê Thị Nhị – K15
Lê Thị Sửu – K36
Lê Thị Tịch – K15
Lê Uyên Phương – K54
Lê Văn Bình – K17
Lê Văn Cong – K55
Lê Văn Hiếu – K15
Lê Văn Huỳnh – K39
Lê Văn Kiểm – K16
Lê Văn Ở – K56
Lê Văn Róc – K16
Lê Văn Tài – K16
Lê Văn Thọ – K16
Lê Văn thức – K16
Lê Vũ Cầu – K17
Lê Vũ Đạo – K16
Lê Xuân Chinh – K16
Leyna Nguyễn – K25
Lina Tăng – K43
Liên Khui Thìn – K52
Linda Lê – K43
Loan Brosmer – K16
Lò Văn Cân – K33
Lương Thanh Nhàn – K17
Lương Thị Hội – K29
Lương Túy Vân – K17
Lương Văn Bạo – K17
Lương Văn Tô My – K17
Lương Xuân Thành – K39
Lưu Liên – K17
Lưu Quang Vũ – K55
Lưu Thị Hồng – K17
Má Mười – K42
Mai Giảng Vũ – k18
Mai Hữu Trí – K17
Mai Tấn Hoàng – K17
Mai Thanh Hùng – K18
Mai Thảo – K59
Mai Văn Dung – K18
Mai Văn Hạnh – K18
Mai Xuân Lụa – K18
Mary Mustard Reed – K18
Meyung Robson – K32
Mi Dôn – K19
Minh Chuyên – K19
Minh Đức Triều Tâm Aûnh – K23
Minh Hiền – K19
Minh Kỳ – K19
Mirei Lehmann – K19
Nam Lộc – K19
Nancy Bùi – K19
Natalie Tran – K66
Ngọc Duệ – K19
Ngọc Huyền – K45
Ngọc Thứ Lang – K20
Ngô Chính – K20
Ngô Công Đức – K20
Ngô Hoàng Đợt – K20
Ngô Pang Thu Thái – K60
Ngô Phan Lưu – K20
Ngô Quang Kiệt – K42
Ngô Quang Trưởng – K21
Ngô Sỹ Sơn – K21
Ngô Thế Hùng – K21
Ngô Thế Hùng – K21
Ngô Thị Sâm – K21
Ngô Thị Tần – K24
Ngô Thị Thúy Phường – K39
Ngô Tình – K21
Ngô Vũ Bích Diễm – K13
Nguyên Đạt – K21
Nguyễn Bích Ngọc – K21
Nguyễn Cao Kỳ – K23
Nguyễn Chánh Tín – K21
Nguyễn Chấn Hùng – K50
Nguyễn Chí Lương – K21
Nguyễn Chí Trung – K22
Nguyễn Chuông – K22
Nguyễn Công Luận – K22
Nguyễn Công Trung – K22
Nguyễn Duy – K22
Nguyễn Duy Đạo – K49
Nguyễn Đăng San – K22
Nguyễn Đình Chiến – K22
Nguyễn Đình Nghĩa – K23
Nguyễn Đình Ngọc – K23
Nguyễn Đình Phương – K23
Nguyễn Đình Thúc – K24
Nguyễn Đình Trợ – K23
Nguyễn Đình Vân – K23
Nguyễn Đình Yên – K33
Nguyễn Đức – K23
Nguyễn Đức Hồng – K24
Nguyễn Đức Huynh – K23
Nguyễn Đức Phúc – K24
Nguyễn Đức Quang – K68
Nguyễn Đức Quý – K50
Nguyễn Đức Sơn – K24
Nguyễn Gia Thiều – K24
Nguyễn Hà – K26
Nguyễn Hải – K25
Nguyễn Hiến Lê – K25
Nguyễn Hiền Sỹ – K25
Nguyễn Hiếu – K25
Nguyễn Hộ – K25
Nguyễn Hồng Công – K25
Nguyễn Huỳnh – K25
Nguyễn Hữu Cầu – K34
Nguyễn Hữu Đính – K65
Nguyễn Hữu Đức – K63
Nguyễn Hữu Khi – K60
Nguyễn Hữu Luyện – K25
Nguyễn Hữu Ngữ – K26
Nguyễn Hữu Phước – K26
Nguyễn Hữu Thái – K29
Nguyễn Khải – K62
Nguyễn Khắc Kham – K26
Nguyễn Khoa – K26
Nguyễn Kim Điền – K32
Nguyễn Kim Ngân – K26
Nguyễn Kim Tiến – k26
Nguyễn Luân – K26
Nguyễn Lương Cảnh – K26
Nguyễn Lưu – K27
Nguyễn Mạnh Huy – K51
Nguyễn Mậu Tấn – K27
Nguyễn Miên Thảo – K27
Nguyễn Minh – K27
Nguyễn Minh Khai – K27
Nguyễn Minh Long – K27
Nguyễn Minh Lý – K27
Nguyễn Mộng Giác – K27
Nguyễn Ngân Dậm – K27
Nguyễn Ngọc Hùng – K29
Nguyễn Ngọc Khang – K27
Nguyễn Ngọc Lan – K28
Nguyễn Ngọc Lạn – K28
Nguyễn Ngọc Ngạn – K30
Nguyễn Ngọc Phương – K28
Nguyễn Ngọc Toản – K28
Nguyễn Ngọc Xem – K28
Nguyễn Phi Sơn- K28
Nguyễn Phương Anh – K28
Nguyễn Quang Huy – K28
Nguyễn Quang Sang – K28
Nguyễn Quang Tám – K28
Nguyễn Quang Trung – K30
Nguyễn Quốc Hùng – K30
Nguyễn Quý An – K30
Nguyễn Rân – K30
Nguyễn Sáng – K51
Nguyễn Song Thao – K30
Nguyễn Sơn Lâm – K30
Nguyễn Sỹ Hồ – K60
Nguyễn Tài – K30
Nguyễn Tài Lộc – K30
Nguyễn Tất Nhiên – K31
Nguyễn Thái Bảo Toàn – K31
Nguyễn Thái Hùng – K31
Nguyễn Thanh Hằng, Nguyễn Thanh Hà – K31
Nguyễn Thanh Mỹ – K48
Nguyễn Thanh Thu – K59
Nguyễn Thanh Vân – K31
Nguyễn Thành Nam – K31
Nguyễn Thế Trịnh – K31
Nguyễn Thế Vinh – K41
Nguyễn Thị Á – K31
Nguyễn Thị Bảy – K31
Nguyễn Thị Bé (1) – K31
Nguyễn Thị Bé (2) – K32
Nguyễn Thị Bích – K34
Nguyễn Thị Cơ – K34
Nguyễn Thị Cúc – K66
Nguyễn Thị Dung – K32
Nguyễn Thị Đỡ – K52
Nguyễn Thị Hai (1) – K32
Nguyễn Thị Hai (2) – K32
Nguyễn Thị Hàm Tiếu – K32
Nguyễn Thị Hạnh Nhơn – K33
Nguyễn Thị Hòa – K45
Nguyễn Thị Hồng – K33
Nguyễn Thị Kết – K33
Nguyễn Thị Kim Liên – k33
Nguyexn Thị Kim Loan – K33
Nguyễn Thị Lan – K33
Nguyễn Thị Lanh – K33
Nguyễn Thị Lia – K33
Nguyễn Thị Linh – K34
Nguyễn Thị Lương – K34
Nguyễn Thị Ly – K54
Nguyễn Thị Lý – K34
Nguyễn Thị Minh – K34
Nguyễn Thị Mỹ Liên – K34
Nguyễn Thị Mỹ Liên – K34
Nguyễn Thị Muộn – K34
Nguyễn Thị Ngọc Hoa – K35
Nguyễn Thị Ngỡ – K35
Nguyễn Thị Ngọc Oanh – K35
Nguyễn Thị Ngọc Phượng – K35
Nguyễn Thị Nguyệt – K35
Nguyễn Thị Ngươn – K35
Nguyễn Thị Nhất – K41
Nguyễn Thị Oanh – K41
NguyễnThị Sáng – K35
Nguyễn Thị Sơn – K35
Nguyễn Thị Tam – K35
Nguyễn Thị Tâm – K36
Nguyễn Thị Tất – K36
Nguyễn Thị Thanh Mai – K36
Nguyễn Thị Thu (1) – K36
Nguyễn Thị Thu (2) – K36
Nguyễn Thị Thụy Vũ – K36
Nguyễn Thị Thứ – K36
Nguyễn Thị Vân Toàn – K36
Nguyễn Thiện Tâm – K37
Nguyễn Thông Thái – K37
Nguyễn Thụy Long – K37
Nguyexn Tiến Công – K37
Nguyễn Tôn Nhan – K58
Nguyễn Trí Đới – K37
Nguyễn Trí Phước – K37
Nguyễn Trọng Đại – K67
Nguyễn Trung Hiếu – K37
Nguyễn Trung Thành – K37
Nguyễn Văn Bảo – K38
Nguyễn Văn Bình – K38
Nguyễn Văn Chính – K38
Nguyễn Văn Dung – K38
Nguyễn Văn Đông – K38
Nguyễn Văn Hai – K38
Nguyễn Văn Hảo – K38
Nguyễn Văn Hằng – K38
Nguyễn Văn Hòa – K38
Nguyễn Văn Hương – K39
Nguyễn Văn Khổng – K39
Nguyễn Văn Lệnh – K39
Nguyễn Văn Liên – K39
Nguyễn Văn Minh – K40
Nguyễn Văn Nhã – K40
Nguyễn Văn Ngư – K40
Nguyễn Văn Nức – K56
Nguyễn Văn Phú – K49
Nguyễn Văn Quến – K40
Nguyễn Văn Quý – K40
Nguyễn Văn Rị – K40
Nguyễn Văn Soạn – K40
Nguyễn Văn Tập – K40
Nguyễn Văn Thái – K41
Nguyễn Văn Thành – K41
Nguyễn Văn Thạnh – K41
Nguyễn Văn Thiệu – K41
Nguyễn Văn Thông – K41
Nguyễn Văn Thu – K67
Nguyễn Văn Thuấn – K42
Nguyễn Văn Thuận – K41
Nguyễn Văn Trung – K42
Nguyễn Văn Trương – K42
Nguyễn Văn Tuấn – K42
Nguyễn Văn Tuyên – K42
Nguyễn Văn Tư – K42
Nguyễn Văn Út – K42
Nguyễn Văn Vượng – K42
Nguyễn Viết Vĩnh – K43
Nguyễn Việt Chiến - K43
Nguyễn Việt Yên – K43
Nguyễn Vĩnh Nghiệp – K43
Nguyễn Xuân Dũng – K43
Nguyễn Xuân Hùng - K43
Nguyễn Xuân Liên – K44
Nguyễn Xuân Lũy - K44
Nguyễn Xuân Năng – K44
Nguyễn Xuân Nghĩa – K62
Nguyễn Xuân Nguyên – K44
Nguyễn Xuân Oánh – K44
Nguyễn Xuân Thuận – K44
Nhất Hạnh - K44
Nhật Tiến - K44
Ông Phong – K45
Phạm Aùnh – K45
Phạm Công Thiện – K45
Phạm Duy – K45
Phạm Duy Thiện - K45
Phạm Đình Thống - K45
Phạm Hoàng Tùng – K46
Phạm Hồng Hải – K46
Phạm Huấn – K46
Phạm Lý Chánh – K46
Phạm Lụa – K46
Phạm Hữõu Tài – K46
Phạm Kim Hy – K46
Phạm Lực – K46
Phạm Minh Đức – K46
Phạm Ngọc Dung – K46
Phạm Ngọc Mỹ – K60
Phạm Nhất Định – K47
Phạm Phú Bằng – K47
Phạm Phú Quốc – K47
Phạm Phước Đại – K55
Phạm Quang Toàn – K47
Phạm Thị Bạch Mai – K47
Phạm Thái Sen – K47
Phạm Thành Công – K47
Phạm Thế Minh – K47
Phạm Thị Mai – K48
Phạm Thị Mai Hương – K48
Phạm Thị Ngắn – K48
Phạm Thị Nỉ – K48
Phạm Thị Thuần – K48
Phạm Thị Uùt – K48
Phạm Thị Xuân Khải – K48
Phạm Thiên Thư – K48
Phạm Văn Diêu – K49
Phạm Văn Đồng – K49
Phạm Văn Mẫn – K49
Phạm Văn Năm – K49
Phạm Văn Thịnh – K49
Phạm Văn Yên – K49
Phan Duy Bình – K49
Phan Đức Giáp – K49
Phan Nhật Nam – K50
Phan Sĩ Liệp – K50
Phan Thanh Thúy – K50
Phan Thành Thương – K54
Phan Thế Long – K50
Phan Thị Bích Hằng – K50
Phan Thị Biển Khơi – K50
Phan Thị Cúc – K51
Phan Thị Phong – K51
Phan Thị Quyên – K51
Phan Thị Thép – K58
Phan Thị Thu Hiền – K51
Phan Thị Vân – K51
Phan Văn Lương – K52
Philip Roeler – K51
Phùng Lệ Lý – K51
Phùng Thị Huệ – K52
Phùng Văn Chánh – K52
Phương Bích Ngân – K52
Phương Thảo – K52
Phương Ngô – K52
Phương Xích lô – K61
Quả Cao Khai – K52
Quách Trọng Hoàng – K53
Quách Tự Hấp – K53
Quỳnh Kiều – K53
Randy – K53
Rơ Chăm Grét K53
Safi Thi-Kim Elce - K53
Scott Nguyen – K53
Siu Phê – K53
Sơn Thương – K54
Sơn Tùng – K54
Suzanne Thi Hien Hooks – K54
Tạ Trí Hải – K54
Tạ Văn Năm – K55
Tạ Vĩnh Cư – K55
Tam Lang – K55
Tăng Bồn – K55
Thái Bá Lợi – K55
Thái Ngọc San – K62
Thái Tuấn – K55
Thanh Campbell – K55
Thanh Nga – K56
Thanh Tâm Tuyền – K56
Thanh Tuyền – K60
Thế Đính – K56
Thế Uyên – K56
Thị Xinh – K56
Thích Đôn Hậu – K56
Thích Huyền Quang – K56
Thích Thiện Minh – K57
Thích Thiện Siêu – K57
Thích Trí Quang – K57
Thiếu Mai – K57
Thiều Hoành Chí – K57
Thủy Smith – K62
Tiêu Dao Bảo Cự – K67
Tiffany Goodson – K57
Timon Thanh Tran – K57
Tony – K57
Tony Tran – K57
Tô Thị Tuyết Thu – K58
Tôn Lâm – K58
Tôn Thọ Khương – K58
Tống Trọng Hoàng – K58
Tracel Anh Đào – K58
Trang Thế Hy – K58
Trần Anh Muôn – K58
Trần Anh Hùng – K58
Trần Bồng Sơn – K59
Trần Canh – K59
Trần Duy Tung – K59
Trần Đình Ninh – K59
Trần Đình Trường – K59
Trần Độ – K59
Trần Hữu Kham – K59
Trần Hữu Thanh – K60
Trần Lâm – K60
Trần Lý – K60
Trần Mai Hạnh – K67
Trần Mạnh Tuấn – K63
Trần Minh Thuận – K60
Trần Nghi Hoàng – K65
Trần Ngọc Dung – K63
Trần Ngọc Giao – K60
Trần Ngọc Sơn – K61
Trần Ngọc Sương – K61
Trần Quang – K62
Trần Quang Phương – K61
Trần Thanh Nhạc – K61
Trần Thị Bích – K61
Trần Thi Hải Lý – K67
Trần Thị Hằng – K61
Trần Thị Hoan – K67
Trần Thị Huôi – K67
Trần Thị Hường – K65
Trần Thị Khuyên – K61
Trần Thị Lệ Hà – K69
Trần Thị Liễu – K67
Trần Thị Miêng – K69
Trần Thị Nguyệt (1) – K61
Trần Thị Nguyệt (2) – K62
Trần Thị Như Hoa – K62
Trần Thị Thanh Hương – K62
Trần Thị Thanh Lịch – K69
Trần Thị Thiết – K62
Trần Thị Tiếp – K63
Trần Thị Tuyết Nga – K63
Trần Thị Viết – K63
Trần Thị Vũ – K69
Trần Thiện Hiệp – K69
Trần Thiện Thanh – K63
Trần Tiễn Khanh – K69
Trần Tiến Vững – K63
Trần Vàng Sao – K63
Trần Văn Bá – K69
Trần Văn Bản – K63
Trần Văn Ca – K69
Trần Văn Dược – K64
Trần Văn Hương – K64
Trần Văn On – K69
Trần Văn Quy – K64
Trần Văn Sửu – K64
Trần Văn Tảo – K64
Trần Văn Trà – K69
Trần Văn Tuyên – K70
Trần Vũ Mai – K64
Trần Xuân Giảng – K64
Trần Xuân Lộc – K64
Trí Hải – K64
Triều Uyên Phượng – K65
Trịnh Công Sơn – K65
Trịnh Công Thu – K65
Trịnh Hữu Phước – K65
Trịnh Kế Cổn – K65
Trung Dung – K65
Trúc Phương – K70
Trùng Quang – K66
Trương Đình Liệu – K66
Trương Như Tảng – K70
Trương Quang Thứ – K70
Trương Thanh Thủy – K70
Trường Sa – K70
Tuấn Vũ – K70
Ty Cope – K66
Ung Thanh Hải – K71
Văn Đắc – K71
Văn Quang – K66
Văn Tần – K66
Vi Huyền Đức – K70
Võ Đại Tôn – K70
Võ Hồng – K70
Võ Khắc Lượng – K71
Võ Ngọc Lan – K71
Võ Tấn Thường – K71
Võ Thành Sơn – K71
Võ Thị Hợi – K71
Võ Thị Kiển – K71
Võ Thị Kim Lũy – K71
Võ Thị Phận – K72
Võ Thị Phục – K72
Võ Thị Sẫm – K72
Võ Văn Bảy – K72
Võ Văn Nghi – K72
Võ Văn Phước – K72
Võ Văn Thể – K72
Vô Thường – K72
Vũ Anh – K72
Vũ Bằng – K72
Vũ Đình Lưu – K73
Vũ Đức Sao Biển – K73
Vũ Đức Tảo – K73
Vũ Hoàng Chương – K73
Vũ Hối – K73
Vũ Hữu Định – K73
Vũ Khánh Thành – K73
Vũ Khắc Khoan – K73
Vũ Minh Châu – K73
Vũ Sơn – K73
Vũ Thanh Hải – K74
Vũ Thành – K74
Vũ Thành An – K74
Vũ Thị Lưu – K74
Vũ Thị Minh Nghĩa – K74
Vũ Trọng Nhượng – K74
Vũ Văn Tỵ – K74
Vũ Văn Xoan – K74
Vương Kiều – K74
Vương Tấn Thơm – K74
Vương Văn Nô – K75
Vương Văn Trung – K75
Xuân Đức – K75
Xuân Vũ – K75
HẾT ĐỢT I

http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hshc-ki-75

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

Võ Công Liêm : THỂ TÍNH THIỀN

Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Bồ-Đề-Đạt-Ma (…-528)

Thiền theo ngữ thuật Trung Hoa diễn tả là một cái gì ”tròn và lăn, trơn và trượt” một cái gì không nắm bắt được, không mô tả được, một cái gì bất-khả-tư-nghị; phong cách của thiền là một ngôn ngữ bí truyền, một thái độ kỳ quặc với những phương pháp tu luyện lạ lùng được các vị thiền sư áp dụng trong các giáo lý cũng như cách tu tập. Mục đích và cứu cánh của thiền dù ở dưới bất cứ tông phái nào vẫn duy trì được bản tâm, bản tính của mình qua vô luận cách thức hành trì để xóa bỏ mọi vọng niệm, hiển lộ được lẽ ” đạo” để giải thoát mọi đau khổ cũng như vòng sinh tử. Ngoài việc tu tập, luyện tâm não; thiền dần dần trở thành nghệ thuật tu học, một thứ nghệ thuật độc nhất để truyền chân lý Bát Nhã như tất cả các nghệ thuật vĩ đại khác, từ chối mọi chức năng, từ chối mọi hình thức giáo điều, khuôn mẫu hay hệ thống cố hữu của Phật giáo cũ…thiền ở đây chính là biểu tượng rộng rãi, vi diệu, đại đồng và vô hạn; hàm chứa tất cả và bao trùm tất cả.

Đó là thể tính của thiền. Vậy thiền là gì? Thiền xuất phát từ chỗ phát âm chữ Trung Hoa ”Ch’an” là chữ viết tắt của nguyên chữ ”Cha’na” Nhật ngữ gọi là Zenna hay còn gọi là Thiền-Na rút ra từ Phạn ngữ Sanskrit Dhyana.Thiền là lối phát âm sai của một lối phát âm sai khác! Từ chữ Thiện ra Thiền.
Cốt tủy của thiền là phô diễn cái tột đỉnh tư tưởng Phật giáo, một giáo lý trực chỉ, sâu xa và thực tiển có thể đưa ta đến con đường giác ngộ viên mãn. Cho nên thể tính của thiền là nói lên chữ Tâm mà tâm trọn vẹn chính là tâm Phật vì Phật là Đạo, đạo ấy là Thiền. ”This nature is the mind and the mind is the Buddha and the Buddha is the Way and the Way is the Zen” (D.T.Suzuki)
Ở Trung Hoa thiền còn được gọi là Tâm Tông tức là Tâm giáo vì những gì thiền rao giảng chính là con đường đưa tới giác ngộ của tâm.
Ngộ chỉ là tên gọi khác của sự khai mở viên mãn của tâm nội tại; ngộ chỉ là bước khởi đầu chứ không phải là kết cuộc để đạt tới thiền. Ngoài cõi sâu thẳm và mênh mông của tâm thì chả có gì để ngộ cả. Bởi ngộ là trái tim của thiền là thực nghiệm để nhìn thấy được sự khai mở hay thực hiện được tâm linh một cách viên mãn tuyệt đối. Sự viên mãn ở đây là một thể tính vi diệu và trống không của ngộ. Tĩnh mà động, siêu việt mà nội tại tất cả ý tưởng trên mang lại cho thiền nhân một tâm tư tự do, thoát tục, đạt tới nhân tâm, bản thể của ngộ là một bản thể trong suốt của tâm ngộ để trở thành đa thù bởi vì đa thù của ngộ là dị biệt một cách thâm hậu sâu sắc để đi tới phát-tĩnh-thực-tại mà trong truyền thống thiền được coi như một kinh nghiệm nội tại của sự phát triển chân lý Bát Nhã, một chân lý đã giác ngộ được nhờ trí tuệ siêu việt cho nên giác ngộ là tối hậu viên mãn của Thiền Phật giáo (Zen Buddhist).
Giáo lý hay học thuyết (tenet) của thiền được chia ra hai nhóm rõ rệt, một gọi là Tông, một gọi là Giáo. Tông và Giáo hợp lại gọi là Thiền giáo. Nhưng tất cả những đẳng cấp, giáo phái đều tập trung trong Tâm (Utta) Ý (Mana) và Thức (Vijnàna). Chính ba dòng tư tưởng của thiền được xoáy quanh trong một giáo điều gọi là sắc giới hay gọi là ba giới (tam giới) nghĩa là có ba loại chúng sinh trong vũ trụ quan của Phật giáo. Cõi cao đẳng cấp gọi là “vô-sắc-giới”, chúng sinh ở cõi nầy không còn sắc thân mà chỉ còn là hiện hữu thời gian ”being time”. Cõi thứ hai gọi là “sắc-giới” ở cõi nầy chúng sinh có sắc thân và không có sắc dục. Cõi thứ ba gọi là “dục-giới” đây là cõi mà chúng sinh có nhiều loại tham dục và sợ hãi khác nhau , chính cõi nầy được gọi là cõi ta-bà-thế-giới đầy rẫy lòng tham dục. Cho nên tu thiền cốt diệt tham-sân-si-phiền-não để đi tới cõi tịnh và bước vào cõi thường hằng của Niết Bàn; mà muốn đến con đường đó, thiền coi giải thoát là một hệ tính quan trọng, từ bỏ mọi tham dục để đi qua ngưỡng cửa của “tịch” tức tĩnh để diệt được dục không còn dính líu đến phiền não của cuộc đời. Do đó mục đích duy nhất của thiền là khiến ta đủ khả năng để hiểu và thực hiện tâm toàn thiện của mình. Vì tâm là chủ đề then chốt để nghiên cứu và đạt tới đạo thiền.
Thiền định bao trùm một triết lý nhân tâm trong một vũ trụ siêu việt để đạt tới chân như của thiền cho nên trong việc tu tập thiền đạo đòi hỏi cái nhu cầu cần thiết cho việc thiền-định. Bao gồm: SơThiền là bước đầu nhập thiền, trút bỏ mọi vọng niệm đam mê, tẩy trừ mọi tư tưởng xấu xa, nghi hoặc thế nhưng tâm vẫn còn vướng mắc vào cõi đời vì thế mà chưa dứt với hành động nhập thiền. Nhị Thiền là tâm qui tụ, tập trung nhưng ít nhiều còn hoài vọng. Tam Thiền là giai đoạn mất dần bản thể để đưa đến một tâm thức xuất thần (exatique) cho nên vẫn còn cảm thấy hạnh phúc. Tứ Thiền là giai đọa cuối cùng, tất cả mọi cảm giác biến mất nghĩa là dục-tự-tại không còn nữa mà chỉ còn lại một trạng thái thuần sáng, tịch tịnh (equanimité) để đạt đến chân như của thiền . Đó là con đường giải thoát (enlightenment) để nhập vào hữu thể (etre) để trở thành hiện thể (comme existent) của thời hiện hữu (being time) Sự sinh tồn ấy chính là hiện hữu với thời gian. Beingtime; mean that time is being every existent thing is time. (The Three Pillars Of Zen / Ba Trụ Thiền của Philip Kapleau).
Do đó tâm là chủ đề của người tu thiền và cũng là then chốt cho việc nghiêng cứu thiền. Thiền chính là sự giải phóng toàn diện tâm tư con người thoát ra khỏi mọi ràng buộc, mọi giây trói, mọi sự bất động. Vậy thiền muốn nói gì? - là sống như Như Lai và trầm mình trong dòng nước của Như Lai để thanh tẩy vẩn đục cả xác lẫn hồn . Đó là tấm lòng nhân hậu, vị tha là tâm-đại-bi của Bát-Nhã-Ba-La-Mật, đó là phép nhu hòa của nhà Phật là pháp-tính-không ( sùnyatà). Cái đòi hỏi của thiền là tâm phải an tĩnh, phải chính niệm thì tâm thân (body mind) mới có nơi an trú; cho nên tĩnh lặng của thiền không phải là yếu tố làm cho tâm ta bất động mà nó giúp cho ta trầm lắng và hòa hợp giữa cái hoạt động tích cực ấy. Zen meditation does not aim at making the mind inactive but at quiting and unifying it in the midst of activity. (Thiền sư Yasuyami) Vì thế Ngộ và Hành là một phương pháp huấn luyện tâm thân trở nên độc đáo của lối tu thiền và nhờ đó mới nhận ra được tự tánh. Bởi thiền không ngoài mục đích tham thiền, tọa thiền, chiêm nghiệm thiền để đạt nhân tâm. Thiền yêu cầu hành, hành trong mọi sinh hoạt ngoại giới cũng như nội giới để đưa tới giải thoát và vượt thoát ra khỏi những ràng buộc, bức tức nhờ đó mà đưa tới ngộ. Vì vậy giữa ngộ và hành đều xuất phát tự tâm, thiền tâm là bản thể tuyệt đối và khi nhận ra được bản thể bất biến đó thì người ta gọi là Pháp thân (Dharmakaya).
Cho nên đạt đến chân tâm của thiền cần phải có Định và Niệm. Trong kinh Tứ Thập Nhị Cương có dùng danh từ Thiền Định (Trú đại thiền định,hàng chư ma đạo) Hình thức thiền định nầy còn được gọi là Vô-thường-quán. Còn nói về Niệm; theo Huệ Năng phải đạt tới chỗ Vô-Niệm, vô niệm ở đây không phải là tuyệt các ý niệm mà chỉ giữ một Niệm không phải là niệm riêng mà một thứ niệm không chấp trượt, không vọng tưởng, không chấp ngã, không chấp pháp, không chấp cảnh tức là niệm về tự tánh về chân như. Bởi vì chính niệm là vô niệm. Quán được vô niệm thì mới gọi là tri kiến của Phật.Vì vậy thiền định theo Huệ Năng là tâm chẳng khởi vọng gọi là “ngồi”. Trông thấy tánh mình chẳng động gọi là “thiền”, như vậy ngoài thiền trong định ấy là Thiền Định. Thiền định (Samàdhi) Phạn ngữ cho đó là “suy tư” ”trù liệu” hoặc “suy xét thấu đáo”. Trung Hoa tom góm lại hai chữ “tĩnh lự” có nghĩa là chiêm nghiệm trong tĩnh lặng; cho nên thiền định là trạng thái của một tiến trình trọn vẹn giữa Sinh, Trụ và Diệt để đưa tâm thức vào trạng thái vô niệm để trở thành ý thức nghỉ ngơi.

Samàdhi và Sanskrit là một, là tâm tĩnh lặng, là trạng thái tập trung tinh thần hoàn toàn trong suốt. Đó là trạng thái an lạc, sáng tỏ và vô niệm của Samàdhi; đặc tính khác nữa của tĩnh lặng là vận dụng được nhịp thở, khí, tất cả những tính thể trên được coi là cốt tủy của Samàdhi. Bởi thiền định cần phải giữ vai trò luyện thở là một lối nhập định hay nhất. Do đó giai đoạn tham thiền với ngụ ý tu thiền thì người ta phải cố thâm nhập, lãnh hội vào tận các cõi miên thâm của tâm mình. Thiền nhằm đi thẳng vào lòng người (trực chỉ nhân tâm) chứ không cần phải giải thích vòng vo hay lý giải điều này sự nọ mà chao đảo đến tâm thần .Vì vậy đến với thiền với một tâm hồn không câu nệ, không trói buộc trong lề thói, khuôn phép có sẳn mà đi tới bằng con đường đốn ngộ đó là con đường phá chấp mọi diễn biến và trực nhận; đó là yêu cầu và đòi hỏi của thiền để có một nhãn quang mới mẻ hơn, ấy là ngộ hay còn gọi là giác ngộ để kiến tánh. Ngộ là một tri giác (intuition) phóng thẳng vào bản thể của vạn vật bằng chính sự sống, khác với sự hiểu biết qua sự phân tích lý luận. Cái nhìn mới này; điều cần phải biết về lẽ sống (Sunyata) hoặc vô ngã. Biết được lẽ “Không” này phải nhờ vào trực giác để thấy rằng ”sắc tức thị không” tức là tất cả những gì thuộc về thế giới hình tướng đều rỗng không (hollow empty).
Ở trong thiền chẳng có gì nên mà cũng chẳng có gì không nên. Vì thế; ngủ uẩn đều trống không, còn tứ đại là giả hợp. Mọi sự trên đời đều vô thường. Ngay cả việc đối đáp trong thiền qua những công án; đó là thuật ngữ được dùng từ thời Vãn Đường rút ra từ câu ”công phủ chi án độc” đó là công văn để trên án thư và rồi thâu tóm lại bằng hai chữ công-án (koan), lối đối đáp kỳ quặc, một ngôn ngữ khó hiểu mang nặng tính chất ẩn dụ hoặc giả thiết …đôi khi không dùng văn tự mà xử dụng hành động đánh đá hoặc chưởi mắng, lối tu tập của thiền đi từ đốn ngộ đến ngộ, đó là tư cách hành xử của những người tu thiền.Vậy thế nào là ngộ trong công án? Thiền cho những lúc như thế là kiến tánh, thấy được thực tướng của vũ trụ; nhưng ngộ chỉ là mới bắt đầu, cần phải tu tập cho tới khi toàn giác.
Có một thiền ngữ như sau: ”Lý khả đốn ngộ, sự yên tiệm tu” cho nên ngôn ngữ của thiền rất cô đọng và tiềm ẩn để đạt tới nhân tâm, một tâm bình thường chính là vô tâm, tâm bình thường không liên quan gì đến sinh hoạt ý thức, sự thuần phác đó chính là trọng tâm của thiền.

Thiền định chính là định tâm; đó là tâm bình thường, tiếp thu tinh hoa bất động nằm giữa thế tục. Nói tóm lại trong cõi tịnh ấy đã đưa cái tâm vào cuộc sống, chứa đựng thiền tính của thụ hưởng như ngắm hoa, tiả cành, uống trà, ngâm thơ kể cả bút pháp và họa; đó là tọa định tư duy trong sáng tạo của thiền một cách lạc quan tích cực với sự sống của chính mình. Phương pháp dùng thiền giới để giải thoát sự kinh hoàng, nỗi sợ hãi trong cuộc sống thường ngày. Cái thế giới hiện sinh của thiền bao gồm qúa khứ, hiện tại và vị lai mà thời gian đối với thiền là vô định, để biến cái thời gian đó trở thành một cái tâm không dao động tức con đường đi tới khai ngộ. Sự sinh tồn ấy chính là hiện hữu với thời gian (every existent thing is time).
Nhưng ở thiền ta cần phải đặt trọng tâm vào bản ngã, tức cái ta với hiện hữu. Vậy thì bản ngã là hữu thể và vô ngã là không hữu thể. Thiền Phật giáo qủa quyết rằng: ”Chỉ có khổ hiện hữu nhưng không có người chịu khổ, chỉ có hành vi, nhưng không có tác nhân” Linh mục Trần Thái Đỉnh cho rằng: ”Vạn vật vô ngã có nghĩa là trong vạn vật không có sự vật nào là ngã hết, nhưng có ngã mới đi tìm như vậy. Tìm trong vạn vật không thấy thì ý thức sẽ tìm thấy; trong ý thức tức là nơi chính tự nó”. Chính ý thức là ngã, nhưng ý thức đây không phải là ý thức thực nghiệm (conscience empinique) ý thức là ngã, ý thức tự qui, ý thức siêu nghiệm (conscience trascondentale) (Trong Tc Đại Học #15 1960).
Cái ngã đó tức là cái tôi (self) chỉ là mớ tri giác khác biệt, cái này theo cái kia với một tiến trình siêu tốc, bất-khả-tư-nghị đó là điều luôn luôn trôi chảy và chuyển vần. Trong Pháp Cú kinh (Dharma sũtra): ”Tất cả mọi hành đều vô thường, tất cả mọi hành đều là khổ.Vạn pháp vô ngã”. Cho nên cái TA tức là cái NGÃ của con người là nhân duyên phát sinh ra phiền não, nhưng phải nhớ cho rằng phiền não là chông gai.
Để đi tới chân như đó người tu thiền chỉ còn lại một mục đích duy nhất là Giác- Ngộ, Giải-Thoát để đạt đến Tính-Không của thiền nhờ vào việc tu tập, sống, giới hạnh chính trong những hoàn cảnh đó họ tìm thấy được cốt tủy của thiền. Sự thật của thiền là đi từ chỗ bất tịnh để trở thành thanh tịnh, từ khổ đau đến an lạc đó là đạo giải thoát. Điều rất dể hiểu; thiền là một tôn giáo thực tiển với một phương thức độc đáo của thân tâm mà tất cả cứu cánh của thiền là Thức Tĩnh để đi tới sự nhận thức của chính mình. ”Briefly stated; Zen is a religious practice with a unique method of body-mind, training whose aim is awakening; that is, self-realization”(The Three Pillars of Zen. by Philip Kapleau).

Thiền là thực chứng, là phá chấp, là kẻ đứng ngoài mọi giáo điều, mọi hệ thống tín điều; thiền đương đầu với mọi tình huống của nội tại, gạt bỏ toàn diện, giải thoát tâm linh để đi tới ngộ đó là hành động của thức tỉnh là mối tương duyên của thiền giả; ngược lại thiền dấn thân, dấn thân ở đây là sự mở mắt để xua đuổi vọng niệm, để đạt đến như nhiên của thiền. Giờ đây thiền không còn là giáo phái Bắc tông, Nam tông, Đại thừa, Tiểu thừa. ”Zen” Thiền đã đi vào với nhân loại vào với các tôn giáo khác (Zen Christian) tất cả đi vào một niệm là TÂM là Thánh Tâm (Saint Coeur).
Đó là thể tính thiền; thiền là thực chứng là sống động để đạt tới nhân tâm, vượt thoát ra khỏi mọi ràng buộc, giây trói, một cuộc cách mạng giữa Phật giáo mới và Phật giáo cũ. Vì rằng; thiền là mạch lộ chính, là đạo (way) dẫn đường vào cuộc sống, một cuộc sống thanh cao diệu vợi, quên mình để hòa nhập. Thiền chấp nhận mọi tương sinh nhưng từ bỏ mọi tương tranh. Đó là phá chấp, diệt ngã để kiến tánh thành Phật giữa hư hóa và hữu hóa đó là sinh phong của thiền, không tranh chấp mà phá chấp đó là tự-tại-vô-ngại để nâng cuộc sống được viên mãn; cho nên phương tiện thiện xảo của thiền là giải thoát cái u minh nội tại để vào vũ trụ siêu nhiên của tâm như, của niết bàn tại thế. Thể tính thiền là thế đó! Thực chứng của thiền là thuyết bất nhị để tìm đến tuệ giác và đại bi. Vì thế thiền là bản chất không phải là hình thái và chính nơi đây đã cho ta thấy những bờ cõi của thiền, bờ cõi trong sáng, linh động và huyền bí mà vạn vật chúng sinh đã đắm mình trong cái Có và Không, hữu thể và vô thể, hữu hình và vô hình, vô hình mà lại hữu hình, sắc-sắc-không-không.Thiền là tinh thể trung hòa của mọi chuyển hoá.
Trong thiền còn chứa ba điều: Chánh, Niệm và Định.
- Chánh-tinh-tấn (Sammà vâyàma) có nghĩa là chế ngự không cho nội tâm bị vẩn đục bởi những hành động uế tạp hay bởi tư tưởng xấu xa.
- Niệm (Sammà sati) có nghĩa là tu luyện tâm thần (culture mental) bằng những phương pháp tập trung thở và điều hòa khí bằng phương pháp du-già (yoga) nhờ phương pháp đó ta kiểm soát và ý thức mọi hành vi của cơ thể, mọi cảm giác đưa tới dục tính (sexuallity) để tránh đụng chạm tới hành vi của tâm và thân.
- Định (Sammà samâdhi) đây là phép tu luyện có tính cách vật lý trị liệu (psy-therapy) là phép tu được đức Phật và hàng đệ tử áp dụng để đạt tới chánh huệ.
Tất cả mọi thực hành trên đều có mục đích khử trừ, tận diệt mọi dục vọng đam mê để đạt tới trạng thái thuần tịnh, ngoài ra giúp cho các thiền sư có đực một tri thức phi thường. Nhưng chính cái Huệ hay Bát Nhã đạt được nhờ thiền định; bởi vì nó là một nhận thức trực tiếp chân lý không qua một suy luận nào hay nhờ vào một mặc khải hay giáo huấn nào khác mà đó là chân tâm vô lượng, vô ngã, vô thường của vạn vật nghĩa là trực diện với chân không tức tính không của nhà Phật để đi tới bất-bản-thể toàn diện (insubstantialisme total).

Tóm lại; thể tính thiền là nói lên những yếu tính về phép tu tập của thiền, giải thoát mọi tình huống xẩy ra giữa nội tại và ngoại quan với tất cả mọi hành xử trong đời sống để đạt mục đích tối thượng của kiến tánh và giải thoát mọi duyên nghiệp để đi tới một tâm thân toàn mãn. Bởi triết lý của Phật là một triết lý sống động, một chân lý đưa lại sự giải thoát trọn vẹn mà chỉ có ai thực hiện được nó mới đạt được nó và hiểu được nó. Trái lại những lý luận khác hoàn toàn có tính cách tri thức chỉ đưa lại chấp mê mà thôi.
Trưởng thành trong thiền là giải thoát tâm ra khỏi kiến thức, để đạt được kiến tánh, giải thoát và giác ngộ đó là cốt tủy của thiền phái. Tâm đối với thiền là cái bất-khả-tư-nghị luôn luôn coi tâm là ánh sáng. Thiền là thế giới của kiến thức rồi thoát ra khỏi thế giới ấy để vào cái bất-khả-tri. Tu thiền là mục đích giải thoát và tìm đến giác ngộ toàn thiện, toàn mỹ chứ không còn một đòi hỏi nào khác hơn. Chính những lúc như thế là vượt ra khỏi cõi ta-bà-thế-tục. Vì vậy pháp môn tu thiền không còn là giáo phái ngày nay mà nó trở nên một nghệ thuật nhìn vào thể tính hiện sinh để kiến tánh thành Phật trong muôn ngàn vạn kiếp,hằng hà sa số lượng kiếp chúng sinh./.

VÕ CÔNG LIÊM (rằm thánggiêng. canhdần. 2010)

SÁCH THAM KHẢO:
- The Three Pillars Of Zen.by Roshi Philip Kapleau.Anchor Books USA 1989
- Thiền Đạo Tu Tập. Chung Trùng Cơ. NXB Kinh Thi.Sàigòn 1974
- Zen Buddhism and Psychoanalysis.by: D.T.Suzuki,Erich Fromm,Richard de Martino.
(George Allen&Unwin USA 1970)
- Quan Niệm Giải Thoát Trong Phật Giáo Cũ.Linh Mục Thiện Cẩm.NXB Đại Nam Sàigòn 1970
- Thiền Học Việt Nam.Gs Nguyễn Đăng Thục.NXB Thuận Hóa.Huế 1997

Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011

NGUYỄN MIÊN THẢO : ĐOC THƠ TÌNH CỦA BẠN TRONG THƯ VIỆN

Tưởng nhớ Nhà thơ Trầm Kha Nguyễn văn Đồng
hy sinh năm 1972 ở Trường Sa

Ngồi đọc bài thơ tình của mày trong thư viện
Nỗi buồn xưa hóa đá nửa đời tôi (1)
Dấu vết (2) nào còn in trên sóng biển
Mày đi rồi từ thuở tuổi hai mươi

Mày ra đi trên con thuyền Tổ quốc
Mày hy sinh hơn cả anh hùng
Quân xâm lược thời nào chẳng có
Từ Trường Sa -phút cuối cùng-mày mơ một dòng sông

Dòng sông Hương mấy mươi năm vẫn đợi mày về
Người con gái vẫn đang ngồi xỏa tóc
Người mẹ hiền vẫn mong ngày sum họp
Sao mày đi biền biệt không về

Vườn đã cũ chim muôn về họp tổ
hót rất buồn đón những sáng thu phai(3)
Khu vườn cũ vẫn in hình bóng mẹ
Chim vẫn đi về ,mày đang ở nơi đâu

Tao đã khóc viết bài thơ tiễn biệt
Hơn ba mươi năm không bến không bờ
Phút cuối cùng mày đứng chào Tổ quốc
Tao chạnh lòng viết lại mấy vần thơ

NGUYỄN MIÊN THẢO
Rằm tháng Bảy-Mậu Tý-2008

(1),(2) thơ của Trầm Kha
(3) nhan đề bài thơ

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011

CAO HUY KHANH - HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 – 2011: NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 74 – 13.6.2011 (Trích đăng từ 1.1.2010)

741 - Vũ Thanh Hải
ĐẤU TRANH “TRÁNH ĐÂU”
Nông dân sinh tại Vĩnh Phúc. Sống ở Vĩnh Phúc (2010).
Năm 1971 nhập ngũ vào binh chủng tăng – thiết giáp chiến đấu ở miền Nam. Được kết nạp Đảng, được tặng thưởng 3 huân huy chương vì chiến công đánh Mỹ.
Năm 1994 xuất ngũ thương binh hạng 2.
Về quê Vĩnh Phúc được bầu làm trưởng thôn thuộc xã Tiền Phong, huyện Mê Linh.
Đầu năm 1999 đứng ra đấu tranh với một số cán bộ chủ chốt cấp xã có hành vị tiêu cực sai trái lạm dụng chức quyền gây hại cho người dân. Đấu tranh từ xã lên tới cấp huyện, kết quả được cấp trên ủng hộ đưa các ông quan xã bậy bạ đó ra tòa lãnh án
Nhưng bù lại ở địa phương, bản thân bắt đầu bị nội bộ tay chân quan chức cũ còn lại tìm cách o ép, hãm hại vu cho tội gây mất đoàn kết nội bộ để… khai trừ Đảng!
Lại phải bắt đầu một cuộc chiến đấu mới đòi lại đảng tịch hết sức gian nan mệt mỏi vẫn chưa biết bao giờ có có đoạn kết.

742 - Vũ Thành
BEETHOVEN VIỆT NAM

Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1926 tại Hà Nội – Mất 1987 ở Mỹ (62 tuổi).
Là nhạc sĩ trong thế hệ tiên phong làng nhạc VN từng nổi tiếng từ thời Tiền chiến, chuyên về hòa âm và chơi nhạc phòng trà hiếm hoi thời đó, có lúc làm nhạc trưởng ở Đài Hà Nội thời Pháp.
Năm 1954 di cư vào Nam gia nhập quân đội VNCH làm tới chức trung tá trưởng đoàn quân nhạc, trưởng ban văn nghệ đài phát thanh, 3 năm liền nhận giải thưởng âm nhạc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Chuyên về nhạc thính phòng, đại hòa tấu, chỉ huy dàn nhạc từng tổ chức hòa âm cho 200 ca khúc xuất sắc để phổ biến công chúng miền Nam. Sáng tác không nhiều khoảng 20 bài đều theo khuynh hướng nhạc thính phòng cao cấp trong đó nhiều bài không lời. Nhạc có lời chỉ khoảng 5 bản song đều đạt chất lượng trình độ cao gồm”Giấc mơ hồi hương”, “Nhặt cánh sao rơi”, Gửi áng mây hàng”…
Biến cố 30.4.75 di tản qua Mỹ rút vào đời sống ẩn dật.
Về già mắc một số chứng bệnh ảnh hưởng từ môi trường nhạc giao hưởng, đại hòa tấu gần giống như thiên tài Đức Beethoven: Tai bị điếc, hư thanh quản nói không ra tiếng, đã vậy mắt mờ phải bịt giải băng đen chéo ngang mặt. Nhưng gặp bạn tri âm vẫn nói thều thào nghe tiếng được tiếng không vẫn xoay quanh chủ đề… âm nhạc muôn đời!

743 - Vũ Thành An

TỪ NHỮNG “BÀI KHÔNG TÊN” ĐẾN NHỮNG “BÀI NHÂN BẢN”
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1943 tại Nam Định. Sống ở Mỹ (2011).
Tác giả của loạt ca khúc những “Bài không tên” nổi tiếng thập niên 60-70 ở Miền Nam, một số bài chủ lực bắt đầu viết từ 1963 xuất phát từ hoài niệm các cuộc tình tan vỡ của mình.
Làm phóng viên Đài Phát thanh Sài Gòn rồi bị gọi đi lính sĩ quan trường Thủ Đức năm 1967. Ra trường về lại đài phụ trách chương trình văn nghệ cùng một số chức vụ khá quá trọng ở đài. Lập gia đình 1969.
Sau 75 do làm quan chức đài phát thanh nên phải trải qua 10 năm cải tạo. Chính trong thời gian cải tạo đã mở ra cho mình một con đường hoàn toàn mới: Tìm đến với đạo Thiên Chúa, rửa tội trong tù sau khi nhờ một linh mục chỉ cách đọc kinh để quên đời mới dứt được căn bệnh kinh niên mất ngủ. Từ đó năm 1981 bắt đầu viết thánh ca từ trong tù.
Năm 1985 trở về thì vợ đã chia tay phải một mình “gà trống nuôi con.” Năm 1987 lấy vợ mới.
Đến 1991 mới qua Mỹ.
Sau khi qua Mỹ có bị tố cáo là trong trại cải tạo đã tỏ thái độ “đầu hàng cộng sản” được cho làm tổ trưởng khiến phải lên tiếng “xin lỗi”!
Ở Mỹ có làm thêm vài tình khúc sở trường -- “Bài không tên cuối cùng tiếp nối”, “Đời đá vàng”… -- và in tập “Vũ Thành An tình khúc toàn tập” gồm 40 bài không tên, 13 tình khúc “có tên”, 40 nhạc khúc phổ thơ.
Đến năm 2000 chính thức nói lời từ giã với thể loại tình ca bằng một đêm trình diễn tình ca cuối cùng để bước vào hành trình tu tập (học cao học thần học) để làm Trợ tế đạo Thiên Chúa, một chức mục vụ dành cho tín đồ phụ việc linh mục giống như cư sĩ bên đạo Phật. Đồng thời cũng từ đó chuyển sáng tác của mình qua một hướng khác là viết nhạc đạo là những “bài nhân bản” của thế giới tâm linh đưa tinh thần Phúc âm vào đó: “Năm 1966 tôi đã hứa rằng sẽ không viết nhạc tình nữa để dành thời gian và tâm sức vào con đường tâm linh đã chọn.” Thay nhạc tình bằng những tuyên ngôn mới như:
“Từ đầu trời cuối đất ta đã là người nhà
Về đầu trời cuối đất ta vẫn một mẹ cha
Hãy xích lại đây chắp tay nguyện cầu…”
(Bài “Nhân bản 1” năm 1983).
Những tuyên ngôn mới về niềm tin tôn giáo được “nhạc hóa” có vẻ không thành công lắm bằng các tình khúc xưa, bù lại năm 2001 được phong chức Phó tế Đạo Thiên Chúa ở tổng giáo phận Portland. Song song vẫn làm đài phát thanh hải ngoại và ngoài ra còn tham gia lập Quỹ cứu trợ Teresa năm 2003 nhằm giúp đỡ cứu trợ người già neo đơn ở VN.

744 - Vũ Thị Lưu
CÒN HƠN NHIỀU “EM HIỀN NHƯ MA SOEUR”
Nông dân sinh khoảng 1945 tại miền Bắc. Sống ở Đồng Nai (2011).
Trước 75 từ Vũng Tàu cả 3 chị em đều đi tu dòng Thiên Chúa, riêng mình tu học ở Cần Thơ.
Trong một dịp về vùng quê quen một thương phế binh chế độ Sài Gòn tín đồ cùng đạo bị mù và què phải đi đánh đàn bến xe độ nhật.
Sinh lòng thương cảm mới tình nguyện lấy làm chồng dù gặp sự phản đối của cả gia đình lẫn đồng đạo, thậm chí còn cho là mình bị “bỏ bùa”! Nhưng vẫn dũng cảm chấp nhận cởi áo nữ tu đi theo tiếng gọi của niềm tin tôn giáo chân chính, xem như đây là một cách làm theo lời Chúa dạy đi tu không chỉ là sống trong tháp ngà lý thuyết mà cần hướng ra cuộc đời bên ngoài trải lòng hy sinh phục vụ con người.
Đưa chồng về quê chồng ở Long Xuyên làm thợ may và làm mắm đem bán chợ nuôi chồng (chồng chưa kịp hoàn tất hồ sơ thương binh lãnh tiền phụ cấp chế độ cũ thì giải phóng).
Sau 1975, gia đình chồng vượt biên bỏ 2 vợ chồng ở lại nên phải đưa chồng về Vũng Tàu nhờ mẹ thương tình cho một mảnh đất ở xa làm nhà tạm mà ở (không dám cho ở gần sợ bị hàng xóm dị nghị), buôn bán vặt sống lây lất qua ngày.
Một thời gian sau, gia đình chồng gửi tiền về trợ giúp mua được mảnh đất ở Long Thành (Đồng Nai) dời về sinh sống tránh xa những ai quen biết thường tiếng ra tiếng vào chê bai dân “bỏ đạo”. Nhưng vẫn tạo dựng được mái ấm gia đình hạnh phúc đầm ấm, sinh được 3 trai ngoan khôi ngô đĩnh đạc.
Mẹ chồng còn làm giấy bảo lãnh qua Mỹ song tuy đã làm xong hồ sơ, cuối cùng người chồng thương phế binh lại quyết định không đi nữa như một cách cảm tạ ơn Thiên Chúa đã cho mình được hưởng phước lành nơi đây rồi mà nếu đi nơi khác chưa chắc gì đã được như vậy!
Năm 2006 chồng qua đời. Bây giờ con cái đã trưởng thành ra đời làm ăn đàng hoàng lấy vợ sinh cháu cho mình ẵm bồng, lòng càng thanh thản với niềm tin sống đạo giữa lòng nhân gian dù gian khó nhưng mới cao quý biết dường nào.

745 - Vũ Thị Minh Nghĩa
CHỊ “NĂM KHÙNG”
Bộ đội về hưu sinh 1952 tại Thái Bình. Sống ở Bình Dương (2011).
Gia đình nông dân, học chỉ mới tới lớp 7. Năm 1930 vào bộ đội chiến đấu trên chiến trường miền đông Nam bộ từ Long An đến Sông Bé, Tây Ninh. Làm y tá nên từng nhiều lần tự tay đào hố chôn xác đồng đội.
Sau 1975 về Hải Hưng sống, lấy chồng từng là lính lái xe Trường Sơn, sinh được 2 trai 2 gái. Năm 1978 được cho đi học Đại học Y ở Thái Bình
Năm 1992 được cho nghỉ mất sức hàm thượng úy.
Sau khi về hưu, gia đình ổn định con cái đã khôn lớn bỗng nhiên nằm ngủ thường gặp ác mộng mơ thấy cảnh đồng đội hy sinh thịt nát xương tan thê thảm mà nay không tìm thấy được, không biết lưu lạc về đâu. Tiếp đó mắc chứng đau đầu kinh niên không sao chữa khỏi dẫn đến một cơn bệnh nặng tới mức chết lâm sàng 12 tiếng đồng hồ rồi đột nhiên tỉnh dậy sống lại!
Từ đó phát sinh ra khả năng ngoại cảm có thể tiếp xúc với ngườøi “thế giới bên kia” chủ yếu là liệt sĩ đồng đội cũ về báo tin hài cốt mình hiện ở đâu. Nhiều người không tin mới gọi là mụ “Nghĩa điên”!
Bất chấp tất cả, năm 1985 một mình lên đường làm một cuộc “hành quân” mới quay lại chiến trường cũ Tây Ninh (và qua cả huyện Campuchia giáp ranh) để truy tìm hài cốt đồng đội.
Với bộ quân phục bạc màu đầu đội khăn rằn kiểu bà má Nam bộ mình từng quen trong chiến khu thời chiến tranh, mang theo ba lô đựng hành lý gạo, mì sợi, mắm muối và một cột vải ny lông tự lặn lội vào những cánh rừng xưa tìm bốc mộ đồng đội. Ở lại đó hàng tháng trời ròng rã, tìm được mộ thì cuốc lên nhưng đến phần hài cốt thì bỏ cuốc “sợ làm đau xương cốt bạn” mà phải dùng tay bới lên, xong dùng vải ny lông gói lại và đem về quy tập tạm trong một hang đá để lại tiếp tục tìm mộ khác. Hết gạo, mì sợi để ăn thì đào củ mài, hái lá tàu bay, trái cây lót dạ như bộ đội thời gian khổ trước kia, “tranh ăn” với cả… khỉ trong rừng!
Khi đã gom được kha khá bộ hài cốt – có ngày đào được 15-20 bộ hài cốt, có tuần khai quật được 54 bộ hài cốt tập thể thuộc một đại đội tử trận năm 1964 -- thì bỏ vào ba lô đeo sau lưng và trước ngực (hoặc bó lại từng bó gánh đi) đưa ra thị trấn ra khỏi rừng, lội quá suối thì phải đội tất cả lên đầu để tránh làm ướt hài cốt dù bản thân người gầy gò như con mắm. Đưa tất cả về chứa trong một căn nhà ở Bình Dương do một gia đình liệt sĩ cho mượn ở nhờ. Sau đó mới tìm truy ra tông tích gửi thư cho gia đình đến nhận (cả kỷ vật tìm thấy kèm theo) hoặc xin quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ tỉnh.
Hoàn toàn làm không công, không ai tài trợ, không nhận tiền của ai kể cả tư nhân lẫn chính quyền.
Hài cốt chồng chất cả nhà, sống chung với hài cốt tự nhiên như không, có lúc hài cốt nhiều quá bày ra chật cả nhà khiến mình phải mắc võng mà ngủ! Nhiều người nhìn thấy sợ quá không dám héo lánh tới, mới đặt tên cho là bà “Năm khùng” (vì là con út thứ năm).
Đến năm 1999 một nhà hảo tâm khác thấy hài cốt bề bộn quá nhà gần hết chỗ chứa mới giúp tiền và đất cho lập một “nghĩa trang tình thương” ỏ Vũng Tàu để tạm thời chôn hài cốt nào chưa có người nhận gồm khoảng 600 mộ có dựng bia đàng hoàng (tính đến năm 2000).
Nơi đây vừa là nghĩa trang vừa là nhà ở cũng là địa chỉ để thân nhân liệt sĩ liên hệ nhận hài cốt hoặc nhờ mình tiếp tục tìm mộ người thân bộ đội mất tích. Cho nên ở nhà mỗi tháng chỉ vài ngày rồi lại lên đường vào rừng góp nhặt hài cốt còn sót lại, công việc nghĩa trang giao cho con cái trông nom.
Bây giờ thì bà “Năm khùng” trở thành chị “Năm Nghĩa”: “Nghĩa” là tên tục mà cũng là ý nghĩa việc làm của người đàn bà lạ lùng với tâm nguyện: “Mong làm sao các đồng chí được trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình, có một nấm mồ để cho người thân thắp nén hương tỏ lòng thành trong những ngày lễ tết ấm lòng người nơi chín suối. Nhiều đồng chí trên 30 năm, 40 năm, thậm chí 50 năm mới được trở về gia đình, đó là niềm vui nhất của tôi.”

746 - Vũ Trọng Nhượng
“NGƯỜI NHÁI” LÊN BỜ BÓ TAY
Nông dân sinh 1944 tại Hải Phòng. Sống ở Nha Trang (2002).
Nhập ngũ năm 1964 vào thẳng binh chủng hải quân ngay do thể hình tự nhiên có sẵn tứ chi to dài khác thường rất phù hợp nghề bơi lặn. Sau đó nhanh chóng được đào tạo làm trinh sát đặc công biển, một đơn vị mới tương tự “người nhái” của hải quân VNCH (theo huấn luyện kiểu Mỹ).
Năm 1967 được chuyển vào chiến trường Nha Trang chuyên đặt mìn phá nổ tàu Mỹ lập nhiều chiến công vang dội trong đó có trận đánh chìm tàu Mỹ chứa vũ khí và chất độc hóa học năm 1969. Năm 1973 bị thương nặng đồng đội tưởng đã hy sinh rồi.
Sau chiến tranh, năm 1976 lấy vợ là một cô giáo thôn nữ Khánh Hòa .
Năm 1979 đang làm nhiệm vụ ở Gia Lai thì lên cơn động kinh nguy hiểm do hậu quả bị nhiễm chất độc hóa học (có thể cả CĐDC) trên tàu địch năm xưa. Sau đó sức khỏe suy kiệt nên đành làm đơn về hưu non hàm đại úy.
Từ đó ở lại luôn quê vợ Diên Khánh làm ruộng, sinh đến 7 con trong đó đứa con trai út còn bị di chứng từ cha khiến mới sinh ra đã bị lệch 2 mắt mà thị lực lại kém. Cuộc sống thời hậu chiến ngày càng khó khăn nên vợ phải nghỉ dạy ở nhà lo nuôi chồng con nheo nhóc.
Bản thân mình bệnh hoạn – bệnh mất ngủ triền miên -- chẳng đỡ đần gì cho vợ được bao nhiêu, tiền hưu phải chu cấp cho bố mẹ ở xa trong khi thẻ thương binh chưa làm được do… không có tiền đi làm thủ tục nhiêu khê.
Đồng đội có biết chuyện lúc đó cũng chỉ còn biết thở dài cám cảnh “Anh hùng nhất mà cũng là người thua thiệt nhất”!

747 - Vũ Văn Tỵ
VỢ CHỒNG XE LĂN
Lao động nghèo sinh tại Bình Dương. Sống ở TPHCM (2010).
Năm 1974 trong một lần chạy nạn chiến tranh bị trúng mảnh bom cụt chân trái.
Sau khi hòa bình lập lại, lấy vợ nhưng bản thân bị tàn tật lại gặp cảnh đời sống khó khăn thời hậu chiến nên không bao lâu gia đình lục đục. Nhân lúc mình lên Sài Gòn tìm việc làm, vợ đã lén bán nhà ôm tiền đi mất!
Thế là trở thành người vô gia cư chống gậy khập khiễng đi bán vé số mưu sinh trên đường phố TPHCM.
Trên con đường lầm lũi kiếm sống đó tình cờ lại gặp được một nữ đồng nghiệp gốc Nghệ An cũng gặp cảnh đời còn không may hơn cả mình mới 7 tháng tuổi đã bị sốt bại liệt nửa người nay ngồi xe lăn giong ruỗi trên dặm đường vé số. Hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau tình nguyện chắp nối mong tìm kiếm được chút hạnh phúc nhỏ nhoi.
Đó là hạnh phúc quá giản đơn mỗi sáng ông dìu bà xuống gác rồi 2 người 2 xe lăn lên đường đi bán vé số, tối mịt mới về ông cõng bà lên gác, căn gác chỉ rộng 8m2 trong hẻm nhỏ: “Trải qua bao nhiêu mất mát giờ đây thật sự tôi mới càng trân trọng hạnh phúc mình đang có.”
Cả 2 đã tàn tật một người phải lết đi một người còn một chân đi không vững lên xuống gác cực quá sao không ở tầng trệt cho khỏe hơn? Trả lời cũng quá đơn giản là ở dưới không đủ tiền thuê nhưng “Ở thế này là tốt lắm rồi, không còn mong gì hơn nữa.”

748 - Vũ Văn Xoan
THƯƠNG BINH “NÁT NGƯỜI” VẪN VÔ ĐỊCH BÓNG BÀN
Thương binh sinh tại Hải Dương. Sống ở Hải Dương (2007).
Năm 1972 trên chiến trường Quảng Trị đã bị thương gần như “nát người” với 47 vết thương tất cả: Cụt cánh tay phải, nát hết chân phải, gãy chân trái, cụt cánh tay trái, xương lưng và cột sống bị tổn thương, lủng ngực xuyên đến bả vai, vỡ xương vai trái… Qua vô số lần giải phẫu vẫn còn sót lại trong người 6 mảnh đạn nằm chỗ hiểm không thể lấùy ra được.
Vậy nhưng từ khi còn nằm viện đã tự tập để chống nạng đi lại được, về nhà tự tập đi xe đạp. Và tìm thấy ở thể thao một cách rèn luyện phục hồi để mình có thể sinh hoạt như người bình thường. Chủ yếu tập trung vào môn bóng bàn.
Bắt đầu dự từ Đại hội Thể thao Người khuyết tật lần thứ nhất 1997 tổ chức ngay tại vùng đất máu lửa Quảng Trị năm xưa, đến Đại hội 1998 đã vượt lên giành chức vô địch đơn nam bóng bàn. Thừa thắng xông lên chiếm thêm 14 HCV khác trong đó có 1 HCV Đông Nam Á, 4 HCV quốc gia… Nhờ đó - tự khoe – 10 năm qua chưa hề tốn một đồng tiền thuốc chữa bệnh!

749 - Vương Kiều
“KẺ HÀNH HƯƠNG” BẤT ĐẮC DĨ
Nhà thơ tên thật Trần Vĩnh Tựu sinh 1950 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TPHCM (2011).
Khi còn là học sinh cấp 2 ở Huế đã tham gia hoạt động cộng sản chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Trong trận chiến Mậu Thân 1968 trở thành du kích có mặt trong đoàn quân chiếm đóng Huế. Được sau khi Việt Cộng rút đi đã bị bắt giam nhà tù chế độ cũ.
Một thời gian sau được thả ra nhưng do không bắt được liên lạc với cơ sở cũ và sợ tiếp tục bị mật vụ chế độ Sài Gòn truy lùng nên tìm đường lánh nạn… đi tu thành sư khất thực trốn lên Đà Lạt nương nhờ cửa chùa.
Sau 75 xem như được thoát nạn đã xuất hiện trở lại tham gia chính quyền mới được phân công phụ trách một bến xe. Nhưng được thời gian ngắn thì bỗng nhiên bị bắt lần nữa bởi chính quyền cộng sản đưa về thụ án ở Huế!
Ở tù một thời gian rồi được thả ra làm nghề lao động không sống nổi mới tìm đường vào Sài Gòn làm vài nghề tiểu thủ công nghiệp với bạn bè đắp đổi qua ngày vẫn không khá.
May sao rồi sau cùng cũng thấy được ánh sáng cuối đường hầm nhờ lấy vợ cùng quê có anh em vượt biên qua Đức gửi tiền về giúp đỡ. Thế là có vốn để lập nên một dạng đại lý du lịch phục vụ khách nước ngoài vào hàng đầu tiên ở VN làm ăn khấm khá giữa những năm 90. Từ đó nhanh chóng trở thành là một “đại gia” kiểu mới, một trong số ít người đầu tiên xài máy nhắn tin đeo nịt ngang hông kêu “tít tít”! Còn bỏ tiền in 2 tập thơ hoành tráng nữa.
Nhưng bỗng nhiên tất cả cơ ngơi, sự nghiệp đổ sập xuống tan tành như lâu đài xây trên cát vì tội… đèo bòng vợ bé khiến vợ lớn nổi giận hạ lệnh “cắt” toàn bộ! Đành chấp nhận thương đau vì nỗi cần con nối dõi mà vợ lớn không sinh được.
Thế là từ đó lại trở về với con số 0 to tướng sau bao lần lên voi xuống chó. Bấy giờ phải nai thân ra chạy chọt làm đủ thứ nghề – kể cả làm chuyện không hay bất đắc dĩ – để cáng đáng chuyện vợ con (may quá sinh được con đúng là con trai!). Có lúc định mang cả gia đình về quê Huế mở tiệm in lụa làm kế sinh nhai nhưng mới thấy công an xã hỏi thăm sức khoẻ sơ sơ – chỉ vô tình thôi - đã chột dạ lập tức bỏ của chạy lấy người!
Lại quay về TPHCM bôn ba đủ thứ việc song nay không còn cơ sở vật chất để gầy dựng lại cơ đồ khiến lâm vào cảnh đời sống khó khăn đưa tới năm 2010 vợ – vợ sau – bỏ đi để lại cho mình cảnh gà trống nuôi con càng lao đao vất vả cay đắng mùi đời một người từng lên cao tột đỉnh vật chất đột nhiên bị kéo tuột xuống gần đáy xã hội.
Chỉ còn niềm an ủi tự ru mình vào những giấc mơ khát vọng ở gần biên giới hoang tưởng chắc không bao giờ thành sự thật tìm lại được:
“Như kẻ hành hương đi qua sa mạc
Tôi uống nỗi buồn cho cơn khát dịu tan
Tội nghiệp cho tôi
Kẻ hành hương đi qua sa mạc
Tìm niềm vui trong cơn khát đời mình
……..
Tôi gom hết nỗi buồn này
Nhìn về trăm năm và hỏi vọng trời xanh
Trời xanh cao con người bé nhỏ
Con người đi trong cơn khát đời mình.”
(Kẻ hành hương).

750 - Vương Tấn Thơm
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 32
Nông dân còn tên Nguyễn Hữu Nghị sinh 1945 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2002).
Mồ côi cha mẹ từ nhỏ sống với ông bác. Sống khổ quá nên theo cộng sản lên núi, đến năm 1964 được đưa ra Bắc đào tạo.
Đầu năm 1973 mang lon thiếu úy bộ đội quay lại chiến trường quê hương Quảng Ngãi. Không được bao lâu thì trong một trận đánh bị địch phục kích trúng đạn vào đầu ngất trên trận địa đồng đội tưởng đã mất tích hoặc chết rồi.
Không ngờ sau đó được đồng bào dân tộc Cor cứu mang về giao cho một bà mẹ dân tộc nuôi rồi gã con gái vừa đi thanh niên xung phong đường Trường Sơn về. Nhưng trí nhớ không hồi phục đầy đủ, quên cả gốc gác tên tuổi nên sau đó được đặt tên khác Nguyễn Hữu Nghị.
Vì vậy ở quê nhà cuối năm 1973 được chính thức phong liệt sĩ.
Năm 1977 dần nhớ lại được lai lịch mình bèn tìm về quê mới biết lâu nay gia dình ông bác đã lãnh tiền trợ cấp liệt sĩ của mình nên thấy không nỡ công khai sự thật rằng mình… chưa chế! Đành buồn tủi lủi thủi quay về quê vợ sống đời người dân tộc trên núi rừng vùng cao không quay về quê cũ nữa. Mà muốn về lại cũng không làm nổi bởi đẻ đến 9 đứa con, cả 2 vợ chồng làm cật lực vừa làm ruộng khô vừa đốt rẩy làm than cũng chưa đủ cái ăn.
Mãi đến năm 1998 sự thật mới tình cờ được phát hiện khi mình gặp một đoàn cán bộ huyện lên vùng núi này đi tìm hài cốt liệt sĩ mới hỏi thăm tin tức gia đình ông bác (đã mất 3 năm rồi). Khi đó người ta đi tìm liệt sĩ “thật” đâu không thấy mà lại thấy sờ sờ đó một liệt sĩ “giả”!
Nhưng từ đó đến việc làm hồ sơ thương binh là cả một chặng đường gian nan chưa biết bao giờ mới xong vì thời gian trôi qua lâu rồi mà giấy tờ, hồ sơ rơi rớt thất lạc hết rồi. Chỉ được cấp cho một nhà tình thương nhanh chóng xuống cấp tứ bề tơi tả cần 3 triệu đồng để sửa mái cho mưa khỏi dột mà chẳng biết lấy đâu ra, xin ai bây giờ…
(Còn tiếp)
http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hshc-ki-74

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

Hình ảnh quê hương - Làng Chuồn - qua ống kính của Thanh Ngô

Đình Làng Chuồn

Đình Thành Hoàng ở Đồng Miệu



Nhà thờ họ Hồ - An Truyền


Lăng Cụ Tổ họ Hồ nhìn từ Bàu (con rạch bên làng)

Chợ Chuồn


Một thoáng quê
Đầm Chuồn

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

NGUYỄN CƯƠNG : Một nữ tu đất cố đô

Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.

Sư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905, viên tịch năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp, bảo tháp ở tại phường Thủy Xuân - TP Huế, trong khu đồi thông thuộc lăng mộ gia tộc Hồ Đắc, gần ni tự Hồng Ân là ngôi chùa do Sư Bà sáng lập từ năm 1949 và trú trì tại đó cho đến khi rời trần thế về nơi cõi Phật. Sư Bà Diệu Không sinh ra trong một gia đình trí thức lớn vào hàng danh gia vọng tộc thời bấy giờ ở kinh đô triều Nguyễn tại Huế.

Sư Bà quê ở làng An Truyền, Phú Vang, thân sinh là cụ Hồ Đắc Trung (1861- 1941), tước Quận công, Thượng thư Bộ Học kiêm Bộ Hộ, rồi Bộ Lễ kiêm Bộ Công. Thân mẫu của Quận công Hồ Đắc Trung là Quận chúa Công Nữ Thức Huấn (con gái của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm - Hoàng tử thứ 10 của vua Minh Mạng). Bà Thức Huấn đã bị quân Pháp giết vào ngày Thất thủ Kinh đô Huế 23/5 Ất Dậu (1885). Cụ Hồ Đắc Trung có tước phong là Quận công cho nên Sư Bà là Quận chúa Hồ Thị Hạnh (khi chưa xuất gia tu hành), thuộc vào loại “cành vàng lá ngọc” của đất cố đô, được cho là một “kỳ nữ”.Sư Bà Diệu Không có tất cả 10 anh chị em (6 nam, 4 nữ). Sư Bà là con út, trong số các anh chị em của sư Bà có một số vị giàu lòng yêu nước, tâm huyết đi theo cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp và đã có nhiều đóng góp. Ông Hồ Đắc Điềm (1899- 1986) là tiến sĩ luật khoa Paris vào những năm 20 của thế kỷ trước. Nghe theo lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ, với tấm lòng yêu nước của một trí thức thuộc hàng quan phẩm (Tổng đốc Hà Đông), ông Hồ Đắc Điềm từ bỏ tất cả để tham gia cách mạng sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Hoà bình lập lại, trở về tiếp quản Thủ đô (10/10/1954), ông đã giữ nhiều cương vị trọng trách: Phó Chủ tịch UBHC TP Hà Nội, Chánh án Toà án TP Hà Nội… Một người anh khác là Giáo sư, Bác Sĩ Hồ Đắc Di (1900-1984) tốt nghiệp Y khoa Paris từ những năm 20 của thế kỷ trước, là Hiệu trưởng trường Đại học y khoa đầu tiên của nước ta cho mãi đến những năm 80 của thế kỷ XX. Ông Hồ Đắc Liên (1904-1958) tốt nghiệp ngành địa chất mỏ Paris, là Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất đầu tiên của nước ta. Ông Hồ Đắc Ân (1950-1984) tiến sĩ tốt nghiệp Dược khoa Paris, đã có nhiều đóng góp trong bào chế thuốc phục vụ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ… Còn 4 chị em của Sư Bà mỗi người có một nét riêng của con gái xứ Huế. Bà Hồ Thị Huyên (1896-1965), mẹ của nhà bác học Bửu Hội là một phật tử đã tình nguyện tự thiêu nhưng không thành để phản đối chính quyền Mỹ - Diệm đàn áp phong trào Phật giáo miền Nam vào những năm 60 của thế kỷ trước. Bà Hồ Thị Phương (1897-1980) là con dâu của Thượng thư Lê Trinh (1850-1909) - người đã tôn vua Duy Tân và cứu Phan Chu Trinh thoát khỏi án chém(1). Bà Hồ Thị Chỉ (1902-1985) là Ân phi của vua Khải Định, xung quanh việc này cũng đã có nhiều giai thoại để lại. Bà Hồ Thị Chỉ trước đó đã được vua Duy Tân định chọn để trở thành hoàng hậu, nhưng sau một thời gian đã bất thành để tránh liên lụy cho gia đình cụ Hồ Đắc Trung (do cụ bị Pháp nghi ngờ đã tìm cách cứu Trần Cao Vân và Thái Phiên thoát tội chết)(2). Cho nên về sau, bà Hồ Thị Chỉ lại trở thành ân phi của vua Khải Định. Khi Bảo Đại lên ngôi, phong cho mẹ tức bà Từ Cung làm Hoàng thái hậu, thì bà Hồ Thị Chỉ sau đó bị bệnh thần kinh, đi theo công giáo ở Dòng Chúa Cứu Thế tự sinh sống bằng đi bán bánh bèo, nậm, lọc ở chợ An Cựu và qua đời vào năm 1985 tại nhà riêng của một người cháu ở đường Phan Chu Trinh - TP Huế. Đám tang của bà theo cả nghi thức Phật giáo và Công giáo. Lúc sinh thời, bà Hồ Thị Hạnh rất quan tâm chăm sóc bà Hồ Thị Chỉ vì cảm thương số phận không may mắn trong cuộc đời của chị mình và cả 4 chị em gái đều rất gắn bó với nhau trong việc đạo, việc đời. Sư Bà Diệu Không (Hồ Thị Hạnh) sinh trưởng trong một gia đình như vậy. Một tiểu thư quận chúa, một kỳ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời cũng lắm trắc ẩn gian truân trước khi xuất gia thành đạo. Về chuyện tình duyên, thời còn con gái đã có nhiều công tử con nhà gia thế, môn đăng hộ đối mong muốn được kết tóc xe duyên. Lúc ở độ tuổi trăng tròn, tiểu thư quận chúa được theo hầu thân phụ sang Cao Miên (Campuchia), đã được hoàng tử Cao Miên để ý. Trải qua bao thăng trầm duyên số, cuối cùng Hồ Thị Hạnh đã quyết định nghe lời thân phụ làm vợ kế người con trai của cụ Cao Xuân Dục (Thượng thư Bộ Học) đang nuôi sáu con nhỏ mồ côi mẹ là ông Cao Xuân Xang và hai người chỉ sinh hạ được một người con trai (sau này định cư ở Pháp cho đến lúc qua đời). Ông Cao Xuân Xang bị bệnh phổi nặng, giã từ bà khi người con mới sinh chỉ mấy tháng tuổi. Bà để lại bài thơ “Đám cưới” như sau: “Đám cưới hay là một đám tang?/ Cả nhà, lớn, nhỏ, thảy đều than/ Chồng chung, bệnh hoạn tình phai nhạt/ Vợ kế, kề vai gánh đoạn tràng/ Kẻ nói là ngu, người nói dại/ Người cho là dở kẻ cho gan/ Biết chăng chỉ có người trong cuộc/ Gậy mái thuyền từ phải quyết sang”. Duyên phận của một tiểu thư, quận chúa, một kỳ nữ là như vậy!
Trở lại thời kỳ từ năm 1920 - 1935 là giai đoạn Hồ Thị Hạnh tham gia hoạt động xã hội, xác lập chí hướng “hành đạo cứu đời”. Chuẩn bị hành trang để bước vào đời, Hồ Thị Hạnh cùng với người chị là Hồ Thị Chỉ đã chăm chỉ miệt mài học hành. Hai bà đều thành thạo chữ Hán, chữ Pháp. Mới 15 tuổi, Hồ Thị Hạnh đã thôi học trường nữ sinh Đồng Khánh, ở nhà tiếp tục tự học, giúp việc nhà, bắt đầu tìm hiểu và tham gia công tác xã hội, mặc dù thân phụ Hồ Đắc Trung muốn cho bà đi du học Pháp theo sau các anh Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di, Hồ Đắc Ân, Hồ Đắc Liên. Qua đọc sách báo tìm hiểu về cách mạng một số nước, nhất là tài liệu sách báo của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và hết sức ngưỡng mộ ý chí việc làm của hai cụ, bà sớm có ý thức góp phần duy trì, nêu cao thuần phong mỹ tục, đấu tranh cho nữ quyền để nâng cao vị thế người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Hồ Thị Hạnh đã tham gia Hội từ thiện do bà Nữ sử Đạm Phương (thân mẫu của nhà văn Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) làm Hội chủ và làm thủ quỹ tài chính của Hội. Năm 1926, với sự đồng ý và giúp đỡ của bà Đạm Phương, bà Trần Như Mân, bà Hồ Thị Hạnh đứng ra thành lập Hội Nữ công, lúc đầu ở tỉnh Thừa Thiên sau đó lan ra nhiều tỉnh khác ở Miền Trung. Hội Nữ công với uy tín của bà đã quyên góp được rất nhiều tiền trong các tầng lớp dân cư kể cả tầng lớp quan lại và phu nhân quan chức Pháp. Hội Nữ công còn có nhiều hoạt động ích lợi khác do đó mật thám Pháp đã để ý. Để tránh mật thám Pháp theo dõi quấy rầy, bà đã thành lập Hội Cứu tế lấy tên là Lạc Thiện. Hội Lạc Thiện không ngừng làm việc nhân đạo mà còn giúp đỡ cả các nạn nhân trong các cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931 bị Pháp đàn áp. Bà và những thành viên của Hội đã ra tận Nghệ An cứu trợ.Xuất thân trong gia đình quan lại phong kiến theo đạo Phật, lại chịu ảnh hưởng của bà cô ruột là Sư Bà Diên Trường (thế danh Hồ Thị Nhàn), bà Hồ Thị Hạnh đã phát tâm tu hành. Bà đã gửi con cho bà chị ruột Hồ Thị Huyên (bà Ưng Úy), giải quyết ổn thỏa cho sáu người con riêng của ông Cao Xuân Xang để làm phật sự và từ thiện. Năm 1932 bà được hòa thượng Giác Tiên trú trì tổ đình Trúc Lâm thu nhận làm Sadini với pháp danh Diệu Không. Không lâu sau đó bà cùng hòa thượng Giác Tiên đứng ra tổ chức An Nam Phật học hội ở Huế và phát triển ra các tỉnh miền Trung và miền Nam. Bà tự bỏ tiền và vận động quyên tiền để xây cất các ni viện ở Huế cho các nữ tu tu học như ni viện Diệu Đức, Diệu Viên, Hồng Ân (sau này Sư Bà đã trú trì), Đông Thuyền, Khải Ân (đã có thời gian bà Hồ Thị Chỉ tu ở các chùa này)… cùng các ni viện ở một số địa phương khác ở miền Nam. Bà cùng với các hòa thượng Thích Trí Thủ, Minh Châu, Nhất Hạnh… góp công sức xây dựng Viện Đại học đầu tiên của Phật giáo Việt Nam là Đại học Vạn Hạnh. Bà còn đắc lực khai sáng nhiều cô nhi viện, ký nhi viện trên khắp các tỉnh, thành miền Trung, góp phần đắc lực trong việc sáng lập nhà in Liên Hoa do hòa thượng Thích Đôn Hậu làm chủ nhiệm để in kinh sách Phật và nguyệt san Liên Hoa là tờ báo tồn tại khá lâu ở miền Trung và một số tỉnh khác ở miền Nam thời bấy giờ. Ngoài việc sử dụng thành thạo chữ Hán, tiếng Pháp, bà còn giỏi tiếng Pali và đã biên dịch nhiều bộ kinh Phật. Riêng có bộ Đại Trì Độ Luận gồm 100 cuốn, bà dịch trong những năm ở tuổi đã trên tám mươi tuổi và hoàn thành tập cuối vào thời gian trước khi viên tịch (1997) tại ni tự Hồng Ân (Huế).Trong những năm 60 của thế kỷ trước, dưới chính quyền độc tài gia đình trị họ Ngô do Mỹ dựng lên, Phật giáo miền Nam bị phân biệt đối xử, bị đàn áp khốc liệt. Phật tử nhiều nơi đứng lên đấu tranh nhưng đều bị chính quyền Mỹ - Diệm đàn áp dã man. Giáo hội Phật giáo miền Nam chủ trương kêu gọi phật tử “Vị pháp vong thân” dưới hình thức tự thiêu để đánh động lương tri nhân dân và đạo hữu trong nước và quốc tế. Để hưởng ứng, Sư Bà Diệu Không cùng người chị ruột là Sư Bà Diệu Huệ (Hồ Thị Huyên) đã viết đơn tình nguyện tự thiêu. Hai Sư Bà đã cùng đại diện Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên vào Sài Gòn nộp đơn xin tự thiêu, song lúc này, Giáo hội Phật giáo Miền Nam đã chọn Hoà Thượng Thích Quảng Đức được tự thiêu đầu tiên. Nhiều nhân chứng, nhiều bài báo đã kể lại chi tiết sự việc này và hết lời thán phục ngợi ca. Sau khi chứng kiến lễ tự thiêu, Sư Bà Diệu Không đã làm bài thơ “Khóc ngài Quảng Đức” hết sức cảm động: “Lửa dậy lưng trời thân chẳng động/ Dầu loang khắp đất ý không lay/ Tiêu diêu cõi Tịnh, Thầy theo Phật/ Lận đận trần lao, con nhớ Thầy”.Những năm tiếp theo, Sư Bà vẫn có nhiều đóng góp cho đạo, cho đời đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau năm 1975, với cương vị đứng đầu giới nữ tu miền Nam, Sư Bà Diệu Không đã góp phần tích cực vào quá trình thống nhất tổ chức Phật giáo toàn quốc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gắn với sự phát triển của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Sư Bà được tín nhiệm bầu làm Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và là Ủy viên thường trực Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế. Vào năm 1977, có một cuộc hội ngộ thật cảm động, bốn anh em ruột Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di (Hà Nội), Hồ Đắc Ân (TPHCM), Sư Bà Diệu Không (Huế) đã vinh dự là đại biểu dự Đại hội MTTQVN đầu tiên của đất nước thống nhất. Đúng là một cuộc trùng phùng đẹp đẽ, có ý nghĩa lịch sử!

Là một người tu hành và hoạt động từ thiện xã hội, Sư Bà Diệu Không còn để lại khoảng trên 110 bài thơ (phần sưu tập được) sáng tác từ thập niên 20 cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Năm 2007, Nhà xuất bản Thuận Hoá (Huế) đã xuất bản quyển “Diệu Không thi tập”. Nhà nghiên cứu văn hoá, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân (Huế) đã tiếp cận vấn an Sư Bà tại chùa Hồng Ân và sưu tập được một số bài thơ qua bài viết “Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong tâm trí Sư Bà Thích nữ Diệu Không”. Đặc biệt có bài “Thăm Lăng Hồ Chủ Tịch” vào cuối năm 1976.Dù Người còn mất chẳng hề chi.Thống nhất non sông mới lạ kỳ.Bất diệt muôn đời đều nhớ rõ.Những lời di chúc lúc ra đi.Có thể nói Sư Bà là bậc chân tu hàng đầu của giới nữ tu Việt Nam, danh và đức của Sư Bà gắn liền với phong trào Phật giáo miền Nam từ những năm 1930 đến 1975, và cả khi đất nước hoàn toàn thống nhất đi lên CNXH. Từ trước đến nay, đã có khá nhiều bài viết của nhiều tác giả tên tuổi viết về Sư Bà phản ánh các khía cạnh khác nhau. Trong đó đáng lưu ý quyển “Đường thiền sen nở” do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây ấn hành tháng 6/2009 do hai tác giả Lê Ngân - Hồ Đắc Hoài biên soạn để giới thiệu cuốn hồi ký của Sư Bà do bà Cao Nữ Xuân Oanh chép lại chân thực lời của Sư Bà từ tháng 3/1992. Tác giả đã giữ nguyên, tôn trọng lời kể của người trong cuộc, chỉ thêm một số tư liệu lịch sử có liên quan đến gia tộc Hồ Đắc. Phần thi lục do giới nữ tu của Chùa Hồng Ân biên tập. Sư bà Diệu Không là một tượng đài của nữ tu đất cố đô.

Huế, Xuân Tân Mão 2011

N.C (267/5-11)

----------

(1) Phan Chu Trinh qua những tài liệu mới - Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2001.

(2) Bích Phong Di Thảo - Nhà xuất bản Thuận Hoá - 2006.