CAO THOẠI CHÂU
Hóa ra mãi đến ngoài
hai mươi tuổi - chính xác thì lâu hơn thế - tôi mới có bài thơ tình đầu tiên.
Đúng ra, trước đó cũng có được đôi bài nhưng là thơ tình “cóc gặm” của một cậu
học trò thích lang thang hơn bám trường bám lớp. Tôi nói thế là tôi tìm ra được
nguyên nhân vì sao thơ tình của bản thân lại đến muộn màng. Không ham học thì
sao có bạn gái, con gái thời đấy họ ham học hơn ham chơi, cũng rất ham yêu
nhưng mọi cuộc tình thường có lối đi chung là xuyên qua sân trường. Tôi nghĩ
như thế là rất hay và tôi không cho phép những “nhà nghiên cứu” về thơ miền Nam
trước 1975 khi họ bảo văn chương thời ấy thể hiện nếp sống “yêu cuồng sống
vội”. Thơ tình miền Nam trước 1975 là một mảng của tấm lụa là gấm vóc chứ không
phải “hiện sinh chủ nghĩa” hiểu một cách bệnh họan là “yêu cho gấp và yêu bất
kể chết ” kia đâu.
Say đắm một cách đắm say,
mới mẻ và kinh thánh, và khổ nỗi cũng có nhiều nỗi buồn thời đại quá, tôi vẫn
nghĩ thế khi nhớ lại một thời thơ tình miền Nam mà mình vừa là người góp vào đó
một cách nhỏ nhoi vừa là người đọc thơ chuyên nghiệp của cái thời xưa mà không
xa đó.
Khi nhà thơ và cũng là
người thầy dạy học của tôi, Nguyên Sa, tung ra hình ảnh này“Hôm nay Nga buồn
như con chó ốm/ Như con mèo ngái ngủ trong tay anh” là ông đã tham gia vào
lớp người mở một khu vườn mới cho thơ tình giai đọan đất nước vừa chia cắt, mà
theo tôi là nhà thơ mang ở bên Tây về nóng hổi. Hình ảnh “chó ốm” trong
hình dung thi ca là sự làm nũng của một cô gái được yêu và “ngái ngủ” phải
chăng là chú mèo nấn ná không muốn ra khỏi vòng tay đầy hơi ấm của người vuốt
ve nó? Và đó là hình tượng mới, “đời” hơn những gì cách điệu ước lệ trước kia. Có
điều là khi gieo xuống Sài Gòn nó lại rất Việt Nam, nghĩa là rất thơ và rất…người!
Trong trí nhớ tôi - một người đọc thơ mẫn cán và chuyên nghiệp- vẫn còn sự bồi
hồi của một cảm xúc như tiếng gió reo nhè nhẹ rồi vù vù không thiếu phần cổ
trang trong mô tả một nhan sắc “Em đi như vẽ trên đường nắng / Em nói
như đàn trong miệng ai” của Hoàng Trúc Ly, thì hai người thi sĩ này
bên tám lạng bên nửa lí lô gram! Người con gái ấy chuyển động theo hướng“đi,
nói” sao mà diễm lệ đến thế, không xao lòng nhận lấy những ba động mà
được chăng? Mấy câu khác “Em giấu đi những nỗi lòng vỡ rạn / Anh cũng thề
giấu hết gió mưa đi/ Bao nhiêu ánh đèn rũ rượi tái tê/ Những ngõ vắng tối tăm
anh giấu hết” (thơ Hoàng Anh Tuấn) thì cũng là gió mới ở Tây về , nghe
trái tim nhân bản vô cùng. Sài Gòn những năm sau 1954 đang có một làn gió hiện
sinh thổi vào, không phải qua ngả giảng đường đại học hoặc do các tiệm sách
lớn, mà nơi tiếp nhận là văn chương. Người ta bắt đầu làm quen với cảm xúc mới
mẻ này “Đời sống ôi buồn như cỏ khô/ Này anh, em cũng tợ sương mù/ Khi
về tay nhỏ che trời rét/ Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ” (Nhã Ca), thì
đấy, không đấu tranh, không cuồng vội, chỉ là thơ và người thôi! Thơ tình miền Nam
chào giã biệt một thời đại thi ca - thường gọi là Thơ Mới- mà không cần đến lễ
lạt hoặc một sự hủy diệt nào,để ra riêng cho mình một cơ ngơi hiện đại.
Đất nước bị chia cắt
thì có những cuộc tình bị chia thành hai nửa “Hai đứa mình hai bến sông
sâu/ Dây thép gai giăng mắc ngang cầu/ Đôi tay anh cuốn tròn thương nhớ / Đôi
mắt em buồn như mưa ngâu/ ”. Nếu tôi quán xuyến được hết, thì “dây
thép gai” lần đầu tiên có mặt trong thơ miền Nam là ở mấy câu này của Hoàng
Khanh.
Chẳng bao lâu thì chiến tranh
bùng phát ngày một khốc liệt và dai dẳng. Nó động đến từng gia đình và thanh
niên bị cuốn vào cơn lốc đó, không có ngọai lệ cho những người cầm bút. Một
cuộc chiến tranh mà cả những người không thích nó cũng phải mặc áo lính như một
bổn phận công dân. Nguồn xúc cảm của thi ca không thể ở nhà khi tác giả ra đi
và những lo âu, thậm chí những đổ vỡ trong các cuộc tình hiện dần trên báo. Những
nhà thơ thời ấy họ rất thật tình và ngay thẳng, bom đạn và chết chóc đe dọa
những mối tình đẹp và họ đã không nói khác đi- họ ngay thẳng và thật
tình. “Anh trở về hàng cây nghiêng ngã/ Anh trở về hòm gỗ cài hoa /Anh
trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng” (…) “Mai anh về
em sầu thê thiết/ Kỷ vật đây viên đạn màu đồng/ Cho em làm kỷ niệm sang sông/
Đời con gái một lần dang dở” (thơ
Linh Phương) như một tâm trạng chung của nhiều thanh niên cùng thời với tác
giả. Có thể về trong hai cách đấy và có thể ( nay gọi là nhiều khả năng) người
ở nhà nhận một kỷ niệm như viên đạn bắn cho không chết nhưng ngắc ngoải tan
hoang! Tình yêu và hạnh phúc thường xuyên trong tình trạng khẩn cấp như một
thành phố nào đó bị thiết quân luật!
Còn không thì
lối về cũng chẳng hanh thông gì “ tôi về ngơ ngác đôi tay/ chân đi hồn
rã áo bay lạ người/ vẫn mình trên phố ngược xuôi/ nghe trong cơn rộn tiếng đời
héo hon / mai đây bỏ lại phố phường/ bụi se cát mỏi trên đường tôi đi” (thơ
Lâm Chương) - ở đâu về và rồi đi đâu trong những năm tháng dang dở mộng chưa
thành ấy?
Khi 26
tuổi tôi mất một mối tình cũng trong tình cảnh chung đó, nên tôi hiểu và trọng
sự vội vã và cái quyền bị lung lay này “... em hỡi em/ người anh yêu/ anh
có quyền hôn em lúc này/ bởi ngày mai anh trở ra mặt trận/ ở đó, anh không
thiếu một thứ gì/ kể cả máu/ chỉ duy có thứ này/ hãy viện trợ cho anh/ đó là
giọt lệ em xanh biếc...” nhà thơ bị mất một chân vì mìn nổ Luân Hoán
đã viết như tiên tri thế ấy. Không thiếu một thứ gì, máu thì nhiều không kể
xíêt giống như cái chết lởn vởn xung quanh, trong cảnh tượng đó, những “giọt lệ
em xanh biếc” bỗng trở thành một thứ khát khao dù rằng lệ hay máu thì cũng là
bi thương thôi. Tôi nghe một sự lẩn quẩn giữa hai dòng nước này của con người.
Thời chiến tranh là
nền cho nhiều bài thơ tình mang dấu ấn của nó, có điều là tính hùng tráng hay
bi tráng mà thôi. “Tặng cho em trái lựu đạn cay/ Hạch nước
mắt của thời đại mới/ Thứ nước mắt không buồn không vui /Đang ràn rụa
trên mặt anh chờ đợi/ Tặng cho em cuộn dây thép gai/ Thứ dây
leo của thời đại mới/ Đang leo kín tâm hồn ta hôm nay/ Đó là tình yêu
anh, em nhận đi đừng hỏi/ Tặng cho em cuộc chiến tranh đang tàn/ Trên quê
hương của bao nhiêu bà mẹ/ Nơi đồng bào ta ăn bom đạn thay cơm/ Nơi
vải xô không đủ để chít đầu con trẻ”. (thơ Trần Dạ Từ). Những thứ dùng
để hạ sát được nhà thơ mang làm tặng vật như tặng cho nhau một tâm trạng thừa
mứa những vô vọng nghịch lý của một thời. Bài thơ này dường như thay lời muốn
nói cho cảm quan nghệ thuật trước cuộc sống bị đắp bờ bao của phẫn nộ. “Tặng
vật tỏ tình” không hùng tráng mà bi tráng thấy rất rõ- và chắc hẳn không ít
người có thời đã coi như bài thơ viết cho mình, thậm chí “ứng” vào mình. Mấy
câu khác của Hồ Minh Dũng “Còn ba năm nữa anh sẽ về/ Anh biết chắc
không còn quê hương để ở/ Em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu/ Làm bằng nắp hòm
người lính nghèo/ Chết ngoài mặt trận” nghe có vẻ như báo động một
tương lai khi nhà thơ hết hạn kỳ đối diện với chết chóc, nhưng sao đó lại không
là thơ tình viết bằng trái tim người làm thơ bị cuốn vào cuộc chiến ?
Chiến tranh là hòa
bình bị dán đè lên một mảnh giấy, ai cũng biết thế và ai cũng nuôi trong lòng
một hy vọng ngày mảnh giấy rơi xuống. Nhà thơ vốn là người bén nhạy hơn “Và
có thể nào đêm nay không còn tiếng súng/ Không còn nghe tiếng còi hụ giới
nghiêm/ Ba giờ sáng xuống Ngã tư quốc tế / Ăn một tô mì thơm ngát bình yên” (Phạm
Cao Hoàng). Thật tuyệt vời cho tô mì ăn vào phút đầu tiên của hòa
bình! Nó như một niềm hân hoan bé mọn không ít lần bị hụt hẫng. Phải đã từng có
mặt ngoài phố , đứng ở một gốc cây, sau một tảng đá, trong giờ giới nghiêm mới
hình dung ra được ảo ảnh một phút giây hòa bình là thế nào.
Có điều là thơ tình thời chiến không phải là
mảng chủ đạo trong thơ tình trước 1975 của thành thị miền Nam, nhưng tràn ngập trên các báo
là thơ lọai ấy. Những bài thơ đấy như một sự bột phát cá nhân, không một định
hướng nào, một sự khích lệ cũng không. Người đọc thơ nhận ra cái đáng yêu
của những nhà thơ phải ra trận, họ không là tráng sĩ ra biên cương, chỉ là
những thân phận người thời chiến, một đôi khi chịu nhận thiệt thòi- một cuộc
tình như nói ở trên, chẳng hạn- và họ chuyển hóa thành thơ với nguồn cảm hứng,
những hình tượng còn tươi (thay vì chế biến) là họ có lòng tự trọng và chân thật.
Rồi như Nguyễn Bắc Sơn “đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính/ mang trong đầu những ý nghĩ trong veo /xem cuộc chiến như tai trời ách nước” thì đấy là tiếng nói thực của nhiều người lứa tuổi tôi khi đó.
Thơ tình thời chiến miềnNam trước 1975- thường được gọi là "thơ Sài Gòn" - thiếu không khí hào hùng nhưng đó là một nét đẹp bởi nó chân thật, điều hết sức cần thiết của thi ca, làm nên một giai đoạn thi ca đáng lưu giữ và trân trọng, nó có tính lịch sử rõ ràng. Tuy nét đó là một nỗi buồn có phần bị động, khó lòng nói hết.
Rồi như Nguyễn Bắc Sơn “đời đã bắt kẻ làm thơ đi làm lính/ mang trong đầu những ý nghĩ trong veo /xem cuộc chiến như tai trời ách nước” thì đấy là tiếng nói thực của nhiều người lứa tuổi tôi khi đó.
Thơ tình thời chiến miềnNam trước 1975- thường được gọi là "thơ Sài Gòn" - thiếu không khí hào hùng nhưng đó là một nét đẹp bởi nó chân thật, điều hết sức cần thiết của thi ca, làm nên một giai đoạn thi ca đáng lưu giữ và trân trọng, nó có tính lịch sử rõ ràng. Tuy nét đó là một nỗi buồn có phần bị động, khó lòng nói hết.
6-2010
---------
Nguồn: CHÚT KỶ VẬT CÒN TRONG KÝ ỨC, tản mạn của nhà thơ Cao Thoại Châu, trong tập THƠ TÌNH
NAM
1975 do gio-o.com tuyển chọn và giới thiệu.
http://caothoaichau.blogspot.com/
Châu, trong tập THƠ TÌNH NAM 1975 do gio-o.com tuyển chọn và giới thiệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét