Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

MÙNG 7 TẾT

Sáng chủ nhật, tin nhắn của Vũ Trọng Quang
Cà phê vĩa hè đầu năm
Gần bên Bông Giấy cũ
Có Linh Phương từ Rạch Giá lên
Vũ Ngọc Đức từ Mỹ về ăn Tết
Trần Hữu Dũng ở nhà ra
và Vũ Trọng Quang mới đưa vợ đi lễ nhà thờ về
Nhắn tin Chiêu Anh Nguyễn nhưng chưa thấy
Buổi sáng không nắng
Đường còn vắng 
Năm mới bắt đầu muộn
Nhưng năm mới đang tới
Từ sáng hôm nay giữa tình bạn êm đềm

Ghé qua quán R, của MM trước khi trở về nhà
Hôm nay NMT đã về Bến Tre
Ngày nghỉ Tết cuối
Mai trở lại làm việc

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

LÊ KÝ THƯƠNG - Lộc đầu năm

Mấy nải chuối mốc cúng ông bà từ Tết đã chín đen vỏ, nhưng cả nhà không ai muốn đụng đến. Hai đứa con tôi thì thờ ơ vì bánh hộp và chocolat vẫn còn. Vợ chồng tôi chẳng thể nào ăn hết trong vòng hai ba ngày. Để lâu sợ hư, vợ tôi nghĩ ra cách làm kem chuối. Ngồi giúp vợ lột vỏ chuối, nhìn nàng ép từng trái  bằng chày đâm tiêu rồi rắc dừa bào, đậu phọng, cẩn thận cho vào chiếc túi ny-lông, sau đó cất vào tủ lạnh cho cả nhà ăn dần, tôi bổng nhiên nhớ đến mẹ tôi...
          
Hàng năm, sau Tết, mẹ tôi tập trung tất cả chuối mốc chưng trên các bàn thờ trong nhà, chừng chục nải, trái mập tròn căng da chín rục, để cả một góc nia đặt trước hiên rồi bắt anh em chúng tôi lột vỏ cho mẹ ép. Mẹ không cho ai ép vì sợ miếng chuối bầy hầy, không đẹp. Tay mẹ cầm chiếc chày nhào bột làm bánh in bóng nhẵn, cẩn thận lăn trên trái chuối được lót sẵn miếng lá chuối kê trên nia. Miếng chuối mỏng và to bè như bàn tay thấm đẫm tình cảm của mẹ. Rồi mẹ trải đều chúng trên nia, trên dần, trên sàn, phơi trước sân nhà. Sau một hai nắng thì trở mặt cho khô đều. Chừng năm nắng thì chuối đã khô, mật tươm ra ngoài, màu vàng nâu óng ánh. Gọi là chuối khô nhưng miếng chuối mềm chứ không cứng như chuối khô bỏ bịch ny-lông bán ngoài chợ. Mẹ trộn chuối đã ép với bánh in cúng Tết còn dư được nghiền nhỏ, bó trong mo cau khô, cột túm hai đầu thật chặt; một phần để dành cho cả nhà ăn thay quà vặt, hay làm món mời khách uống nước trà, một phần gởi tặng những bà con thân thuộc gần xa gọi là ''lộc đầu năm'' của chốn quê mùa.
          
Hồi nhỏ, mỗi lần đi học về, anh em chúng tôi thường được mẹ phát cho một miếng ''lộc đầu năm'' để ăn dặm chờ cơm, hoặc nó trở thành ''phần thưởng'' mỗi khi chúng tôi làm cha mẹ hài lòng. Từ khi sống xa quê, lúc độc thân cũng như khi đã lập gia đình, cứ cỡ sau rằm tháng giêng tôi lại nhận được món quà quê đó của mẹ tôi. Tôi cũng bắt chước mẹ, chia ''lộc đầu năm'' cho bạn bè thân. Miếng chuối khô đầy mật có dính bột bánh in ngọt đến ''quắn'' lưỡi. Càng nhai, càng thơm, càng dẽo. Tôi nhớ hồi mình còn nhỏ cứ muốn giữ mãi trong miệng hương vị đó, hương vị của cái Tết đã qua để rồi trông mong Tết sắp đến. Nhưng càng lớn tôi càng nhận ra trong cái hương vị quê mùa kia tràn đầy tình cảm của bà mẹ quê luôn luôn hướng về con cháu ở xa, mặc dù biết chúng đang có cuộc sống no đủ ở chốn thị thành.

Như những đứa trẻ đô thị khác, các con tôi thoạt đầu chẳng thấy có gì hấp dẫn trong miếng chuối đơn sơ chứa quá nhiều chất ngọt ấy. Tôi cũng không có ý định biến nó thành sơn hào hải vị. Nhưng mỗi khi vợ tôi nhẹ nhàng đặt đĩa chuối lên mặt chiếc bàn gương bóng nhoáng lúc gia đình đông đủ, tôi lại kể cho các con nghe một mẫu chuyện nào đó về hương vị những cái Tết ở quê mà khi bằng tuổi chúng tôi được hưởng. Hào hứng với câu chuyện, chúng chia nhau nhấm nháp ngon lành những miếng chuối mà chúng nhận ra ''ôi, ngọt như tấm lòng của nội''!./.

vanchuongviet.org

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

ĐẦU NĂM CƯỚI VỢ CHO CON - GỬI THIỆP CƯỚI



Hôm nay hai cha con đi một vòng thành phố gửi thiệp mời.
Nhân đây cũng xin thông báo thân bằng quyến thuộc gần xa TIN VUI trên

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

Thơ Trần Hữu Dũng

Ánh sáng


Ánh sáng chạm khắc chiếc cầu vồng,
khiến mọi người nhảy múa, hoan ca
Nó là bức tranh
Nó là lưỡi gươm tách đôi bóng tối
Người ta vinh danh,
khi ban tặng nó cho tôi.



Thiền định


Trên tảng đá phẳng
Nhà sư ngồi thiền
Chân trần
Và đôi mắt rỗng không
Cánh đồng lúa rạt rào dưới chân
Lúc nầy bóng cây im
Tiếng chuông ngân
Chim hót
Bẩm sinh nơi nhà sư
Cái chết và sự sống
Luân hồi
Nhà sư thiền
Trên núi cao
Cánh đồng lúa
Uốn lượn dưới chân.



Nụ hôn


Em quay lại
Tặng tôi nụ hôn
Biển trào bọt sóng đam mê
Chúng ta trôi dạt
Vào thế giới khác
Nơi ngôi sao nhấp nháy suốt đêm
Đó là phút giây
Gương mặt em bốc cháy
Chìm vào giấc mơ hạnh phúc.

MÙNG BA TẾT

sáng mùng Ba Tết
uống cà phê với con trai
quán 999
đường Phú Thọ Hòa
một ngày bình yên với nắng đẹp

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012

MÙNG MỘT TÊT

đầu năm đi lễ Phật
cầu chúc mọi điều lành
tinh thần an nhiên lạ
mọi vật đều tánh Không

Sáng mùng một, ngày đầu năm mới, thức sớm
Mừng tuổi cha mẹ bằng nén nhang trầm

Cùng vợ và con đi lễ chùa VẠN PHƯỚC, thầy Phước Trí
đó là người bạn học thời trung học
cúi lạy ảnh thờ của cha mẹ ở Nhà Linh

chúc Tết thầy Phước Trí
nhấp miếng mứt gừng cay của Huế

Mùng Một Tết đi Chùa
Vạn sự đều như nhiên



Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

MỪNG XUÂN MỚI


MỪNG XUÂN NHÂM THÌN
KÍNH CHÚC QUÝ THÂN HỮU, ĐỘC GIẢ 
MỘT NĂM MỚI AN KHANG, MỌI SỰ NHƯ Ý


Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2012

Người đàn ông giữa chợ - Huỳnh Như Phương

Vợ đi công tác dài ngày, gần hai năm tròn anh lo việc chợ búa cho gia đình.
          Trước đây, mỗi lần chở vợ đi chợ là một lần được thư giãn: anh tìm quán cà-phê gần cổng, bình thản ngồi đọc báo hay vẩn vơ nhìn kẻ qua người lại. Còn bây giờ thì anh thực sự “tham gia thị trường” rồi!
          Từ khi anh đặt chân vào Sài Gòn, ngôi chợ ở cách nhà chỉ mươi phút đi bộ này đã thành thân thuộc với gia đình anh. Anh ăn gạo muối, thịt cá, rau quả của chợ đã gần 40 năm. Nhưng anh chỉ biết mùi chợ từ xa, chỉ nghe mẹ và vợ kể chuyện giá cả lên xuống ở chợ trong bữa ăn gia đình. Với chợ, anh là một người dưng không duyên nợ, thậm chí còn có phần cảnh giác. Thỉnh thoảng vợ nhờ ra chợ mua món hàng nào đó, anh cẩn thận cầm theo nhãn hiệu, ghi giá tiền và chỉ mang vừa đủ số tiền cần mua.
          Hồi anh còn nhỏ, mẹ bán hàng tạp hoá ngoài chợ Đồng Cát; gần Tết anh ra chợ trông hàng cho mẹ, không lo nhìn hàng mình mà mãi nhìn người ta mua bán, để mất hàng của mẹ, suýt khóc. Mấy người bạn của mẹ có quầy hàng gần đó, thấy thương, mua bánh cho ăn. Lớn lên xa nhà, mỗi năm về quê, anh đều đi vòng quanh chợ, nhưng không dám bước vào. Cậu anh là thầy giáo ở Hà Nội đã nghỉ hưu, về thăm nhà, một hôm ra chợ Đồng Cát ngồi ghế đẩu ăn một lúc mấy cái bánh xèo nóng hổi đúc ngay tại góc chợ. Gia đình biết chuyện, cậu bị phê bình quá xá. Anh để ý, thấy gần cổng chợ này, buổi chiều cũng có quầy đúc bánh xèo thơm phức; ít lâu nữa về hưu anh cũng sẽ ra đó ngồi ăn như cậu, mặc cho người nhà, đồng nghiệp hay học trò cười chê.
          Thú thật, lần đầu tiên cầm tiền đi chợ lo bữa ăn cho gia đình, anh hoang mang quá đỗi. Anh biết mình đang nhận một “sứ mạng” nặng nề liên quan đến sức khoẻ cả nhà. Chao ôi, những người nội trợ bây giờ đích thị là những người bảo vệ sự sống của cả một dân tộc. Biết bao mặt hàng đẹp đẽ bày ra đó tưởng là nguồn dinh dưỡng cho con người mà cũng có thể là nguồn chất độc. Con mắt thường của anh làm sao phân biệt được. Anh bắt đầu “tự bồi dưỡng” kiến thức cho mình bằng cách tìm đọc những bài báo viết về tiêu dùng, về an toàn vệ sinh thực phẩm mà lâu nay anh chẳng thèm ngó ngàng đến. Anh rùng mình khi lên mạng thấy cảnh người ta tái chế chân gà ung thối đem bán cho dân mình.
          Nếu có giải thưởng dành cho những người sốt sắng thực hiện chủ trương “người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”, có lẽ anh là một trong những khách hàng đầu tiên nhận giải. Có gì đâu, thịt gà thì anh mua gà vườn, trái cây thì mua trái cây miệt đồng bằng, rau quả thì mua rau quả Đà Lạt…Anh tránh xa những món gì có xuất xứ “lạ”. Nhưng nói thật, để trở thành người đàn ông đi chợ thành thạo như hôm nay, anh đã mấy lần trả học phí. Anh từng mua trứng gà “lạ” mà tưởng trứng gà ta, nho “lạ” mà tưởng nho Ninh Thuận, đến khi về nhà mới hay mình bị lừa. Mấy quầy hàng chơi xấu đó, đừng hòng anh quay trở lại.
         Sự căng thẳng trong những lần đầu đi chợ rồi cũng giảm xuống dần, thậm chí, khi đã “có nghề”, anh còn cảm thấy niềm vui mua sắm. Nhìn bốn phía chung quanh, đâu phải chỉ mình anh là đàn ông đi chợ. Còn có những ông già về hưu, những viên chức bậc trung. Chợ này dễ chịu nhờ ít nói thách, nhưng khó chịu vì lấn chiếm lề đường quá đỗi. Có lỗi của những khách hàng bận rộn như anh. Những sáng có giờ dạy sớm, anh chỉ kịp rảo một vòng qua những quầy hàng ngoài đường, thế là góp phần cho những chiếc xe máy dồn ứ lại trên con đường trước cổng chợ vốn đã chật chội.
         Hai ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh mới gửi xe vào trong bãi, thong thả dạo chợ, ngắm nghía và cân nhắc. Phía sau chợ có mấy bà mấy chị bán cá rô, cá lóc ngon và rẻ. Hai năm nay anh đã thành khách quen của họ. Có một cô nước da bánh mật, mắt sáng, ngồi bán cá cùng chồng. Vợ làm cá, đánh vẩy, chồng cân cá, thu tiền. Hình dung chiều về, vợ chồng rửa tay sạch sẽ, ngồi đếm tiền lời, nấu nồi cơm nóng ăn với cá kho từ chỗ bán còn thừa, thấy cuộc đời dung dị mà hạnh phúc biết bao nhiêu. Vậy mà vài hôm sau, ngay trước mắt anh, vợ chồng họ bị mấy anh trật tự viên rượt đuổi, giật đổ cả thúng cá, phải  chạy dạt đi chỗ khác, vì tội không bán trong quầy đúng nơi quy định.
         Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã đổ cho mình có được bữa ăn, đời mình sao không biết ơn đời chợ. Những xã hội không có chợ là những xã hội lạc hậu nhất. Chợ là văn minh, nhưng chợ cũng có thể là nơi dối gian, lừa đảo. Khi mình là nạn nhân của chợ, thì mình cũng là nạn nhân của chính con người. Nhưng anh còn tin vào chợ, nghĩa là vẫn tin vào con người. Đi chợ, chuẩn mực và thước đo để anh chọn hàng không chỉ là nhãn hiệu sản phẩm mà còn là gương mặt, giọng nói, nụ cười của người bán hàng. Anh chọn mặt người để chọn mặt hàng. Anh mua hàng và mua cả lòng tin vào con người.
         Một cái Tết nữa sắp đến. Hàng hoá, thực phẩm lại bày bán ê hề giữa chợ. Năm nay anh đã biết cách chọn hàng, anh sẽ sắm sửa để nhà mình ăn một cái Tết giản dị, bình an với thịt cá, rau quả của dân mình làm ra. Mình sẽ làm mâm cỗ cúng Tổ tiên với những món ăn truyền thống, vì ông bà mình không quen với thực phẩm “lạ” đâu nghe em.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Trích lại từ http://www.viet-studies.info

Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

Về quê khi chưa nuối tiếc

(TT&VH) - Giữa năm 2011, GS.TS.nhà phê bình văn học Huỳnh Như Phương tặng tôi cuốn tạp văn Bây giờ mà có về quê… (NXB Phụ nữ). Đọc chầm chậm cuốn sách, tôi vừa muốn giới thiệu ngay với độc giả TT&VH vừa muốn để dành. Lý do muốn để dành vì cuốn tạp văn này chở nặng không khí cuối năm, khi người tha hương đều nhớ nhà và muốn về quê ăn Tết.
Bây giờ mà có về quê… gần như được tuyển từ những tạp văn ông viết nhiều năm trên các báo Tết gộp thành.
Đa phần những bài tạp văn in trên báo Tết, đều nói về nỗi nhớ nhà, sum họp bên người thân đã là vui như… Tết. Có những nỗi nhớ hiện hình như một “kế hoạch” thực thi được. Nỗi nhớ nằm trong tầm tay dạng này khiến các bến xe, nhà gia, sân bay chật ních những người là người về quê ăn Tết. Lại có những nỗi nhớ thật xa vời, như một hoài niệm. Các bài viết trong Bây giờ mà có về quê… như những hoài niệm.
Với GS Huỳnh Như Phương, nỗi nhớ ấy là ngày ông nội dẫn hai người con trai đi biền biệt không về để lại những người đàn bà tháng ngày mong ngóng. Tản văn Ống giã trầu của nội không miêu tả khói lửa chiến tranh, nhưng hiện đằng sau con chữ là xiết bao khốc liệt của một thời khi cậu trai Huỳnh Như Phương lớn lên thiếu vắng hơi ấm của cha ông mình.
Đọc Bây giờ mà có về quê… giống như ngắm nhìn hồi ức đẹp và buồn được vẽ từng nét chậm bởi Huỳnh Như Phương. Những ai từng lớn lên ở quê sẽ xốn xang trong lòng khi chia sẻ cùng tác giả về một góc vườn nhà ngoại, nơi có giếng nước mát lành giờ thuộc về người khác. Tản văn Giếng mát trong vườn nhà ngoại vẫn còn đó, nhưng còn trong ký ức tươi tắm một nỗi niềm.
Có thể nói, GS Huỳnh Như Phương viết tản văn về những sự đã mất, nuối tiếc khôn nguôi. Sự nuối tiếc này lây sang người đọc, vì đa phần người tha hương ở các đô thị hiện giờ cũng đang để mất những gì mà lẽ ra họ “nắm gọn trong tay”. Vì sao thế? Vì mưu sinh, danh lợi hay vì điều gì khác mà năm nào, mỗi dịp Tết đến ở hai đầu Hà Nội và Sài Gòn người ta lại chen chúc nhau về quê như thể đang… chạy loạn.
Chen nhau về Tết dù gì cũng còn lắm điều hay khi còn người xưa, cảnh cũ đợi mình. Nhưng nhiều người về Tết thế này mới buồn, càng về càng buồn, như bài thơ của nhà giáo Dương Hội trả lời thư một người em trong tản văn dùng đặt tên cho cuốn sách: Bây giờ mà có về quê/ Cũng như Lưu Nguyễn xưa về trần gian/ Vườn xưa nhà cũ hoang tàn/ Phôi pha kỷ niệm, ngỡ ngàng bước chân/ Đâu còn bóng mẹ ngoài sân/ Chờ con về Tết mỗi lần Xuân sang. Không để những nuối tiếc phải đeo theo người, Tết này tôi nhất định về quê sớm để nhìn thấy “bóng mẹ ngoài sân” sau bao ngày xa cách.
Trần Hoàng Nhân

Nguồn:  http://thethaovanhoa.vn

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Đặng Tiến : Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương

Tưởng niệm chị Thục Oanh


 
Xuân đã đem mong nhớ trở về
 
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.

 
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
 
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:
 
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang ?
 
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự
 
Xuân có sang mà hoa không tươi
Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chứ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
 
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :
 
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
 
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
 
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
 
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
 
Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
 
Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:
 
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
 
... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở Ái Ân

Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.

* * *

Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.

Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :

Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
(...)
Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền


Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:

Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề


Theo Chế Lan Viên, chữ " Về" là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "[1]

Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :

Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về

Nguyện Cầu, 1950

Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều


Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ...," Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy .

Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao


Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung


Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục


Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :

Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc


Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :

Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái
 
Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ ?


Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...

Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền


Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề


Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :

Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...

(Huế Cảm)

Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm

(Mở Bút ghi Điềm)

Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?

(Hạnh phúc nào hơn)

Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

Kỷ Dậu hồi thanh

Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên


Ông tự dịch :

Tiếng vang lịch sử

Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên


Đặng Tiến dịch ké :

Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa


Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng


Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài "Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :

Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn


Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang

(Đông Hồ)

" Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ.

Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :
 
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây
Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi


Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn

(Xuân Đối Diện)

Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy

(Nhâm Tý khai bút)

Tác giả tự dịch ra Hán Văn :

Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên


Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :

Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu

Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm


Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày
Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa

 
(dẫn trọn bài)

Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :

Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây


Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi.

Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mâysay nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.

Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)

Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.

Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :

Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý vũ Từ


Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai[2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).

 
* * *

Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

Vịnh tranh Gà Lợn

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh


Bà Vũ ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh ằ ngụ ý ô đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, ngày 14-3, giam ở Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.

* * *

Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.

Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.

Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :

Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.

Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.

Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.


Đặng Tiến
Paris, Tết dương lịch, 1-1-2001
Bổ sung 15-1-2007
 
________________________________________

[1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội
[2] Bà Vũ Hoàng Chương ( 1919- 2005 ) – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân :
 
Cao sâu từng nhập bóng cây già,
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.

Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu :

Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
Một chị một em tình xót xa
 
Paris, 15/8/1999
(những chữ in nghiêng là tên tác phẩm Vũ Hoàng Chương)

Nguồn : http://art2all.net

Cao Huy Khanh VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 – 2012: NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 99 – 9.1.2012

991 - Nguyễn Hiên Dỹ
“TRẠM ÔNG DỸ”
Cán bộ y tế sinh tại Hải Dương. Sống ở Hải Dương (2007).
Bộ đội cụt một chân trên chiến trường miền Nam.
Sau chiến tranh, là thương binh 61% trở về quê nhà làm ruộng.
Lấy vợ một cô thôn nữ trong làng, bấy giờ thấy mình tàn tật làm nông không nuôi nổi vợ con nên xin đi học làm cán bộ y tế cơ sở. Ra trường được đưa về làm ở trạm y tế xã Tân Hưng cùng quê.
Làm việc rất tích cực vừa làm tốt công tác lại còn kiêm luôn nhiệm vụ “xe đạp ôm… một chân” chở bà con đi cấp cứu! Từ đó năm 1990 được cử làm trạm trưởng.
Ngày đêm ra sức xây dựng nơi đây thành trạm y tế xã được mọi người tin cậy, tiếng thơm “Trạm ông Dỹ” lan ra toàn huyện, lên tới tỉnh. Năm 2004 được công nhận trạm y tế chuẩn quốc gia, mỗi năm tiếp nhận săn sóc cho khoảng 16.000 bệnh nhân ở địa phương.
Giữa năm 2005 trên đường đi công tác gặp tai nạn xe máy… gãy nốt chân còn lại! May mà chưa gãy lìa nên nằm viện 3 tháng xong lại chống gậy đi tập tễnh đến “Trạm ông Dỹ”.  

992 - Nguyễn Tấn Bình
2 LẦN MÙ MẮT
Lao động nghèo sinh 1968 tại Đà Nẵng. Sống ở Đà Nẵng (2011).
Năm 14 tuổi cuốc đất trồng cây trúng mìn nổ làm mùa mắt phải, may mà mắt trái còn thấy được lờ mờ.
Hòa bình rồi, mắt trái ngày càng giảm thị lực nên đi bệnh viện mổ hy vọng đỡ hơn nào ngờ mổ xong… mù luôn! Hai mắt mù qua 2 thời chiến tranh và hòa bình, cái giá quá cay đắng.
Dù vậy vẫn gắng gượng đứng dậy chống gậy mà sống, xin vào học ở trung tâm hướng nghiệp của Hội Người mù tỉnh tìm nghề sinh sống tạm bợ. Tại đây gặp một cô gái đồng cảnh ngộ mù mắt bẩm sinh đem lòng yêu thương tình nguyện “dẫn đường cho cả đời” nhờ “kinh nghiệm” được nhìn thấy đường đi nước bước cuộc đời thế nào trước khi mất hết ánh sáng đôi mắt.
Vợ chồng ra nghề làm tăm tre rồi vay vốn sắm chiếc xe đẩy đi bán tăm kèm hàng gia dụng khắp nơi, vợ kéo xe phía trước còn chồng gồng mình đẩy xe phía sau.
Rồi cũng sinh được một con mắt sáng bình thường làm nguồn an ủi làm động lực để làm ăn bươn chải mà tồn tại với hy vọng vươn lên qua khỏi cảnh đời tối tăm tủi phận.

993 - Nguyễn Thị Tự 
GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG BỊ TỐ NGỤY QUÂN NGỤY QUYỀN
Lao động sinh 1932 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2010).
Cha mẹ hoạt động cộng sản từ rất sớm thời Nam Bộ kháng chiến, nhà ở Hóc Môn từng được dùng làm địa điểm họp đảng bí mật của cán bộ lãnh đạo cao cấp Võ Văn Tần, Lê Duẩn... Bản thân từng được Nguyễn Thị Minh Khai xem như cháu đặt tên theo tên mình là Minh Tự, có lần còn bị bắt chung với mẹ phải vào ở tù cùng mẹ luôn. 
Sau đó cha bị địch bắt mất tích, mẹ cũng bị bắt chịu tra tấn sinh bệnh mất sớm. Từ đó mất liên lạc với cộng sản.
Lớn lên đi dạy học rồi lấy chồng cùng nghề. Rồi chồng bị bắt lính ra sĩ quan do xuất thân nghề giáo nên được chuyển về dạy trường Võ bị Đà Lạt chuyên đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho chế độ Sài Gòn. Nhưng chỉ được một thời gian thì chồng tử nạn máy bay để lại vợ và 6 con nhỏ dại.
Sau 30.4.75 tiếp tục dạy học nhưng chưa xác minh được quá trình cha mẹ từng tham gia cách mạng nên khi dám lên tiếng đấu tranh chống tiêu cực ở trường liền bị chụp mũ đơn giản là thuộc thành phần gia đình ngụy quân ngụy quyền phản động. Thế là bị cách chức hiệu trưởng, hạ tầng công tác xuống làm nhân viên thư viện, giám thị và cuối cùng… cho nghỉ việc luôn!
Đành chấp nhận đi bán vé số, bán chè, nuôi heo để lo cho cả đàn con, không oán trách than thở bởi nhớ đến tấm gương hy sinh của cha mẹ mà chẳng nhận được đền bù gì: “Cho dù cả thế hệ tôi khi mất đi mà giấc mơ của má vẫn chưa thành hiện thực thì niềm tin hướng về một cuộc sống tốt đẹp vẫn là điều phải phấn đấu…”

994 - Nguyễn Thị Vân Toàn
THƯƠNG BINH THỜI CHIẾN, TAI NẠN THỜI BÌNH
Nông dân sinh tại 1954 Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2008).
Mới 14 tuổi đã làm giao liên cho cộng sản. Chỉ một thời gian ngắn bị thương bị bắt phải cưa cụt cánh tay phải. Đến 1973 mới được trao trả tù binh sau 5 năm tù đày.
Được được ra Thanh Hóa nghỉ dưỡng thương. Tại đây gặp và kết hôn với một cựu tù Phú Quốc.
Sau ngày hòa bình, 2 vợ chồng về quê Quảng Trị làm ruộng sinh sống, sinh được  4con. Bản thân mỗi ngày gửi con cho bà ngoại rồi còn một cánh tay vẫn đạp xe hàng chục cây số ra chợ Đông Hà bán rau quả, tối về nhà nuôi heo chẳt bóp từng đồng nuôi con. 
Năm 2003 cả 2 vợ chồng được cho theo đoàn cựu tù đi một chuyến ra Bắc tham quan đây đó không ngờ trên đường đi xe đò bị tàu hỏa đâm lăn xuống ruộng làm chết 13 người. May mà 2 vợ chồng sống sót nhưng chồng bị thương nặng 81%, phần mình may chỉ bị chấn thương mặt và vai. Chồng phải nằm viện điều trị chấn thương sọ não, phẫu thuật cắt lá lách và gan.
Ra viện chồng nằm liệt gần 2 năm, một mình vợ phải vừa lo săn sóc chồng vừa chạy vạy tứ tung kiếm tiền nuôi con tránh cảnh phải bỏ học.
Vậy mà cả 4 con đều ăn học đàng hoàng, 3 con đầu đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng ra đi làm, con gái út sắp tốt nghiệp phổ thông: “Con chính là liều thuốc tinh thần hiệu nghiệm nhất giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.”

995 - Nguyễn Thu Vân
NỮ VÕ SƯ SỐ 1
Cán bộ về hưu sinh 1945 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2011).
Được bố dạy tập võ từ năm 13 tuổi. Năm 1959 vào học trường ca kịch dân tộc Hà Nội gặp được sư phụ Tám Danh (Nguyễn Phương Danh) dạy thêm cả nghề võ lẫn cải lương.
Ra trường về đoàn Cải lương Nam Bộ làm diễn viên, lấy chồng bộ đội đặc công.
Sau 1975 ở lại TPHCM tiếp tục hoạt động trong cả 2 lĩnh vực võ thuật và sân khấu. Thụ giáo thêm với nhiều thầy võ VN tên tuổi khác, từ đó tổng hợp tinh hoa các phái võ dân tộc 3 miền thành phái võ riêng mình gọi là “Thu Vân quốc tế võ đạo”.
Đồng thời bắt đầu nghiên cứu kết hợp đưa võ thuật vào nghệ thuật sân khấu thông qua vũ đạo gọi là “Võ nghệ thuật” dạy  ở trường Nghệ thuật Sân khấu. Còn mở lớp dạy võ thuật riêng, vừa biểu diễn vừa viết sách phổ biến võ thuật, tham gia lập CLB Cascadeur (diễn viên đóng thế những pha nguy hiểm trong phim) đóng phim.
Năm 1988 được Liên đoàn Võ cổ truyền VN phong là nữ võ sư duy nhất đạt bạch đai 18/18. Từ năm 1992 được nhiều lần mời qua Pháp biểu diễn và huấn luyện võ cổ truyền VN.
Năm 2005 được phát hiện ung thư vú phải nằm viện điều trị, vừa đỡ đôi chút liền lên đường đi dạy võ trở lại thì gặp tai nạn xe máy chấn thương sọ não vào viện tiếp. Vậy nhưng vẫn không từ bỏ các hoạt động võ thuật – sân khấu, vẫn gắng gượng đi dạy võ miễn phí cho trẻ em khuyết tật, soạn sách võ học…
Bản thân bệnh tật mà chồng và con trai đầu cũng mắc bệnh kinh niên nên phải bán nhà, vay nợ để vừa lo gia đình vừa có tiền in sách, lập cả trang web về võ thuật nhằm mục đích phổ biến rộng rãi.
Tất cả nhằm “trả ơn đời” với ước nguyện xây dựng môn võ cổ truyền VN thành “quốc võ” xứng đáng được đưa vào dạy ở trường học giúp hun đúc thêm tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ. 

996 - Nguyễn Tiến Văn
ĐEM GIA TÀI SÁCH CHO NHÀ NƯỚC
Dịch giả Việt kiều Canada sinh 1940 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2011).
Người trong nuớc hiến sách cho Nhà nước cũng có nhưng nhiều nhất chỉ khoảng 10.000 cuốn, còn đây là Việt kiều từng vượt biên bây giờ lại mang sách mua từ nước ngoài về tặng cho thư viện Nhà nuớc đến 18.200 cuốn sách  chất đầy trong một kho rộng 46m2.
Bản thân là dân mê sách từ hồi 15 tuổi. Lớn lên tuy không tốt nghiệp đại học song cũng từng cùng bạn bè mở một nhà xuất bản tư nhân chuyên in sách dịch ở Sài Gòn trước 1975.
Năm 1985 cùng gia đình xuất cảnh qua Canada để lại 6.000 cuốn sách cho bạn bè. Rồi đến xứ người lại tiếp tục đam mê sách, không đi làm mà chỉ ở nhà đọc sách và chăm lo tủ  sách bắt đầu gầy dựng lại. Tiếp tục mua sách nhờ vợ (cô giáo dạy văn) chi tiền, nhắm mua các dịp sách giảm giá đủ loại để mua được nhiều, từ đó gầy dựng lại được cả một kho sách đồ sộ.
Không chỉ mua sách ngoại mà cả sách Việt bán ở nước ngoài nữa vì vẫn nặng lòng với nền văn hóa dân tộc. Vì vậy từng ra tờ nguyệt san “Trăm con” chuyên đề về văn hóa dân tộc VN tồn tại được 3 năm từ 1994 – 1996.
Cũng với niềm hoài hương văn hóa đó mà năm 2007 bất ngờ đóng thùng container một phần gia tài sách của mình (nặng tổng cộng 7,5 tấn) gửi tàu biển về TPHCM đem tặng cho thư viện Viện Khoa học Xã hội – Nhân văn TPHCM. Toàn bộ sách trị giá trên 500.000 USD đa số bằng tiếng Anh chủ yếu về mảng đề tài khoa học xã hội và nhân văn (thể loại từ điển hơn 1.000 cuốn trong đó có bộ từ điển bách khoa quý “Encyclopaedia Britannica” 32 tập khổ lớn tổng cộng dày 32.000 trang trị giá 2.000 USD).
Sau đó ở lại luôn TPHCM, thuê căn nhà nhỏ trong hẻm làm nơi tá túc, sống đạm bạc như một “ông đạo” râu dài tóc dài chỉ lo công việc nghiên cứu văn hóa VN và dịch thuật (đã dịch tập thơ Trang Thế Hy ra tiếng Anh).
Vợ con về yêu cầu qua lại Canada ở với gia đình nhưng từ chối tuy ở bên đó còn lưu giữ khoảng 20.000 cuốn sách ngoại cùng 15.000 cuốn sách Việt: “Tôi đã làm xong trách nhiệm của tôi với gia đình, bây giờ tôi phải được sống cho chính tôi.” Cũng còn lý do “Ở hải ngoại tôi thấy mình rất cô đơn vì không tìm được những người cùng ý hướng mà lại còn bị ngộ nhận nữa.”

997 - Nguyễn Trung
KHÔNG BAO GIỜ BỎ ĐI NÊN KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI
Họa sĩ sinh 1940 tại Sóc Trăng. Sống ở TPHCM (2011).
Được xem là một thiên tài vẽ tranh sơn dầu đầy tính sáng tạo tinh tế giàu chất suy tưởng song cũng rất ngang bướng kiểu “không giống ai” (nên trước đây từng bị đuổi học trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định!).
Trước 1975 là chủ tịch Hội Họa sĩ Trẻ Sài Gòn gây một không khí sáng tạo hội họa mới, đoạt nhiều giải thưởng. Đã có tác phẩm vẽ cuộc thảm sát Mỹ Lai do quân đội Mỹ gây nên năm 1968.
Đến 30.4.1975 không theo nhà vợ (gốc Bắc có người thân bị cộng sản sát hại) đi di tản, sau đó bạn bè tổ chức vượt biên cho đi ké vẫn từ chối vì: “Thời thế không ăn nhậu gì đến tao. Tao khoái cởi trần đi ra đi vô ở Sài Gòn, khổ cực mấy cũng chịu!”.
Năm 1989 được cho đi Pháp ngao du một chuyến rồi cũng về thôi.
Tiếp tục vẽ tuy làm việc âm thầm ít xuất hiện, giữ vững uy tín trở thành một trong những họa sĩ lớn thời hậu chiến cả 2 miền. Vì vậy hiếm khi có triển lãm mới được ca ngợi là một cuộc “trở lại”, lập tức đốp chát ngay “Tôi có bao giờ bỏ đi đâu mà nói rằng trở lại?”
Đúng vậy, không hề bỏ đi đâu hết cả nghiệp vẽ lẫn quê hương.

998 - Nguyễn Trường Cư
THỢ HỚT TÓC 1 TAY
Lao động nghèo sinh 1948 tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2010).
Bố làm nghề hớt tóc nên năm 16 tuổi cũng theo nghề bố hớt tóc vỉa hè.
Năm 1965 từ giã nghề hớt tóc để nhập ngũ làm bộ đội bảo vệ TP Vinh chống máy bay Mỹ ném bom. Năm 1969 không may trúng bom Mỹ phải giải phẫu cưa mất tay trái lên sát vai. Sau một năm nằm viện được cho về.
Trở về là thương binh không muốn trở thành gánh nặng cho gia đình nên mới tìm cách rèn lại tay nghề hớt tóc cũ để kiếm sống. Nhưng còn 1 tay nên hớt tóc không phải dễ, chạy tông-đơ xén tóc thì được chứ màn cạo râu cho khách thật gian nan khó khăn biết bao, thậm chí còn nguy hiểm nữa lỡ… cắt đứt da mặt người ta!
Nhờ quyết tâm cao, lại có sẵn kinh nghiệm cũ nên dần dần tập luyện bền bỉ cũng làm được. Lại đông khách nữa một phần vì mọi người tò mò rồi ủng hộ giúp đỡ thương binh, phần khác tay nghề ngày càng điêu luyện cộng thêm tính tình hài hước vui vẻ gầy chuyện thú vị với khách ngồi cắt tóc. Tới mức có lúc bị thợ hớt tóc khác ganh ghét đòi kiện tội phá giá cạnh tranh bất hợp pháp!
Chẳng những nuôi được 5 con trưởng thành mà trong đó 4 con trai cũng kế thừa… mở tiệm hớt tóc bây giờ còn ngon lành hơn cả bố!

999 - Nguyễn Tử Dương
“CHIẾN SĨ BARIE”
Lao động nghèo sinh tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2008).
Nhập ngũ năm 1974 vào Nam chiến đấu ở Tây Nguyên, đến sau 1975 còn được điều lên bảo vệ biên giới Tây Nam chống quân Pol Pot.
Năm 1981 xuất ngũ thương binh về quê. Lập gia đình, chồng làm nông vợ buôn bán nhỏ, dựng căn nhà nhỏ gần Quốc lộ 1 nằm cạnh tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua.
Vì nhà nằm sát tuyến đường sắt ở điểm không có trạm gác tàu nên tận mắt chứng kiến nhiều tai nạn thương tâm xảy ra cho bà con trong vùng do bất cẩn băng ngang đường tàu bị tàu đâm chết thê thảm. Rất bứt xúc song không biết làm cách nào giúp ngăn ngừa tai nạn trong khi cả địa phương lẫn ngành đường sắt hầu như không quan tâm.
Cuối cùng sau nhiều đêm trăn trở mất ngủ mới nghĩ ra một ý táo bạo: Chính mình tình nguyện đứng ra làm người “gác cổng” đường sắt – trong ngành gọi là gác “barie” tức gác rào chắn  theo tiếng Pháp – để báo hiệu mỗi khi tàu sắp chạy qua đoạn này.
Thế là thuyết phục vợ bằng lòng cho mình làm chuyện “vác tù và” không lương như vậy bằng cách ra ngay điểm hay xảy ra tai nạn dựng một căn lều tạm bợ cách đường ray 20m để ứng trực tại đó suốt ngày đêm chờ hễ tàu sắp tới là cầm cờ hiệu chạy ra đứng bên cạnh đường ray làm dấu báo cho khách qua đường biết mà tránh. 
Hiệu quả thấy rõ tức thì không còn tai nạn tàu lửa xảy ra nơi đây nữa.
Cứ thế làm việc không công không quản nắng mưa vất vả đối với một thương binh bởi “So với gian khổ thời chiến tranh ngày trước có đáng gì?”.

1000 - Nguyễn Văn Bé
ÔNG “BA ĐẤT PHÈN”
Dược sĩ sinh 1949 tại Bến Tre. Sống ở Long An (2011).
Gốc nông dân nghèo rớt mồng tơi phải đi chăn trâu và ở đợ. Năm 16 tuổi vào mật khu Đồng Tháp Mười theo cộng sản đánh Mỹ, nhiều năm lăn lộn ở vùng Mộc Hóa – Long An. Trong thời gian này học được nghề thuốc Nam chữa bệnh cho đồng đội, dân chiến khu.
Sau 1975 được cho đi học ngành dược ĐH Y TPHCM. Tốt nghiệp ra dạy ĐH Dược TPHCM, lấy vợ sinh con sống thoải mái.
Bỗng nhiên vào khoảng năm 1982 bỏ tất cả sự nghiệp, gia đình một thân một mình quay về vùng chiến khu Mộc Hóa ngày xưa tổ chức… khai hoang, lập cơ sở làm thuốc Nam! Tất cả một phần vì lòng hoài niệm “hổ nhớ rừng” đối với vùng đất chiến đấu gắn bó ngày xưa, phần khác do kinh nghiệm, kiến thức về ngành dược thấy nơi vùng đất phèn chua ngập mặn này có vô số thảo dược quý có thể lấy làm nguyên liệu sản xuất dược phẩm vừa rẻ tiền mà lại hiệu nghiệm.
Từ đó ngày đêm huy động nguồn lực - nhân công nghèo thất ngiệp ở địa phương có công ăn việc làm, vốn liếng vay mượn thân nhân, bạn bè, đồng đội cũ… - để tiến hành khai khẩn cả ngàn hecta, chiều dài cả trăm cây số đất bỏ hoang lâu nay ngay trung tâm Đồng Tháp Mười. Biến nơi đây thành Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn – phát triển dược liệu Đồng Tháp Mười.
Tại đây vừa khai thác các loại dược liệu phong phú như cây tràm, cây tỏi, cây nhàu, củ gừng, hà thủ ô, các loại rau (vườn rau vào hàng lớn nhất nước)… chiết xuất thành sản phẩm thuốc chữa bá bệnh. Trồng thêm cả các loại thảo dược nước ngoài đem về để nghiên cứu rồi đưa vào dây chuyền sản xuất. Có cả phòng thí nghiệm, mạng Internet hiện đại.
Bên cạnh đó còn xây dựng trường học, trạm y tế, nhà ở cho cả hơn 400 hộ gia đình làm việc cho trung tâm. Dự định còn xây cả khách sạn để mời khách quốc tế đến “du lịch sinh thái chữa bệnh” tại chỗ.
Dù đã trở thành “đại gia” (doanh thu công ty đã lên tới trên 6 tỉ đồng/năm) song vẫn sống đời bình dị ham đi chân đất đội mũ vải bèo nhèo, tính tình phóng khoáng bộc trực chêm tật hài hước nên được bà con  phong tặng cho biệt danh ông “Ba đất phèn” (từ tên gọi Nam Bộ dành cho con trai thứ hai trong gia đình).
Vợ con vẫn ở TPHCM lâu lâu mới lên thăm, có khi còn đem đứa con trai ham chơi bỏ học xuống bắt “cải tạo lao động” 2 năm biết hối lỗi rồi mới trả về cho vợ nuôi đi học! Còn bản thân mình thì đã thề “Về hưu hay chết thì cũng ở vùng này thôi”!
     (Còn tiếp)

http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hosohauchienky99

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

VIỆC GÌ LÀM RỒI LÀ XONG

Thiền sư Ajahn Brahm
 
Mùa mưa ở Thái Lan là từ tháng 7 cho đến tháng 10. Trong thời gian này, các vị tu sĩ ngừng đi du phương, gác qua mọi việc để chuyên chú vào việc học tập và hành thiền. Quãng thời gian ấy được gọi là Vassa, An cư mùa mưa.
Cách đây một vài năm ở miền Nam Thái Lan, một vị viện chủ đang xây dựng một ngôi điện mới trong tu viện ở trong rừng. Khi mùa An cư đến ngài ngưng công trình và cho thợ thuyền nghỉ việc. Đây là lúc để tu viện có được sự yên tĩnh.
Vài hôm sau có một vị khách đến nhìn thấy ngôi điện đang xây dựng dang dở, ông ta hỏi thầy viện chủ khi nào ngôi điện mới xong. Vị sư già đáp: “Xong rồi.”
Vị khách ngạc nhiên hỏi, “Thưa thầy, thầy nói thế nghĩa là sao? Ngôi điện chưa có mái. Cũng chưa có cửa lớn, cửa sổ gì cả. Gỗ và xi măng còn để ngổn ngang. Thầy định để như vậy luôn hay sao? Vì sao thầy nói là đã xong?”
Vị sư già mỉm cười và đáp một cách từ tốn, “Việc gì làm rồi là xong,” và cáo từ vị khách để đi ngồi thiền.
Đó là cách duy nhất để có được mùa an cư hay mùa yên tĩnh. Còn không thì công việc của chúng ta không bao giờ xong.

Kẻ ngốc làm sao có được tâm bình yên 
Một hôm, vào tối thứ sáu tôi kể câu chuyện trên cho một số thính giả ở Perth. Ngày chủ nhật kế có một vị phụ huynh đến tìm tôi với thái độ giận dữ. Trước đó vị khách này có đi nghe giảng cùng với đứa con trai. Chiều hôm qua thứ bảy, đứa con muốn đi chơi với bạn. Người cha hỏi, “Con đã làm xong bài tập ở nhà chưa?” Đứa con trai đáp, “Tối hôm qua ở tu viện thầy Brahm dạy chúng ta là việc nào làm rồi là xong. Con đi nghe ba!”
Tuần sau tôi lại kể một câu chuyện khác.
Hầu hết mọi người ở Úc đều có một khu vườn, nhưng chỉ một ít người biết làm sao có được sự yên tĩnh trong khu vườn của mình. Vì thế cho nên tôi khuyến khích những người có vườn  nuôi dưỡng vẻ đẹp của nó bằng cách chăm sóc nó đôi chút và nuôi dưỡng tâm trí mình bằng cách ngồi thật yên trong vườn, thưởng thức quà tặng của thiên nhiên.
Người làm vườn thứ nhất nghĩ rằng đây là một ý tưởng hay. Thế rồi anh ta quyết định làm một ít việc lặt vặt trước rồi nghỉ ngơi sau. Vì thật ra thì bãi cỏ cũng cần phải cắt, hoa cần phải tưới nước, lá cần được cào cho sạch, các bụi cây cần phải tỉa, rồi thì lối đi cần phải quét. . . Dĩ nhiên những việc gọi là lặt vặt này chiếm hết thời gian rảnh rỗi của vị này mà công việc cũng chưa xong. Vì vậy vị này chẳng bao giờ có được một phút giây bình yên nào (Quí vị có để ý rằng trong nền văn hóa phương tây, người được “yên nghỉ” [rest in peace] chỉ có ở nghĩa trang?)
Người làm vườn thứ hai nghĩ rằng mình phải thông minh hơn người thứ nhất. Anh ta dẹp bỏ tất cả các thứ cào cuốc, bình tưới, và ngồi trong vườn duỗi chân ra và lấy báo đọc – có lẽ đó là tờ báo có hình ảnh thiên nhiên rất đẹp. Nhưng mà đó là thưởng thức tờ báo, chứ không phải thưởng thức sự yên tĩnh trong khu vườn.
Người làm vườn thứ ba dẹp bỏ tất cả đồ nghề làm vườn, mọi thứ báo chí, sách vở, radio và ngồi xuống trong không khí yên tĩnh của khu vườn – trong khoảng hai giây! Rồi anh ta bắt đầu nghĩ: “ A, cần phải cắt cỏ đây. Mấy cái bụi kia phải xén bớt. Còn mấy cây hoa kia nếu không tưới thì sẽ héo mất. Cái góc kia mà trồng một cây hoa ngọc anh thì chắc là đẹp lắm. Ừ, đằng trước cây hoa phải có một cái lỗ cho chim tắm nữa. Cây ngọc anh có thể xin ở vườn ươm . . .” Đó là thưởng thức việc suy nghĩ và lập kế hoạch. Và cũng chẳng có sự bình yên trong tâm trí.
Còn người làm vườn thứ tư thì suy nghĩ, “ Mình làm việc đã khá nhiều rồi, bây giờ đến lúc thưởng thức hoa trái mà mình đã bỏ sức vun trồng, lắng lòng để được bình yên đôi chút. Ừ, phải cắt cỏ, cào lá, cũng còn nhiều việc, nhưng mà thôi, gác qua một bên cái đã.” Bằng cách này chúng ta có được thời gian thưởng thức khu vườn mặc dù nó chưa phải là hoàn hảo.
Người làm vườn khôn ngoan thưởng thức mười lăm phút yên tĩnh trong sự bất toàn tuyệt diệu của thiên nhiên, không nghĩ suy, không lập kế hoạch, không cảm thấy tội lỗi. Tất cả chúng ta đều xứng đáng được thoát ra khỏi sự náo động và nghỉ ngơi, còn một số người khác cũng xứng đáng được nghỉ ngơi khi không có chúng ta quanh quẩn bên cạnh họ. Rồi sau khi có được mười lăm phút thảnh thơi quí giá chúng ta sẽ tiếp tục các nghĩa vụ khác trong khu vườn.
Khi chúng ta đã hiểu được làm thế nào để tìm sự bình yên trong khu vườn của mình chúng ta sẽ biết cách tìm được sự bình yên bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu. Nhất là chúng ta sẽ biết cách tìm được sự bình yên trong khu vườn tâm của chúng ta, mặc dầu đôi khi chúng ta thấy nó là một mớ hỗn độn, và có rất nhiều việc cần phải làm.

Trần Ngọc Bảo
dịch từ Who Ordered This Truckload of Dung? của Thiền sư Ajahn Brahm

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

Cao Huy Khanh VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 – 2012: NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Kỳ 98 – 2.1.2012





981 - Lưu Thị Tính
“NHÀ NGƯỜI ĐIÊN”
Lao động nghèo sinh 1948 tại Thanh Hóa. Sống ở Hà Nội (2011).
Năm 18 tuổi tình nguyện đi thanh niên xung phong vào Quảng Trị phục vụ tiền tuyến.
     Năm 1969 trúng đạn bị thương nên sau khi điều trị được chuyển về vào đội bảo vệ nhà máy trong tỉnh.
Năm 1972 nhà máy bị bom Mỹ đánh trúng, bản thân lại dính bom bị chấn thương đầu làm tổn thương não. Vì vậy qua năm 1973 được cho về trong tình trạng đau ốm kéo dài, thần kinh không ổn định hay bị rối loạn tâm thần gây hoang tưởng.
Dù thế vẫn lấy chồng làm công nhân cơ khí ở Hà Nội, vợ làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày.
Đã vậy còn sinh đến 7 con (6 gái). Và không biết có phải do ảnh hưởng bệnh của mẹ hay không mà các con hễ đến tuổi học lớp 2 – lớp 3 là bắt đầu có dấu hiệu khùng khùng khiến hàng xóm phải gọi cả gia đình là “nhà người điên”. Con cái bệnh triền miên song không có tiền chữa trị thuốc thang đàng hoàng nên cứ để mặc chịu đựng được tới đâu hay đó.
Trong đó trầm trọng hơn cả là con gái thứ hai năm lên 15 tuổi phát bệnh điên dại nặng cứ đi phá phách hàng xóm láng giềng ai cũng kêu trời. Năm 1993 khi chồng bị tai biết qua đời, người mẹ chịu không nổi đành phải nhốt con vào phòng riêng như giam tù luôn!
Mấy đứa con còn lại dẫn dần cũng tìm đường đi kiếm kếù sinh nhai nơi khác, để lại một mình người mẹ  lo cho đứa con điên loạn nhốt trong nhà dù mẹ mắt đã mờ, mổ giác mạc rồi cũng như không. 

982 - Hà Thanh Hải
“HẢI ĐIÊN”
Doanh nhân sinh 1955 tại Tây Ninh. Sống ở Bình Dương (2007).
Gia đình làm nghề đốn củi nên từ nhỏ đã sống trong rừng, lớn lên trong rừng nhờ đó rất giỏi nghề nuôi heo rừng (heo “mọi”).
Môi trường rừng là địa bàn hoạt động chủ lực của cộng sản nên tự nhiên đi theo tiếng gọi cách mạng chống Mỹ từ năm 1968, lớn lên làm lính thông tin ở trong chiến khu nằm giữa rừng Tây Ninh. Đặc biệt phát triển kinh nghiệm cũ trở thành nổi tiếng là có tay nuôi heo rừng giúp cải thiện bữa ăn cho du kích, bộ đội.
Sau chiến tranh được cho đi học ngành bưu chính viễn thông ra làm nhân viên bưu điện TPHCM. Đến năm 1985 chuyển ra ngoài lập công ty ngành này làm ăn phát đạt.
Thế mà bỗng nhiên năm 1992 bỏ hết toàn bộ cơ đồ sự nghiệp đang lên chỉ vì vì nỗi “nhớ rừng”, nhớ rừng ngày xưa và heo rừng một thời đã gắn bó để quay về với rừng: Chọn rừng Lai Uyên ở Bình Dương để vào đó mở trang trại… nuôi heo rừng! Người thân, bạn bè hết biết can không nổi phải gọi là “Hải điên”!
Nhưng nuôi heo rừng bây giờ không đơn giản như thời trước bởi nay chúng bị săn bắt giết thịt khá nhiều, còn lại ít thì phân tán đi khắp nơi. Cho nên phải khổ công lên tận Tây Nguyên mua giống về gầy dựng lại bầy đàn.
Quả là không hổ danh nuôi heo mọi là nghề ruột từ thời thơ ấu nên kết quả dần dà nuôi thành công bắt đầu lập được một đàn heo rừng trên 800 con. Còn dự định tiếp tục triển khai mô hình thêm một trang trại tương tự ở Bình Phước.
Xứng danh là “Vua heo rừng” nhất nước.

983 - Nguyễn Thanh Tùng
NGHỆ SĨ MÙ ĐÀN BẦU VANG DANH
Nghệ sĩ nhạc dân tộc sinh 1979 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2011).
Bố từng là lính trinh sát pháo binh trên chiến trường Quảng Trị bảo vệ thành cổ trong mùa hè đỏ lửa 1972.
Sau ngày hòa bình, bố trở về Hà Nội làm công nhân, lấy vợ cũng công nhân ngành may.
Sinh được con gái đầu thì ngay mới lọt lòng mẹ đã mắc bệnh trầm kha liệt toàn thân, động kinh, vừa mùa vừa câm vừa điếc. Chạy chữa đủ cách vẫn vô ích mà lúc đó chưa biết do hậu quả CĐDC bố bị nhiễm thời chiến tranh.
Đến mình là con trai thứ hai có đỡ hơn song vẫn bị mù một mắt, mắt còn lại rất yếu đến năm lên lớp 5 thì mù luôn. Bấy giờ mới biết là di chứng CĐDC.
Dù vậy cả 2 vợ chồng vẫn cố gắng lo cho 2 con, mẹ ở nhà săn sóc con gái đầu vẫn nằm liệt một chỗ vừa làm thêm kiếm chút tiền cơm cháo, bố về hưu xoay qua làm nghề chụp ảnh dạo ở công viên.
Bản thân vào học trường mù Nguyễn Đình Chiểu và ngay từ nhỏ đã tỏ ra có năng khiếu âm nhạc, nhất là mê âm nhạc dân tộc nghe qua đài. Thấy vậy ông nội mới tự “chế” cho một cây đàn bầu bằng đoạn cây nứa chẻ đôi ghép vào với ống bơ, dây đàn lấy từ dây phanh xe đạp. Rồi đưa cháu đi học nhạc, sợ một mình cháu học cô không biết cách chỉ vẽ nên ông nội cũng xin… học ké để kèm cặp cháu!
Năm lên 7 tuổi lần đầu tiên biểu diễn đàn bầu trên sân khấu. Sau đó thi đậu vào nhạc viện Hà Nội, lần lượt học lên cấp đại học. Quá trình học tất nhiên hết sức gian nan, vất vả, phải nhờ bạn đọc, xướng âm hoặc hát các bản nhạc nhiều lần nghe qua rồi mới viết lại ký âm trên chữ nổi… Vậy nhưng cuối cùng trở thành học viên khuyết tật duy nhất tốt nghiệp thủ khoa cả 3 cấp và tốt nghiệp 2 ngành âm nhạc dân tộc lẫn sáng tác – chỉ huy dàn nhạc (còn học thêm đàn dương cầm nữa).
Từ đó biểu diễn thành công ở trong nước lẫn nước ngoài, vừa dạy nhạc vừa tiếp tục sáng tác, nghiên cứu. Không chỉ nhạc dân tộc mà còn chuyển thể - và trình diễn – cả nhạc cổ điển từ Beethoven, Mozart đến Brahms, Schubert… Với nước ngoài, được xem là một “Đại sứ âm nhạc VN”.
Cuộc đời và sự nghiệp đã được làm thành phim tài liệu “Vượt qua định mệnh” năm 2008.
Vượt qua được một phần nhờ thấu hiểu, ghi nhớ tấm gương của người cha luôn nhắc nhở con: “Chúng tôi là những người lính đã dành cả thời trai trẻ để chiến đấu cho hòa bình, thống nhất đất nước. Vì thế khi trở về đời thường, tôi vẫn gắng giữ phẩm chất, không phẫn uất, không chán chường để vợ con tôi và những người quanh tôi tin vẫn còn nhiều lý do đáng để sống.”

984 - Nguyễn Thị Để
NUÔI VỢ CON CỦA CHỒNG
Cán bộ về hưu sinh tại Tiền Giang. Sống ở TPHCM (2011).
Thời trẻ hoạt động cộng sản ở Mỹ Tho làm công tác phụ nữ.
Năm 1954 lấy chồng cán bộ quân báo mới được 17 ngày thì chồng lên đường tập kết miền Bắc, mình nhận nhiệm vụ ở lại nằm vùng.
Hẹn 2 năm nữa vợ chồng sum họp không ngờ đất nước chia cắt kéo dài rồi chiến tranh tái diễn, chỉ nhận được 4 lá thư của chồng đến năm 1964 thì đôi bên mất liên lạc luôn.
Năm 1968 bị bắt, từ đó có tin đã bị địch thủ tiêu. Tin này đến với người chồng ở Hà Nội đưa đẩy đến cảnh cô đơn buồn rầu cần an ủi nên chấp nhận lấy một người vợ sau dân Bắc.
Trong lúc đó thực tế người vợ đầu vẫn còn sống, bị đày ra Côn Đảo. Đến năm 1973 được trao trả tù binh 2 bên chiến tuyến.
Sau ngày thống nhất, vợ tiếp tục làm công tác Hội Phụ nữ ở TPHCM vui mừng được gặp lại chồng sau 21 năm biền biệt tin tức. Nào ngờ người chồng bấy giờ mới thú nhận mình đã… có vợ mới và 3 con rồi! Cả hai chỉ còn biết cay đắng ngậm ngùi rằng “Hậu quả chiến tranh rơi đúng vào 3 chúng ta”.
Dù vậy người vợ cũ vẫn rộng lòng tha thứ, an ủi: “Em rất thông cảm với nỗi khổ đau của anh… Nếu chúng ta không còn nghĩa vợ chồng thì coi như tình đồng chí chiến đấu với nhau vậy. Anh đừng cho chị ấy biết em còn sống. Em biết chị ấy cũng như em đã đau khổ 20 năm nay rồi nên em không muốn cho ai đau khổ nữa…”
Từ đó vẫn thường xuyên gửi thư, quà ra miền Bắc cho vợ con chồng cũ.
Nhưng người chồng vẫn rơi vào cảnh lúng túng không biết giải quyết thế nào, nửa không muốn về Bắc lại sợ làm buồn lòng vợ cũ mà nửa cũng không thể bỏ rơi vợ con ngoài kia. Thấy vậy, cuối cùng người vợ cũ có một quyết định quá táo bạo là thuyết phục chồng cho cả 4 mẹ con đời vợ sau cùng vào TPHCM sống chung với mình!
Thế rồi tuy phải sống trong cảnh 1 ông 2 bà oái oăm “tình già” mà vẫn cố giữ được không khí gia đình hòa thuận. Tận tình lo cho cả 4 mẹ con “đời sau” thực sự như người thân không có chút gì phân biệt.
Sau khi chồng mất, đã làm sẵn kim tĩnh bên cạnh mộ chồng dành cho mình tưởng là sẽ theo chân chồng ra đi trước, nào ngờ khi thấy chính người vợ sau lại sắp mất trước nên đã “nhường” chỗ kim tĩnh chờ sẵn đó bên cạnh chồng. Tuy nhiên bà sau tự trọng không dám nhận, chỉ xin được “nằm dưới chân anh chị” để trên bia mộ đề dòng chữ tình nghĩa ít thấy “Chị và các con đồng lập mộ”.
Còn lại một mẹ nuôi lo cho 3 con đời sau không khác gì con ruột ăn học trưởng thành đàng hoàng.

985 - Nguyễn Thị Niêm
BÁN NƯỚC CHÈ NUÔI 4 CON GHẺ
Lao động nghèo sinh 1947 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2007).
Năm 16 tuổi làm du kích xã chống Mỹ.
Năm 1968 bị địch phục kích, đồng đội chết hết còn mình bị bắt giam từ Quảng Trị chuyển vào Quy Nhơn. Đến 1973 được trao trả tù binh sau hơn 5 năm rưỡi ở tù.
Sau ngày chấm dứt chiến tranh đi học bổ túc văn hóa gặp thầy là một bộ đội từ miền Nam trở về xuất ngũ dạy học trong làng đã có vợ và 4 con nhưng vợ không may cuốc đất làm vườn trúng bom bi phát nổ chết sớm. Thương cảm thầy nên năm 1985 tình nguyện làm vợ sau và là bà mẹ kế nuôi 4 con chồng đời trước.
Tuy là con ghẻ song thương như con ruột, một mình nuôi 6 con nhỏ (sau có thêm 2 con ruột nữa) mà mình không có trình độ, nghề nghiệp nên chọn nghề bán nước chè xanh kiếm tiền lo cho cuộc sống cả nhà. Sáng gánh nước chè xanh đi bán ở chợ và ga tàu lửa, chiều thì vào rừng chặt củi đưa ra chợ bán.
Cứ thế đều đặn kéo dài 22 năm, có những lúc còn phải lo nuôi chồng bệnh tai biến năm 1997.
Vậy mà một tay o du kích miền cát trắng gió Lào khô hạn ngày nào đã nuôi 6 con đều vào đại học tốt nghiệp cử nhân và thạc sĩ. Dù vậy ngày ngày o vẫn tiếp tục quảy gánh “Ai nước chè xanh đây…” 
    
986 - Nguyễn Thị Phong
HAI CHÂN THAY HAI TAY
Thương binh sinh 1945 tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2010).
Năm 1963 tình nguyện đi thanh niên xung phong chống Mỹ.
Nhưng chẳng bao lâu đã gặp một trận bom Mỹ vùi giập bị thương nặng buộc bác sĩ phải cắt bỏ cả hai tay lúc mới tròn 20 tuổi. Với thương tật xác địch mức 1/4 được đưa về Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng Bắc Ninh.
Từ đó để sống còn phải tập làm mọi việc bằng đôi chân từ ăn uống, tắm giặt, sinh hoạt… Được một anh thương binh khác quê Hải Dương ở cùng trung tâm giúp đỡ rồi nảy sinh tình yêu đôi lứa quyết định làm lễ cưới tại trung tâm.
Đôi vợ chồng thương binh đưa nhau về quê sống nương tựa vào nhau, sinh được 3 con.
Nhưng 13 năm sau thì chồng tái phát vết thương cũ qua đời để lại một mình nuôi con nhỏ dại.
Bấy giờ không còn chồng phụ giúp đỡ đần, công việc của đôi chân làm thay tay càng vất vả hơn với nhiệm vụ vừa thay chồng kiếm sống nuôi gia đình vừa làm mẹ chăm sóc con cái. Làm việc kiếm sống thì đôi chân phải… bán rau, băm bèo nấu cám nuôi heo; nuôi còn thì đôi chân phải… vá quần đơm cúc áo cho con…
Tất cả đều làm được hết với đôi chân đa năng làm đủ mọi việc tất tần tật giống như làm xiếc vậy.

987 - Nguyễn Thị Sơn
TRẢ NGHĨA ĐỜI MỒ CÔI
Lương y sinh 1958 tại Phú Yên. Sống ở Buôn Ma Thuột (2007).
Cả cha mẹ đều hoạt động cộng sản, mình chưa đầy 1 tuổi thì cha bộ đội chiến đấu miền Nam bị địch bắt tra tấn đến chết. Lên 3 tuổi đến lượt mẹ hoạt động binh vận cũng bị bắt rồi hy sinh trong nhà tù chế độ cũ.
Từ đó được nuôi trong trại thương binh chiến khu. Năm 10 tuổi được đưa ra Bắc để có điều kiện học hành theo chế độ con em miền Nam. Học tốt nghiệp phổ thông rồi học làm y tá ra chăm sóc thương bệnh binh ở Hà Nội.
Năm 1984 lấy chồng bộ đội thương binh trở về từ chiến trường Lào.
Sống ở Hà Nội thời hậu chiến cuộc sống quá khó khăn lại mới sinh con nên vợ chồng quyết định vào Tây Nguyên tìm đường sống thoát khỏi cảnh đói nghèo dai dẳng.
Trên vùng đất mới cao nguyên, bên cạnh việc làm vườn khai khẩn đất hoang còn tận dụng kiến thức y khoa có sẵn thời làm y tá để khám chữa bệnh, bốc thuốc cho đồng bào dân tộc. Hiệu quả công việc được địa phương ghi nhận mới tạo điều kiện cho về TPHCM năm 1990 đi học ĐH Y khoa chuyên ngành y học cổ truyền.
Sau 6 năm theo học, tốt nghiệp quay về Đắc Lắc mở phòng chẩn trị y học cổ truyền ngay tại nhà để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp lương y như từ mẫu.
Dù đã có 4 con song vẫn nhận về cưu mang 10 đứa con nuôi mồ côi gặp cảnh đời bất hạnh khốn khó trong đó có cả con liệt sĩ mất cả cha lẫn mẹ như mình ngày xưa. Có cháu lớn lên cũng xin học theo nghề mẹ nuôi đi đến tận những vùng sâu vùng xa thăm bệnh phát thuốc cho trẻ em nghèo, khuyết tật…   

988 - Nguyễn Thị Tâm
TỰ HỌC VỀ CHẤT ĐỘC DA CAM
Giáo viên sinh khoảng 1953 tại thái Bình. Sống ở Thái Bình (2006).
Năm 17 tuổi vào bộ đội đi chiến trường B trong đó có 3 năm bám trụ đường Trường Sơn.
Hòa bình lập lại xin xuất ngũ về quê thương binh hạng 4/4, đi học ra làm giáo viên trường mầm non ở tỉnh. Lấy chồng sinh con, vừa dạy học vừa chăn nuôi thêm để nuôi con.
Đời sống gia đình tương đối ổn định nhưng gặp gỡ thăm viếng đồng đội cũ mới thấy có nhiều chị em mắc di chứng CĐDC trầm trọng đưa tới bao cảnh đời bi thương. Có người bệnh tật không dám lập gia đình, có người lập gia đình rồi không sinh con được, mà nếu sinh được cũng thành con dị dạng quái thai, cả mẹ lẫn con đều mắc bệnh nan y. Tất cả không ít thì nhiều đều do hậu quả CĐDC họ gánh chịu từ thời chiến tranh.
Từ đó thôi thúc bản thân tìm tài liệu, sách báo tìm hiểu về CĐDC – lúc đó thông tin còn ít phổ biến -- để tìm cách hướng dẫn đồng đội cũ cách thức chạy chữa. Rồi tự tìm lập danh sách các nạn nhân CĐDC trong tỉnh để tìm cách xin chế độ, giúp đỡ mọi mặt.
Sau đó tiến tới lập Ban Liên lạc nữ bộ đội Trường Sơn tỉnh Thái Bình làm nơi tập trung đóng góp, hoạt động chăm lo cho bạn chiến đấu một thời tuổi trẻ nay là nạn nhân CĐDC đồng thời kêu gọi các nơi – cả phía Mỹ --  có hành động hỗ trợ.
Tất cả là để trả lời cho câu hỏi ray rứt nhiều đêm làm mất ngủ đặt ra cho mọi người trước thảm trạng CĐDC: “Như thế làm sao tôi có thể sống yên vui được?”
    
989 - Nguyễn Thị Thu
BÀ “HAI NHÓT”
Nông dân sinh tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2009).
Trong chiến tranh bị một mảnh pháo – không biết của bên nào – trúng vào chân song ở quê nghèo trong cảnh bom đạn tứ phía thiếu thốn đủ thứ nên chỉ được chữa trị đại khái bên ngoài chứ không lấy mảnh bom ra. Vì thế đi đứng khó khăn bên chân đau chỉ đi được nhón gót đầu 5 ngón chân để khỏi bị thốn, từ đó chết tên bà “Hai Nhót”.
Cũng do vậy không lấy chồng được. Mãi đến năm 36 tuổi tha thiết muốn có một đứa con an ủi lúc xế chiều nên “xin” một người đàn ông đã có gia đình trong làng “cho” một mụn con gái, sinh ra thì thôi 2 bên xem như không quen biết gì nhau!
Từ đó làm quần quật để nuôi con, từ xuống sông giăng lưới mò tôm bắt cá đến nuôi heo gà, chăm sóc vườn dừa nhỏ trên mảnh đất được mẹ chia cho. Đầu tắt mặt tối tới mức ngườøi đen đúa gầy quắt cân nặng chỉ 35kg.
Đã vậy, mảnh bom cũ còn nằm trong chân phát tác vết thương chỉ chạy chữa quanh quẩn ở quê không kết quả, phải đưa lên bệnh viện tỉnh nhưng không cho con đi theo bắt ở nhà lo học chuẩn bị thi cuối cấp lớp 12. Lên tỉnh lúc đó mới biết chân đã bị hoại tử buộc phải cắt cụt đến tận đầu gối! Đã “Hai Nhót” rồi bây giờ còn thêm chống nạng, đi chân giả!
Tuy nhiên đau đớn mấy cũng cắn răng chịu đựng, chỉ dặn người thân đừng cho con biết lo con phân tâm không học được vì “đời mình đã khổ quen rồi” không có gì phải buồn mà chỉ sợ con tủi thân bỏ học bỏ thi.
      
990 - Nguyễn Thị Tròn
“KỶ VẬT” CHIẾN TRANH
Thợ may sinh 1956 tại Tây Ninh. Sống ở Tây Ninh (2010).
Năm 1968 lúc 12 tuổi đi hái rau ở quê thì bị máy bay trực thăng Mỹ bắn trúng chân đưa vào bệnh viện phải cưa cụt chân đó.
Phóng viên ảnh người Anh Larry Burrows lúc đó làm cho tạp chí Life bám trụ săn tin cuộc chiến VN biết được chuyện này mới đi tìm chụp ảnh em đang tập đi chân giả lên bìa báo với tựa đề “Cô gái tên Tron” kèm bài phóng sự “Bên rìa hòa bình” thêm nhiều hình của em minh họa. Bài và ảnh đã gây xúc động cho công chúng Mỹ, nhiều người gửi quà và thư đến an ủi em.
Phần nhà báo Anh, ông đã nhiều lần chịu khó đưa em từ Tây Ninh lên Sài Gòn đến bệnh viện khám làm chân giả rồi tập đi ở đây. Sau đó khi em đã đi được bình thường về quê lại, ông còn mua tặng em một chiếc máy may (trị giá hồi đó là cả một gia tài) và cho tiền đi học nghề may đàng hoàng để sau này làm nghề sinh sống.
Đến năm 1972 cô gái có dịp lên Sài Gòn tìm thăm ân nhân thì mới hay ông vừa tử nạn máy bay trực thăng trong một chuyến bay qua Lào tiếp tục làm phóng sự chiến tranh VN lúc mới 44 tuổi (năm 2008 thân nhân mới tìm thấy hài cốt trong vùng rừng núi Lào). Từ đó cô chỉ còn nhớ đến ông qua món quà chiếc máy may bù cho mất một chân vì chiến tranh vẫn gìn giữ đến tận ngày nay: “Nó là nghề mưu sinh mà ông tặng cho đời tôi. Tôi không bao giờ từ bỏ nó.”
Nhưng con trai của L. Burrows không quên vì trước kia cha vẫn thường kể chuyện về em bé VN mà ông giúp đỡ cho cả gia đình nghe, xem như đó là một đứa con nuôi. Bởi vậy năm 2000 anh đã cùng con gái đến VN đi tìm cô với trong tay những hình ảnh bé gái tập đi chân giả trên báo Life nhưng vẫn được những người bạn VN giúp đỡ đưa lên Tây Ninh tìm được.
Rồi năm 2010 cả 2 vợ chồng cùng 2 con một lần nữa hội ngộ cùng cô “Tron” theo họ phát âm trọ trẹ, dưới mái lá căn nhà tranh mà cách đây hơn 40 năm người cha người ông của họ từng ghé chân ở lại ngồi nhìn cô bé tập tễnh đi chân giả.
Cả 2 lần đó họ đều thấy cô – nay đã là bà -- vẫn cắm cúi gò lưng trên chiếc máy may năm nào, chiếc máy may và người phụ nữ một đời gắn bó với nó mà như cháu gái nhà báo Anh kể lại “Khi tôi ôm bà và nhìn chiếc máy may, tôi thấy như mình được kết nối với ông nội. Khi tôi chụp hình, tôi cảm thấy mình gần gũi ông biết bao nhiêu.” 
(Còn tiếp)

http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hosohauchienky98