Thứ Năm, 23 tháng 3, 2017

Nhân ngày giỗ THANH TÂM TUYỀN

Đặng Tiến
Thanh Tâm Tuyền
Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi. 

Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp lửa. 

Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn nhà thơ lúc trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ thuật: Thơ, Văn, Nhạc, Hoạ, như ở các nước phương Tây. 

Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật. 

Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo. 


*


Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài «Thơ mừng năm tuổi», làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử [1] . Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội. 

Sau đó, hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt, rồi vào Nam. 

Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi không còn cô độc, 1956, và truyện Bếp lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào «nhóm» Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học miền Nam suốt một thập niên. 

1962, bị động viên vào Trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hoá, «tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch» (1972), cấp bực cuối cùng là đại uý. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong hơn mười năm, tại nhiều trại cải tạo miền Bắc. Cuổi cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ. 

Thanh Tâm Tuyền là tác giả khoảng mười đầu sách; ba tập thơ: Tôi không còn cô độc (1956), Liên - Đêm - Mặt trời tìm thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở đâu xa (1990, Mỹ). Ba truyện: Bếp lửa (1957), Khuôn mặt (1964), Dọc đường (1967). Ba tiểu thuyết: Cát lầy (1966), Mù khơi (1970), Tiếng động (1970). Một vở kịch ngắn: Ba chị em (1965). Một phiếm luận Tạp ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, ví dụ như tiểu thuyết Ung thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan trọng. 

Miền Nam Việt Nam những năm 1955 -1960 bừng lên một sinh khí văn hoá. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thị sau chiến tranh, tình hình an ninh và giá cả ổn định, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi không còn cô độc, nhưng nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thuỳ Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người Sông Thương. 

Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút. 

Mười lăm năm sau, 1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an vị, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, có hai bài: một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét bỏ đến yêu thích; một bài giải thích «lối thơ Thanh Tâm Tuyền» qua bài «Phục sinh» nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu: «Tôi buồn khóc như buồn nôn… Tôi buồn chết như buồn ngủ…» 

Tôi không còn cô độc có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói «tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ», hay «có người cầm súng bắn vào đầu / đạn nổ nhịp ba / không chết». Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách: 

«Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ 

Lê Huy Oanh kể lại rằng: «Trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực» (báo Văn đã dẫn, tr. 8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng. 

Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như «Nhớ máu» của Trần Mai Ninh, «Đèo cả» của Hữu Loan, «Sáng mát trong như sáng năm xưa» của Nguyễn Đình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ: loại trừ vần, không theo nhịp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra «diễn ca», còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới. 

Dựa trên lời Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, «nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm». 

Câu này trong bài «Nỗi buồn trong thơ hôm nay», Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài «Mấy ý nghĩ về thơ» của Nguyễn Đình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn. 

Chất hiện đại trong thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ siêu thực của nhóm Bréton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già, vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên tiếp xúc được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov, Marx, Trosky đến những tác giả mới hơn như Laurence Durrell hay Solzhenitsyn qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng hoà Thế giới: 

Các anh Cộng hoà đã chiến đấu cho Tây Ban Nha 
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca 
Một Bréton tình điên còn nức nở 
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức 
Và mãi Ernest còn tiếc thương 
Andalousie đói quên khiêu vũ 
Việt Nam ốm yếu quên ca dao 

Câu «quốc tế ca» của Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng Tạo, số 4 tháng Giêng 1957: 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em 
Những cuộc tình duyên Budapest 

Bài này làm vào tháng 12-1956, một tháng sau khi Hồng quân Liên Xô, nhân danh khối liên minh quân sự Warszawa tràn ngập Hungary và thủ đô Budapest. Sau đó ông còn làm tiếp «Bản anh hùng ca Budapest» cũng đăng trên Sáng Tạo. 

Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố: Warszawa, Berlin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moskva, Praha, Paris, Madrid, Brussel, Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố: thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hoá; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường chèo làng Đặng; gần hơn, Đinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm; đến Thanh Tâm Tuyền «Tôi không còn cô độc» là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ: 

Tôi đã chết nghẹn ngào 
ôm tình yêu tự do chật ngực 
tôi chết và chối từ 
đừng ai gọi tôi là thi sĩ 
(…) 
Hôm nay tôi dự hội 
hôm nay dùng mắt nhìn 
hôm nay dùng lời dịu 
cô độc phút tan tành 
tôi không còn cô độc 

Ông già: tôi không còn cô độc 
Hợp xướng: tôi không còn cô độc 
Em gái: tôi không còn cô độc 
Hợp xướng: không ai còn cô độc 
không ai còn cô độc 

Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng: 

Một người da đen một khúc hát đen 
Bầu trời đen sâu không cùng 

Những dòng nước mắt: 

Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng 
Bằng giọng của máu của tuỷ của hờn bắt đầu ngày tháng 
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không 
(…) 
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen 
Trên màu da nức nở 

(«Đen», Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957) 

Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong «Guernica» của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy. 

Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca. 




*


Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không? 

Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác [2] . 

Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa. 

Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề. 


*


Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ. 

Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những «Chiếu hoa cạp điều», với «Hương gió lướt đi». Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác. 

Bếp lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay [3] . Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn «Đại lộ», nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964. 

Truyện được viết từ ngôi thứ nhất «tôi». Người kể, «tôi» tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952. 

Tuy nhiên Bếp lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: «Hôm nay mẹ tôi mất», nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ dưng hay Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu sau này. 

Không phải là tự truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, «ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say» (tr. 90). 

Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. «Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả» (tr. 12).

Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. «Đến Hà nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn» (tr. 72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5: «Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói: Anh có khinh em không?» (tr. 76). 

Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm», thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp lửa trôi xa, không những với Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh mà còn xa với Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền. 

Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không? 

Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết «theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại» (tr. 67). 

Tại Việt Nam, một dải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ? 


*


Về phong cách, Bếp lửa  một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao? 

Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi». [4] 

Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát lầy, Ung thư, Mù khơi, Tiếng động… 

Đối với Thằng Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp lửa. 

Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa. Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28). 

Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì? 

Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát. 

Bài hát «chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn» [5] . 

Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội hoạ, và thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy. 

Hoạ sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân», Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ: anh vẽ cái gì thì cũng là hoá thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hoá thân của Apollon – les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux. 

Ông viết trong bài «Nhân nghĩ về Hội hoạ»: 

«Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78). 

Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này. 

Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại. 

Trong truyện Bếp lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi: 

«Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng ». 

Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi. 

Vô cùng Thanh Tâm Tuyền. 

Thanh. Tâm. Tuyền. 

Thanh Tâm 

Tuyền. 

Ngày giỗ Trịnh Công Sơn 
Orléans, 01-4-2006 



[1]Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2]Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn. Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, liên lạc qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3]Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb Nguyễn Đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đoạn từ bản này.
[4]Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm, tháng 6-1974, tr. 21-22, Sài Gòn.
[5]Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài bãi biển», trong Khuôn mặt, tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
Nguồn: Bài sắp đăng trên tạp chí Văn, số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, tháng 5 & 6. 2006. Bản đăng trước trên talawas với sự đồng ý của tác giả và tạp chí Văn.

Bùi Vĩnh Phúc
Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy
 1   2 
Một buổi chiều, một buổi chiều nào đó, như tất cả những buổi chiều ta đã lang thang trên xứ lạ, như tất cả những buổi chiều mặt trời rơi xuống xoáy buồn vào trái tim, ta nhìn đời sống mình bốc khói. Khói cay ngun ngún cháy đi tất cả những ngày đã qua, cháy đi những mộng tưởng cũ kỹ, những hè đường đầy lá úa ướt át, những dòng sông thở nồng mùi gỗ mục. Đời đã ngun ngún cháy đi những giây phút hạnh phúc đẹp đẽ và mơ mộng nhất của ta, cháy đi những cửa sổ mở tung nhìn con chim bay trên trời, những ngõ hẹp cất giấu bóng chiều âm ỉ, và khuôn mặt em, khuôn mặt ướt mưa mà hai bàn tay ta đã nâng niu như một cánh hoa gần. Trong mắt em ta nhìn thấy ngoài kia cơn mưa chụp xuống giăng kín buổi chiều. Em chớp mi, và bầu trời phủ đầy bóng tối. Một bóng tối thơm ngát mùi hoa chanh. 

Một buổi chiều, một buổi chiều nào đó, giam mình giữa dòng xe cộ trùng điệp của giờ tan sở, để chiếc xe tự động lăn theo dòng nối tiếp mệt nhoài, tâm tư ta lại nhớ về những buổi chiều cũ ở quê nhà. Những buổi chiều đã ngun ngún bay đi. Bay đi như khói thuốc, như hương khói mùa xưa. Những buổi chiều trời thắp mãi tiếng mưa sầu. Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt... 

Ta chợt nhớ đến người thi sĩ ấy. Thanh Tâm Tuyền. Bây giờ, ông đang nuôi những cơn mộng nào. Ông đã sống như thế nào giữa lòng quê nhà mưa bay gió thổi [1] . Ông nhìn ngắm như thế nào những con đường, những buổi chiều, những băng đá, những dòng sông, những thành phố ngày xưa. Trời thì còn mưa, mưa mãi. Mưa rơi ướt những hoài vọng, những ước mơ, và bóng tối như đang đổ xuống không cùng. Ta muốn bật một que diêm để cùng Thanh Tâm Tuyền nhìn lại những buổi chiều cũ, có hơi ấm ngày xưa. 

Buổi chiều vào chật khoang xe. Đèn thắp lên 
Tiếng máy nổ bỗng thành tiếng cười dài 
Mưa xuống bên ngoài, ngoài cửa sổ. Những bàn tay níu lấy vòng sắt lạnh 
Mỗi ngày chúng ta đứng bên nhau không quen nhau 
Thân mật ngó lên mái tóc rối nền trời khuya 
Ngó vào mắt hoang xa dòng sông không bờ 
(...) 
Chuyến xe buýt chạy trong buổi chiều. Trời mưa, mưa ngoài châu thành. 
Không tìm thấy bến không đỗ lại 
Vai áo đã ướt đầy 
Tóc em rét mướt 
Một ngày mới bắt đầu với tờ báo phát hành sớm gói trên tay. 
Xe còn chạy mưa hoài dòng sông hoang mắt bỏ cố níu lấy cửa xe... 

(“Một chỗ trên ô-tô-buýt”) 

Que diêm đã bật lên rồi đó, chúng ta có ngửi thấy hơi ấm quê nhà? Ôi, một chiều mưa, mưa rơi ngoài châu thành, chiếc xe buýt xanh chạy vào trái tim, dòng sông và những chấm mưa lổ đổ, buổi chiều xanh lơ màu sương khói, vai áo em mềm ướt hồng da thịt, vùng tóc rối rét đầy. Em hiền, em hiền như bánh không men, như ngọn tháp giáo đường ngoài xa kia vươn lên như một búp nến. Hơi lửa nhỏ nhẹ cháy vào lòng ta rét mướt. Xe chạy hoài dòng sông nuối mắt. Búp nến buồn hiu hắt những hơi mưa. Sợi tóc quệt ngang vành môi theo đường bay của gió. Những con chim bay vào cõi sa mù. 


*


Tôi muốn viết về Thanh Tâm Tuyền như ông vẫn còn đang đứng ở đó, bên một cây cầu hay một dòng sông, tay sờ lên đường viền của những vòng sắt lạnh. Tôi muốn viết về ông như viết về những kỷ niệm của mỗi một chúng ta. Tôi không nghĩ là thơ ông đã tạo được những rung động trong đông đảo quần chúng hay được tất cả những người thưởng ngoạn, những người làm văn nghệ thời đó nhất trí chấp nhận như một giá trị hiển nhiên. Thanh Tâm Tuyền, và một vài người khác cùng thời với ông, đã có công giới thiệu và làm bùng nở một dòng thơ tự do đầy sức sống trong một giai đoạn phát triển của văn học miền Nam. Trong cái nhiệt tình thắp lửa, có những lúc có thể là ông đã phát biểu cái tiếng nói thơ, chuyên chở tâm tình và sự suy tư của ông, ở những cung bậc quá khác lạ với những âm điệu vẫn được những người khác - những người cùng sống ở một thời đại với ông - thường dùng. 

Thanh Tâm Tuyền đã được yêu thương, ca tụng cũng như đã bị lên án và chối bỏ trong những năm ông bám lấy thơ, coi thơ như một cung cách sống, một nỗ lực để có thể sống cái đời sống của mình một cách trọn vẹn. Ngoài một số những bài thơ làm sau giai đoạn 1964, chưa được in thành tập, những bài thơ tiêu biểu nhất của ông, làm trong những giai đoạn trước đó, đã được ông thu góp trong hai tập Tôi không còn cô độc (1955) và Liên-đêm-mặt trời tìm thấy (1964). Hai tập thơ đã trình bày trước độc giả con người của Thanh Tâm Tuyền một cách khá rõ nét. Kiêu căng, ngạo mạn, lạnh lùng, cô độc, cô đơn, cô lữ, lãng mạn, tha thiết, dằn vặt, yêu thương, khô khan, bùng cháy, mệt mỏi, hoài nghi, thất vọng, siêu hình, trong sáng, rắc rối, phức tạp, xót xa, phẫn nộ... Đó là một số từ chúng ta có thể dùng để nói về thơ Thanh Tâm Tuyền, về Thanh Tâm Tuyền. Ông đã sống thiết tha và vũ bão như vậy. Có những lúc ông cũng đã cảm thấy mệt mỏi, hoài nghi, và thất vọng, nhưng trong tất cả những trạng thái sống đó, tôi chưa từng thấy ông sợ sệt. 

Như con sư tử và như đứa trẻ thơ (đúng, Thanh Tâm Tuyền cũng có đôi khi như thế) của Nietzsche, Thanh Tâm Tuyền đi vào đời sống với tất cả những say đắm, yêu thương, thơ dại và phẫn nộ chất chứa trong hồn ông. Ông đã được yêu ghét thế nào, chúng ta chắc chẳng cần nhắc lại. Hãy chỉ nhớ là, bây giờ, Thanh Tâm Tuyền vẫn đang ở tại quê nhà, vẫn còn canh giữ cho ta những giấc mộng cũ, và những bài thơ của ông, lang thang ở những xó góc tối tăm nào đó của đời sống, của trí óc ta, lâu lâu vẫn còn khua gõ những bước chân âm thầm trở về. Và ta lại nhìn ra những bóng mưa của thời gian xưa cũ, những dòng sông vẫn chảy lặng lẽ, mưa vẫn rơi, mưa rơi nhỏ nhẹ, mưa rơi ngoài châu thành. Trái tim ta ướt đẫm nước mắt... 

Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về chiều 
Khóc thờ ơ ngoài không trung. 


*


Đọc lại những bài thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi thấy mình yêu và gần ông ở những bài, những đoạn, những ý ông nói về tình yêu. Thật ra, bài nào của Thanh Tâm Tuyền lại không có tình yêu trong đó. Tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu mến thiên nhiên, yêu thương con người nói chung. Tình yêu giữa ánh sáng và bóng tối, tình yêu đồng loại bị dồn nén bởi sự tàn ác, bất công và nước mắt - nổ bùng ra thành phẫn nộ. Tình yêu làm Thanh Tâm Tuyền trở nên lãng mạn, và đau khổ, nhục nhằn. Tình yêu xót xa hoà chung với sự đau khổ vì nỗi đời, vì mệnh nước. 

Nói như thế có nghĩa là tôi gần như yêu hết tất cả những bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, vì có thể nói bài thơ nào của ông mà lại không chứa đựng tình yêu, tôi lại muốn nói một lần nữa như vậy. Dù sao, có những bài thơ trong đó ông đã đưa vào quá nhiều những hình ảnh, những tư tưởng siêu hình, và những điều đó, theo ý tôi, làm bài thơ ông mất bớt đi sự lôi cuốn. Điều tôi đang nói đây có thể là một điều kỳ lạ đối với một số người yêu thích Thanh Tâm Tuyền và nghĩ rằng thơ ông chủ yếu ở chỗ siêu thực, như thơ của Paul Eluard, Breton, Aragon, Rimbaud, Lautréamont... Thật sự, nói chung, thơ Thanh Tâm Tuyền đúng là rất gần với thơ của các nhà thơ siêu thực của Pháp; nhưng trong thơ của ông, những bài mà cảm tính và lý tính được diễn ra ở một mức độ cân bằng, hoặc nghiêng nhiều hơn về phía cảm tính, lại cuốn hút tôi hơn. Những bài quá nghiêng về lý tính không mời gọi tôi trở lại với chúng nhiều lần như những bài kia. Như vậy, có phải tôi là con người nghiêng nhiều về cảm tính? Tôi cũng không rõ. Nhưng nếu tôi là một mẫu người thích để cảm tính ngự trị, chắc tôi đã không chọn con đường đi vào phân tích, lý luận hay phê bình. Có lẽ, cuối cùng tôi đã nghĩ, không biết có phải là một sự bất công đối với Thanh Tâm Tuyền không, là những bài thơ quá nghiêng về lý tính của Thanh Tâm Tuyền, những bài thơ có vẻ quá sức siêu thực hay siêu hình của ông, làm cho tôi thấy ông bớt đi sự tự nhiên, tự tại của mình [2] . Những bài thơ ấy che giấu ông lại, thay vì mở ông ra với nụ cười tiếng khóc, với sự xót xa thương yêu, dằn vặt, phẫn nộ... của ông. Mà chính những điều ấy lại làm Thanh Tâm Tuyền gần gũi chúng ta hơn. 

Hãy đọc ít đoạn thơ cũ của Thanh Tâm Tuyền, những lời thơ rất cũ gõ cửa trái tim nàng kia, để thấy lại bóng dáng của tình yêu, sự dịu dàng của bóng tối, những xót xa, đau khổ của nỗi đời, mệnh nước đan kín lấy nhau. 

Hỡi Liên những Liên và Liên 
Anh muốn nghe một bài hát buồn - lời anh không thành điệu - muốn 
nghe một bản hát buồn. Thí dụ. Trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có 
chợ có ga, đường tàu mải miết. Bóng tối lặng thinh em hát lên 
làm sao mà chịu đựng, hoa lá chia sầu. Một góc bàn anh hôn màu 
gỗ trống. 

Hỡi Liên những Liên và Liên 
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà 
tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho 
hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không? Mà khi yêu nhau, 
trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau... 

(“Nói về dĩ vãng”) 

Đôi khi ở nơi đất lạ này, trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có chợ có ga, đường tàu mải miết, tôi chợt rưng rưng nhớ nhà. Tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Người thi sĩ ấy đã cảm ra những điều xót xa bàng hoàng này từ những ngày xưa. Sự bén nhạy của người thi sĩ đã khiến cho chàng ta được gọi tên như những nhà tiên tri thấu thị. Những nhà tiên tri này lên tiếng báo trước định mệnh của con người. Định mệnh có thể mang hình một cây thập tự nhưng cũng có thể là sự phục sinh. Nó có thể có mùi vị ẩm mốc của những đám lá chết nhưng cũng có thể có mùi thơm mát của những giọt sương long lanh đầu lá. Lên tiếng nói về những điều đó là nỗi khao khát đồng thời cũng là chức năng của người thi sĩ. Thế nhưng, đối với những chế độ đòi hỏi sự đồng phục trong lề lối sống của những con người mà nó nắm giữ, định mệnh con người phải hiểu là của nhà nước và do nhà nước định đoạt, ban phát. Thi sĩ không có quyền cất lên tiếng nói để làm tròn chức năng cũng như để thỏa mãn những khao khát của chàng. Thi sĩ bị lưu đày khỏi quê hương hay bị lưu đày vào đời sống cùng khốn theo cả hai nghĩa đen và bóng. Ngày xưa, thời Platon, người ta trịnh trọng và lễ phép (giả hình) choàng vòng hoa vào cổ người thi sĩ, rồi đuổi họ ra khỏi xứ sở. Bây giờ, người ta không cần triết học, người ta vất bỏ sự lễ phép (giả hình và không giả hình), người ta tóm lấy cổ thi sĩ và tống chàng vào ngục. Hãy vào trong ngục mà rao giảng cho bóng tối lòng yêu thương và những điều tiên tri của ngươi, hỡi kẻ thi sĩ kia. Trong vùng bóng tối đó, ngươi hãy nói lên sự thấu thị của ngươi. Đâu là sự thật của cuộc đời? Mặt trời đang lên ngoài kia, và ngươi là kẻ ngồi trong bóng tối. Hỡi kẻ thi sĩ kia, ngươi không sản xuất ra của cải vật chất, ngươi đòi lên tiếng nói năng gì?!! 

Ngày xưa, người thi sĩ đã phẫn nộ, đã hét lên, đã run lên, đã giận dữ, đã tràn nước mắt... vì những kẻ đòi độc quyền ban phát sự thật như thế. Hãy nhớ về Hung gia lợi, 1956. 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em 
Những cuộc tình duyên Budapest 
Anh một trái tim em một trái tim 
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác 
Hãy cho anh giận bằng ngực em 
Như chúng bắn lửa thép vào 
Môi son họng súng 
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào 
Hãy cho anh la bằng cổ em 
Trời mai bay rực rỡ 
Chúng nó say giết người như gạch ngói 
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai 
Hãy cho anh run bằng má em 
Khi chúng đóng mọi đường biên giới 
Lùa những ngón tay vào nhau 
Thân thể anh chờ đợi 
Hãy cho anh ngủ bằng trán em 
Đau dấu đạn 
Đêm không bao giờ không bao giờ đêm 
Chúng tấn công hoài những buổi sáng 
Hãy cho anh chết bằng da em 
Trong giây xích chiến xa tội nghiệp 
Anh sẽ sống bằng hơi thở em 
Hỡi những người kế tiếp 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em 
Những cuộc tình duyên Budapest 

(„Hãy cho anh khóc bằng mắt em những cuộc tình duyên Budapest“) 

Phẫn nộ là phẫn nộ trước sự đè nén, áp bức và dối trá, bưng bít sự thật. Sự thật của người thi sĩ, sự thật cháy hoài trong trái tim người thi sĩ là gì? Đó là tình yêu. Tình yêu trong tất cả mọi thể thái và lốt vỏ của nó: hạnh phúc, đau khổ, hoang mang, xót xa, hoài nghi, tuyệt vọng, rạng rỡ, âm u, hơi thở, tiếng cười, ngọt ngào, cay đắng, gần gũi, cách xa, dịu dàng, hung bạo, phương phi, rực rỡ, mệt mỏi, chán chường... 

Hãy khép mắt khép mắt thật khẽ 
Có thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu vào những giấc mơ 
Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu 
Xa thành phố bỗng lạc đường 
Tại sao cánh rừng cháy tôi một mình 
Người nào ngủ đây người nào chết đây thân xác tan tành 
Hãy khép mắt khép thật kín 
Và chúng ta rơi vào cơn ác mộng một mình 

(„Khai từ của một bản anh hùng ca“) 

Em gối đầu sương xuống 
Chuyện trò bằng bóng hình 
Tôi đẹp như hình tôi 
Như cuộc đời 
Như mọi người 
(...) 
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát 
Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương 
Em là cánh hoa là khói sóng 
Đêm màu hồng 

(„Bài ngợi ca tình yêu“)

Tình yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền ít khi được nhìn thấy dưới một khía cạnh vẹn toàn. Tình yêu ấy luôn luôn xao động, sấp ngửa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa chúm môi lá biếc những chòm hôn vội vàng và con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù, giữa những 

Ngón tay âm thầm trò chuyện 
Những bước chân thỏ rừng 
Chạy trên cỏ sắc 
Sợi tóc đen như một chuỗi cười 

và: 

(...) 
Điếu thuốc bỗng trở niềm hắt hủi 
Khói tím buồn 
Vì chiều theo chân em sang bên kia đồi 
Nụ cười mang theo 
(...) 
Em có biết sau lúc em từ biệt 
Điếu thuốc cháy trên môi như người bạn chết 
Hơi nóng khô nhành củi gẫy tàn... 

Tình yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền còn là tình nhân ái, là lời yêu thương cho những con người cô độc, lẻ loi, trong bóng tối chảy thảm giọt lệ sầu. Thi sĩ khi nghĩ đến mình, đồng thời, chàng nghĩ đến những người xung quanh. Nhìn cuộc lênh đênh chìm nổi của người khác, chàng nghĩ đến cuộc lang thang, nỗi cô đơn của chính mình. Những mơ-ước-hoài-nghi-ngọt-ngào-cay-đắng-thiết-tha cứ thế quyện lấy trái tim chàng. 

Tôi biết những người khóc lẻ loi 
không nguôi một phút 
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình 
em biết không 
lệ là những viên đá xanh 
tim rũ rượi 

đôi khi anh muốn tin 
ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể 
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em 
đến ngày cuối 
đôi khi anh muốn tin 
ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế 
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em 
nguồn sữa mật khởi đầu 
đôi khi anh muốn tin 
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết 
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em 
vòng ân ái 
đôi khi anh muốn tin 
ôi những người khóc lẻ loi một mình 
đau đớn lệ là những viên đá xanh 
tim rũ rượi 

(„Lệ đá xanh“)

Trong ngôn ngữ tình yêu của Thanh Tâm Tuyền, những sợi tóc không còn chỉ là những sợi tóc, những sợi tóc đen như một chuỗi cười. Những giọt lệ không còn là những giọt lệ, nhưng lệ là những viên đá xanh. Và môi em là trái cây ngọt ngào. Cánh tay, thân thể em là cỏ hoa quyến rũ. Buổi chiều không còn đứng yên, nhưng chiều theo chân em sang bên kia đồi. Và bệnh viện mắt kín mưa đêm. Đêm trong thơ Thanh Tâm Tuyền, như thế, có một thân xác và một linh hồn. 

Đêm hiền từ nhỏ to trên trán 
Màu đen sáng đủ ngó vào nụ cười 
Có đấy không này em mưa chan hoà 
Trên ngực trên ngực em bát ngát 

Thân thể người con gái, người đàn bà trở thành một cái gì vừa cụ thể, gần gũi, có thể ăn cắn như một thứ trái cây, có thể ngửi được, vùi đầu vào được, sờ mó, nâng niu, vuốt ve được..., vừa trở nên một cái gì trừu tượng hoặc thanh thoát xa vời: 

Da trắng như tiếng hát ở trên trời... 
Anh cúi xuống hôn cánh môi tím màu đêm mà thương nhớ... 

Đừng trói anh vào trần gian bằng mắt em nhìn kia... 

Người đàn bà rũ tóc thành một cơn bão mặn 
Hương nồng chiều dòng kinh mùa hè... 

Tất cả những sự chuyển dịch, biến hoá từ hơi thở của tình yêu ấy luôn luôn kéo thi sĩ vào thiên nhiên. Một thiên nhiên khi thì trong xanh, bừng lên sáng sủa như một tiếng chim, nhưng cũng có những lúc cái thiên nhiên ấy lại chỉ hiện ra ở những hình thể sắc cạnh, chỉ là những khối gỗ, sắt vô tri. 

Trước hết, đây là thiên nhiên mềm, mở tung cửa sáng vào trời xanh. Tiếng mưa gõ nhịp lách tách vào mắt em. 

(...) 
Cửa sổ trời những mắt chưa quen 
trán hoang đồng cỏ 
run đường môi kỷ niệm 
đi qua những thành phố đầy tim 
cười đổ mưa một mình 

(„Của em“) 

Hay là thiên nhiên của mùa về với những bông mía trắng phất phơ hay đám lau buồn lắt lay trong gió. 

(...) 
Ai xui rằng mùa măng chưa tới 
Mà mùa về măng thôi chẳng ngọt 
Vườn măng rừng tháng sáu đêm sâu 
Muốn làm người học trò mười bảy tuổi 
Đạp xe trên đường đồng 
Bông mía trắng những căn nhà ngủ dưới cây... 

(„Bao giờ“) 

(...) 
Tuổi ấu thơ hòn cù lao xa khuất 
Và tình yêu như đám lau buồn 
Vàm sông nước xoáy như tiếng cười thầm 
Ở sau lưng ở trước mặt 
Anh thả người trôi nổi 

(„Sầu khúc“) 

Đó là những mảnh thiên nhiên hiền lành, thơ mộng, hoặc buồn bã, nhưng trong chúng, người ta vẫn thấy một cái gì thân mật, gần gũi. Nhưng đó là khi con người còn giữ lại được mình. Khi người ta cảm nhận được sự mất mát, xa lạ của mình đối với chính mình, khi người ta thấy mình đang bị cái thiên nhiên của sắt thép gỗ đá, của tiếng cơ khí chạm vào nhau và phát ra tiếng kêu của một loài sắt lạnh, của những cao ốc, những cột đèn... bao phủ lấy họ, người ta không còn thấy được nét mềm mại thơ mộng của thiên nhiên nữa. 

Anh sợ những cột đèn đổ xuống 
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta 
Bóp chết mọi hy vọng 
Nên anh dìu em đi xa 

Đi đi chúng ta đến công viên 
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối 
Ôi môi em như mật đắng 
Như móng sắc thương đau 
Đi đi anh đưa em vào quán rượu 
Có một chút Paris 
Để anh được làm thi sĩ 
Hay nửa đêm Hà Nội 
Anh (...) ôm em trong tay mà đã nhớ em 
ngày sắp tới. 
Chiếc kèn hát mãi than van 
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng 
Sao tuổi trẻ quá buồn 
Như con mắt giận dữ 
Sao tuổi trẻ quá buồn 
Như bàn ghế không bầy... 

(...) 
Anh đưa em đi trốn 
Những dày vò ngày mai 

(“Dạ khúc”) 

Khi người ta ý thức được tình trạng bị mất mát, bị xâm chiếm, bị tha hóa của mình thì người ta hoặc là chạy trốn, hoặc chống cự lại, hoặc là trở nên chai lì, mất hết rung động trước những hiện hữu quanh mình. Lòng trở nên dửng dưng, hoang vắng. 

(...) 
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông 
Mà lòng mình phơi trên kè đá 
Con thuyền xuôi 
Chiều không xanh không tím không hồng 
Những ống khói tàu mệt lả 

(“Bao giờ”) 

Trước một đời sống đang bị cuộn tròn vào tiếng cười của cơ khí, của tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát lầy lún mãi, tuổi thiếu niên chạy về nhảy múa trên tóc anh và gọi, có những lúc người thi sĩ đã dửng dưng một cách xót xa như thế, buổi chiều bây giờ trở thành dửng dưng, như lòng ta dửng dưng nhìn những ống khói cơ khí kia kiệt sức. Màu sắc thường làm dậy lên những rung động trong hồn người. Buổi sáng sắc xanh, buổi trưa sắc trắng, buổi chiều sắc tím, hay hồng. Cũng có khi yêu đời, người ta thấy buổi chiều sắc xanh, hoặc đang yêu người, ta thấy chiều lên sắc hồng; còn khi người ta buồn hoặc để lòng mình lãng mạn vu vơ bập bềnh tiếng sóng, người ta thấy chiều tím. Chiều 
không xanh không tím không hồng, ấy là chiều đã không còn chỗ trú ngụ trong lòng người. Chiều đã đi ra ngoài trí nhớ. Chiều đã trở thành một thực thể biệt lập, ngoại tại. Và chiều dửng dưng: 

Em biết không?
Em biết không? 
Trong ngục tù giam giữ những than van 
Người ta kêu một mình 
Thành tiếng động rửng rưng đống sắt rỉ hoen rơi đổ 
Não óc anh hàng chấn song nguyền rủa 
Khi em đi qua những đường phố dẫm nát những giấc mộng theo đòi 
Hy vọng dội lên trong mọi hồi trống rỗng 
Anh ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về chiều 
Khóc thờ ơ ngoài không trung... 

(“Sầu khúc”) 


[1]Bài này được viết vào năm 1986, khi Thanh Tâm Tuyền còn sống tại Việt Nam, chưa định cư tại Mỹ.
[2]Thật ra, có thể nói tính chất siêu thực thường không dung nạp lý tính. Siêu thực ở ngoài lý trí. Thế nhưng, những đoạn thơ mà nhiều người nghĩ có vẻ “siêu thực” nhất của Thanh Tâm Tuyền lại chứa đựng đầy lý tính. Và hình ảnh trong những bài này thường mang màu sắc ẩn dụ. Xin xem Liên-đêm-mặt trời tìm thấy ở các bài “Hơi thở”, “Thành phố”; “Bài không tên” ở trang 72, đoạn 10,; “Sầu khúc”, đoạn 5; “Từ chối”; “Bài không tên” trang 113-123.
Nguồn: Đăng lần đầu trên nguyệt san Văn Học, California, 1986. In lại trong Lý luận và phê Bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước 1975-1995 của Bùi Vĩnh Phúc, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1996. Đăng lại trên talawas với một số thay đổi và bổ túc của tác giả.\

Bùi Vĩnh Phúc
Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy
 1   2 
Nhưng Thanh Tâm Tuyền không để cho những tù ngục của mệt mỏi, dửng dưng ấy giam giữ ông. Ông bám vào tình yêu, vào sự lãng mạn của mình. Đó là chiếc chìa khóa giúp ông mở tung những cánh cửa của chán nản, của tuyệt vọng, của mệt mỏi, của sự đồng phục trong đời sống, của những sắt thép gỗ đá và những mệnh lệnh liên tiếp được dựng lên, tung ra để cầm nắm, để giam giữ tâm-ý-thể con người. Khuôn mặt tình yêu có trong sáng hay buồn bã, đôi mắt tình yêu có rạng rỡ hay thảm sầu, chàng thi sĩ vẫn tìm ra ở đó những phúc âm của đời mình. 

(...) 
Hãy ngửa khuôn cổ tròn như một cành hoa trắng, 
anh đeo vào đây vòng ca ngợi 
Hãy chìm mắt xuống những lớp nhớ nhung 
như biển lớn anh đang dâng 
Hãy đặt bàn tay mười ngón lửa 
sưởi lên môi anh từng lạnh giá bởi những lời đã thốt 
Anh sẽ hôn em, thời khắc hạnh phúc vẫn mong manh 

(...) 
Bởi con chim vẫn giam trong lồng ngực vừa được bay nên bay 
mau hơn ánh sáng, anh nhìn được mắt em tuyệt vời tận muôn nghìn quá khứ. 
Bởi con chim đã bay kịp thời-gian nên chậm lại, anh nhìn 
thấu hồn em trong suốt những mai sau. 
Bởi con chim còn xòe cánh liệng tròn, anh thâu nhận hết em qua vô vàn hình ảnh 

(“Liên-đêm-mặt trời tìm thấy”) 

(...) 

Anh đưa tiễn em, gửi theo những giấc mộng giấu kín hết đời. Em 
lên đường và anh chỉ còn chân tay tẻ nhạt vô duyên như xứ sở 
tang thương vì bom đạn. 

(“Chiều trên phi trường”) 

Trong tình yêu riêng của mình, Thanh Tâm Tuyền đã sống và chết trong đời sống như thế, đã hạnh phúc và đớn đau như thế, nhưng người thi sĩ ấy không để tình yêu che mờ hết những rung động khác trong con người chàng. Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi tự do. Tự do trong mọi thể thái của nó. Người thi sĩ ấy đã làm thơ, và thơ của ông trước tiên là một sự phá bỏ những xiềng xích cũ. Sự cân đối, mực thước, cùng nhịp điệu, lối gieo vần của những thể thơ cũ có lẽ đã cản trở Thanh Tâm Tuyền trong cách diễn đạt những tư tưởng vỡ bờ, những lề lối suy nghĩ nằm ngoài khuôn phép của ông. Thanh Tâm Tuyền muốn cho hơi thở mình được tự do, tư tưởng mình được phóng khoát, nên ông đã đẩy thơ tự do của ông, thời ấy, vào những con đường hết sức mới lạ. Dĩ nhiên là Thanh Tâm Tuyền không thể thoát khỏi ảnh hưởng của những trào lưu Tây Phương đang ghi những dấu ấn trên tâm thức của thanh niên thời đó. Nhưng việc ông can đảm đưa vào thi ca chúng ta thời ấy những thể mới, ý mới như ông đã làm cũng đã cho chúng ta thấy tính cách khai phá của ông. 

Trên đường đi tìm một tự do hằng khao khát, Thanh Tâm Tuyền, như bất cứ ai chọn cuộc lên đường đầy thử thách để tìm một dải đất mới cho mình, đã có những lúc phẫn nộ. Có những phẫn nộ chính đáng, trong đó có những mầm hạt cho một hạnh phúc ước mơ sau này. Có những phẫn nộ vô lý, vô cớ, không dựa trên một lý do chính đáng nào cả. Nhưng thật sự ra thì phẫn nộ, phản kháng là yếu tính của con người nghệ sĩ, của kẻ sáng tạo. Tôi thấy, ở một mức độ nào đó, sự phản kháng của Thanh Tâm Tuyền có một số nét gần gũi với cung cách phản kháng của Albert Camus. 

Trong Con người phản kháng (L'homme révolté), và trước đó, thể hiện trong Kẻ xa lạ (L'étranger), Camus đã trình bày ý nghĩa của cung cách phản kháng này. Nhiều người và nhiều nhà phê bình đã không hiểu rõ ý nghĩa phản kháng trong các tác phẩm của Camus nên đã đưa ra những bàn cãi và phê bình đi ra ngoài những điều ông muốn nói, và bởi thế, đã thất bại trong việc đánh giá các tác phẩm của ông. Bây giờ, sau khi những bàn cãi sôi nổi đã lắng xuống, Albert Camus đã chết, và tác phẩm của ông đã được xếp vào loại những tác phẩm chứa đựng những giá trị thâm sâu và nhân bản nhất của con người [1] , người ta mới nhìn kỹ hơn những ý nghĩa mà Camus đã mang đến cùng với từ “phản kháng” trong văn chương ông. Camus đã không dùng từ này theo nghĩa vẫn được chấp nhận. Sự phản kháng của ông không trực tiếp để chống lại cái khát vọng có tính cách lãng mạn để thăng hoa và tiêu diệt những giới hạn ràng buộc con người. Sự phản kháng này nhắm thẳng vào tất cả những âm mưu, những sức cản làm giảm bớt đi cái khả năng của con người trong việc nắm bắt những cơ hội để sống hạnh phúc trong vòng những giới hạn ấy. Những kẻ thù mà Camus vạch mặt và không ngừng chiến đấu để chống lại là tất cả những sức mạnh làm đông cứng, mô-mi-hoá con người, cho dù bất cứ những sức mạnh này ở dưới dạng nào - tinh thần, cá nhân, hay định chế - bắt nguồn từ sự vô cảm, mơ ngủ, hay từ những mạng lưới chằng chịt của các ý thức hệ, xanh hay đỏ, của thời đại này nhằm trói buộc và cầm bắt tâm-ý-thể con người. [2] 

Hãy đọc lại Hãy cho anh khóc bằng mắt em những cuộc tình duyên Budapest để thấy sự phản kháng này của Thanh Tâm Tuyền. Hay là đọc bài sau đây: 

Ngực anh thủng lỗ đạn tròn 
lưỡi lê thấu phổi 
tim còn nhẩy đập 
nhịp ba nhịp ba nhịp ba 
tình yêu tự do mãi mãi 

(...). 

núi cao uốn cây rừng 
nhịp ba nhịp ba nhịp ba 
tình yêu tự do mãi mãi 
đất nước ào ào vỗ nhịp 
triều biển chập chùng 
Hà Nội Huế Sài gòn 
ôm nhau nức nở 

(...). 

nhịp ba 

tình yêu
tự do
mãi mãi
tình yêu tự do mãi mãi 
tình yêu tự do mãi mãi 
tình yêu tự do 
mãi mãi anh ơi 

(“Nhịp ba”) 

Hoặc sự phản kháng của Thanh Tâm Tuyền trước những bất hạnh, những bất công, những bất túc của lương tâm con người. Trong lời phản kháng này, ta vẫn còn nghe ra một niềm hy vọng. 

Một người da đen một khúc hát đen 
Bầu trời đen sâu không cùng 
Những dòng nước mắt 

Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng 
Bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng 
Giữa rừng không lời rừng mãi trống không 

(...). 
Vì Blues không xanh vì điệu Blues đen 
Trên màu da nức nở 
Trong hộp đêm 
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình 
Ngón tay cấu lấy ống kèn như một bùa thiêng 

(...). 

thế giới va chạm những loài kim réo gọi 
Thời gian mềm 
không gặp thời gian 
Không gian quay thành những vòng kỷ niệm 
Rồi một buổi nào Blues hiện về xanh 

(„Đen“) 

Và sau đây là một cơn phẫn nộ vô cớ. Nào ai có biết tôi phẫn nộ gì. Cuộc đời này lúc nào cũng chật hẹp, tù túng, người nhìn người hau háu những móng vuốt giơ ra. Tôi phẫn nộ với tất cả mọi thứ đảo lộn hay đã được sắp xếp để đặt vào thế giới này. Hãy hét lên cho nguôi giận. 

Tôi buồn chết như buồn ngủ 
dù tôi đang đứng trên bờ sông 
nước đen sâu thao thức 
tôi hét tên tôi cho nguôi giận 
thanh tâm tuyền 
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi... [3] 

(„Phục sinh“) 

Ngôn ngữ của Thanh Tâm Tuyền mạnh và chắc; nhịp điệu sắc gọn ở những bài mang ý phẫn nộ. Trong những bài nói chuyện yêu đương chan chứa, những hình ảnh dịu được đưa vào đã giúp điều chỉnh giọng thơ. Chính Thanh Tâm Tuyền cũng có nói xa gần đến điều này khi bảo thơ tự do “không gieo vần lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác” [4] . Ngoài ra, cũng trong đoạn trình bày về thơ tự do, cũng như về thái độ, cung cách làm thơ của mình, như Võ Phiến đã dẫn trong Văn học Miền Nam, Tổng quan (Văn nghệ 1986), trong tập Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, Thanh Tâm Tuyền cũng nhắc đến một thứ nhịp điệu gọi là nhịp điệu của hình ảnh, một thứ nhịp điệu khác là nhịp điệu của ý tưởng, cả hai thứ này là sự thể hiện của nhịp điệu của ý thức. 

Tôi nghĩ là Thanh Tâm Tuyền cũng đã khá hào hứng khi nói về những bài thơ cũng như những khám phá của mình - mặc dù nhiều điều trong những suy nghĩ của ông rất đáng cho chúng ta lưu ý. Nhưng, thật sự, như tôi đã nhận xét ở trên, trong những bài có chủ ý rõ là nói về tình yêu nam nữ, tình yêu đôi lứa, Thanh Tâm Tuyền vẫn dùng những nhịp gãy, nhịp trắc trở, những dấu nhấn khác thường so với những thể thơ cũ. Nhưng những hình ảnh rất đẹp và lạ và mới trong những bài thơ này đã làm cho cả bài thơ mềm đi và bay lên như một tiếng chim vào cửa sổ trời mở rộng. 

Đọc kỹ, thật sự, ở một số bài, người ta vẫn thấy Thanh Tâm Tuyền còn sử dụng những vần hoặc nhịp điệu của thơ cũ. Những bài này không nhiều, nhưng vẫn có. Và vẫn rất đáng yêu. Hãy đọc lại năm câu thơ này: 

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông 
Mà lòng mình phơi trên kè đá 
Con thuyền xuôi 
Chiều không xanh không tím không hồng 
Những ống khói tàu mệt lả. 

(„Bao giờ“) 

Vần vẫn còn đấy, mặc dù nhịp điệu có được làm cho sai khác đi. Đoạn thơ sau đây cũng thế. Vần vẫn còn đó, nhưng nhịp điệu đã được chuyển hoá đi làm cho khác lạ, tạo nên những syncopes như trong âm nhạc. Những âm được sử dụng cũng là những âm chõi, cùng với những nhịp nhấn khác lạ, làm cho bài thơ toát ra một cảm giác buồn bực, dồn nét, bứt rứt. Tất cả những điều đó dọi phóng thành một cảnh buồn, chiếu mãi trong tâm thức người đọc. Những cảnh này được tạo nên bằng những bức ảnh đen trắng hoặc có màu xám xịt. Tiếng lóc cóc của vó ngựa trên đường về huyệt mộ và tiếng kèn harmonica nổi bật lên trong bối cảnh này. 

Khi đêm chạy trở lui 
Người nào thổi harmonica 
Tôi đến bằng mọi cách 
Tiếng kèn khóc oà 

Mưa bẩn sân ga 
Toa tầu hạng ba 
Chuyến xe hàng ốm yếu 
Thổ mộ con ngựa già 

Đường mòn đưa đến huyệt 
Đứa trẻ con thổi harmonica 
Trong hoàng hôn tóc rối 
Tiếng kèn khóa oà... 

(“Sầu khúc”) 


*


Tôi đã yêu thơ, đã làm thơ, và đã đọc thơ của nhiều người. Càng đọc nhiều tôi lại càng yêu nhiều. Càng yêu nhiều, tôi lại cứ muốn đọc mãi. Thơ làm cho ta yêu cuộc sống hơn, thiết tha với sự sống hơn. Nếu thơ không làm được những điều đó, không gợi lên trong lòng người đọc những tình cảm đó, thơ không đạt đến cứu cánh của nó nữa. 

Thơ Thanh Tâm Tuyền cho tôi nhiều cảm xúc. Mỗi lần trở lại với thơ ông, tôi đều tìm ra một nét gì mà tôi đã chưa hề thấy trước đó. Bởi những ý tưởng, những hình ảnh Thanh Tâm Tuyền sử dụng thường không nằm trong những ước lệ của tiếng nói hay của lối suy tư hàng ngày, ta thường không nhìn ra được hết cái chân diện mục của chúng. Gần gũi với trường phái thơ siêu thực của Pháp, những hình ảnh mà Thanh Tâm Tuyền sử dụng trong thơ ông cũng, phần nào, có tác dụng của những đường nét trong những bức tranh siêu thực của các hoạ sĩ thế kỷ 20. Dù sao, nếu nhìn dưới khía cạnh hội họa, tôi nghĩ chúng ta đều thấy rằng những “bức tranh cất tiếng” [5] của Thanh Tâm Tuyền có nhiều nét gần gũi với các bức tranh của những họa sĩ siêu thực lớp sau như Max Ernst, René Magritte, Salvador Dali, Pierre Roy... hơn là với những họa sĩ siêu thực lớp trước như Jean (Hans) Arp [6] . Nói về tính chất siêu thực trong văn chương, cũng như trong các thể thái khác, có lẽ không ai có thẩm quyền hơn André Breton. Ông định nghĩa: tính cách siêu thực là cái tính cách tự động thuần túy xét trên mặt tâm linh, qua đó, nó được diễn tả ra hết sức rõ ràng - bằng chữ viết, hoặc bằng bất cứ một thể thái nào khác - cái tiến trình tư duy thật sự của con người. Đây là tiếng nói của bất cứ một hình thái thẩm mỹ hay đạo đức nào. Được sáng tạo ra từ những thúc đẩy ở ngoài phạm vi luận lý và lấy chất liệu từ tiềm thức và từ những thị kiến nghệ thuật, các thi sĩ hoặc họa sĩ thuộc trường phái siêu thực đã sáng tạo nên những tác phẩm xuất phát từ những mơ mộng thuần túy của họ về một thế giới mà họ mong ước đạt tới. Tác phẩm của họ không còn nằm trong phạm trù thực tại mà đã bước chân sang một biên địa khác, có những lý tưởng, những ước mơ, và ngay cả những ảo vọng nữa. Đây là những con chim vô hình đập cánh và bay vào cõi vô biên, để rơi lại những tiếng hót vương vất trong cõi trần gian. 

Thơ Thanh Tâm Tuyền, ở một số khía cạnh, đã bay nghiêng về những vùng không gian đó. Còn ông, trong chốn trần gian tăm tối và đầy lệ thảm kia, nơi tất cả những tiếng nói bình thường của con người đang bị bóp nghẹt hay bóp méo, nơi những trái tim không còn được tiếp tục nhẩy đập những nhịp yêu thương cũ, ông sẽ ra sao? 

Những câu thơ tiên tri ngày nào có trở về trong đời sống kẻ thi sĩ? 

Những giấc ngủ xiềng xích 
Cuộc lưu đày thêm xa 
Tôi trốn về lẩn lút 
Đất đai không tìm ra 
Đâu cũng toàn quỷ sứ 
Riễu cợt tôi ngây ngô 

Cớ sao nhà ngươi khóc 
Muốn làm người là điên 
Con người thì cô độc 
Không phép thuật nhiệm mầu 

Tôi khóc mặc tôi khóc 
Bầy quỷ nhảy xung quanh 
Tôi khóc hoài tôi khóc 
Và chúng nó phát điên 

Chúng tước lấy tiếng nói 
Giam tôi trong bóng tối. 
Tôi khóc không ra lời 
Và tôi đi lang thang 
Tôi đi tìm tiếng nói 
Cho cổ họng của tôi 

(...).. 

Tôi nhìn người tuyệt vọng 
Tôi nhìn người khẩn cầu 
Linh hồn tôi rách nát 
Lời nói còn ở đâu .... 

(“Liên-đêm-mặt trời tìm thấy”) 


*


Thanh Tâm Tuyền, ngay trong những ngày xưa, thời ông còn được tự do làm thơ hạnh-phúc-yêu-thương-phẫn-nộ, đã cho thấy ông là một con người đã từng nếm nhiều trái-cây-đau-khổ. Tôi nghĩ là ông đã đọc nhiều, đi nhiều, thấy nhiều, cảm nhiều, mơ mộng nhiều, suy nghĩ nhiều, nhớ thương nhiều... Ông đã sống nhiều và ông đã trải đời sống mình ra thơ. Con người ấy, nhìn ở một góc cạnh nào đó, có những lúc ngạo mạn, vô lý, rừng rú, nhưng cũng có những lúc sôi nổi, thiết tha, đắm đuối, dịu dàng. 

Để tóm kết bài viết này, tôi muốn ghi lại những dòng chữ sau đây của Rainer Maria Rilke. Người thi sĩ Đức tài hoa và tha thiết ấy đã nói những lời hết sức thật và sống động về thơ, về sự làm thơ: 

Người ta phải chờ đợi và gom góp những cảm xúc và sự dịu ngọt của cả đời dài, có khi cả một đời người, tới lúc đó, ở cuối cuộc gom góp đó, người ta mới có thể viết được mươi câu thơ hay. Bởi lẽ, thơ, không phải như người ta tưởng chỉ là những cảm xúc giản dị, mà nó chính là kinh nghiệm. 

Để có thể viết được một câu thơ, người ta phải thấy bao nhiêu là thành phố, bao nhiêu là người là vật, người ta phải hiểu biết về loài vật, người ta phải cảm được sự sung sướng của con chim bay và biết được những cánh hoa nhỏ bé đã mở mắt chào đón bình minh như thế nào. Người ta phải có khả năng nhớ lại những con đường ở những xứ sở xa xôi mà người ta đã đi qua, những gặp gỡ bất ngờ và những chia tay xa tắp trong trí nhớ. Người ta phải có khả năng nhớ lại được những ngày niên thiếu với những dấu vết khó giải thích, nhớ lại những bậc sinh thành mà người ta đã làm cho đau khổ khi những bậc sinh thành này mang đến cho người ta niềm vui mà người ta không thèm đón bắt, nhớ lại những cơn đau yếu hết sức kỳ lạ bắt đầu bằng một số những thay đổi sâu xa và trầm trọng, nhớ lại những ngày người ta ẩn kín, im lặng trong phòng, nhớ lại những buổi sáng bên bờ biển, những biển hồ sông rạch, nhớ lại những buổi tối lang thang đã bay qua đời người ta rồi bay tuốt lên trời cao với những vì sao (...). Người ta phải có những kỷ niệm về những đêm yêu đương, không đêm nào giống một đêm nào, có những hồi tưởng về những tiếng la hét của phụ nữ trong khi sinh đẻ, và về những người đàn bà nhẹ hẫng, tái nhợt, nằm thiêm thiếp trên giường với em bé ở bên. Nhưng người ta cũng cần phải có kinh nghiệm ở bên cạnh một người đang chết, người ta cần phải có kinh nghiệm ngồi bên cạnh một người đã chết rồi trong một căn phòng có cửa sổ mở tung ra những cơn ồn ào từng chập. Nhưng chỉ có hồi niệm không vẫn chưa đủ. Người ta phải có khả năng để quên chúng đi khi chúng trở nên quá nhiều, quá đầy trong óc người ta, và người ta phải có lòng nhẫn nại để chờ cho đến khi chúng quay trở lại. Bởi vì đấy chưa phải là hồi niệm đâu. Chúng chỉ là hồi niệm khi chúng biến thành máu chảy trong trái tim, trong thân thể người ta, khi chúng trở thành cái nhìn và những điệu bộ, không tên tuổi và không còn có thể tách thoát, phân biệt khỏi chính chúng ta. Chỉ tới lúc đó người ta mới có thể bất ngờ, trong một thời khắc hiếm hoi nào đó, viết ra chữ đầu tiên của một câu thơ đang bắt đầu ngoi lên từ trong những vùng âm u mờ mờ sương đục của hồi niệm và chảy tràn ra ngoài. [7] 

Thanh Tâm Tuyền đã dâng hiến cho đời nhiều dòng thơ rất đẹp, những câu thơ đau khổ và phẫn nộ, hạnh phúc và thương yêu của ông làm cho ta chảy nước mắt. Nhưng nếu Thanh Tâm Tuyền chỉ có được mươi câu thơ hay, ông cũng xứng đáng cho ta yêu mến và cảm phục, bởi lẽ ông đã sống, đã tân toan trong đời sống, đã chịu đựng và gìn giữ tất cả để trở nên một thi sĩ. 

Hãy choàng vào cổ thi sĩ một vòng hoa và hãy để chàng ngồi giữa chúng ta trong cuộc đời này. 

Thi sĩ, hãy cho ta khóc bằng mắt anh những cuộc tình duyên và những đời người khốn khổ! 

1986 



[1]Trong một tiểu luận tựa đề là “Camus in America”, Serge Doubrovsky đã cho rằng Camus là một nhà văn vĩ đại của nước Mỹ. Và mặc dù Camus đương nhiên là một nhà văn lớn của Pháp, nhìn dưới khía cạnh quần chúng, ông vĩ đại hơn nữa trong lòng người Mỹ. Trường hợp đặc biệt và độc nhất của Camus được tạo ra do một sự liên đới cảm nhận và chia sẻ giữa Camus, tác phẩm của ông và quần chúng Mỹ. Cái chết đột ngột của Camus làm chấn động bất cứ một con người nào có suy tư. Chưa nói đến phản ứng của giới văn học, có nhiều người bình thường đã nước mắt đầm đìa khi nghe tin Camus chết; có những người khác thề nhịn ăn trong nhiều ngày. Trên nước Mỹ, nơi văn chương chỉ được coi là một hoạt động có tính cách phụ thuộc, cái chết của Hemingway và Faulkner không để lại những giọt nước mắt. Chưa nói là một tác giả ngoại quốc, một nhà văn nổi tiếng của Mỹ chết đi cũng không gây xúc động gì lắm trong lòng quần chúng Mỹ cho bằng cái chết của một tay chơi football hồi hưu. Trường hợp Camus là trường hợp đặc biệt và độc nhất (“Camus in America”. Trích N.R.F., XCVIII (01/02/1961), 292-296, Ellen Conroy Kennedy dịch ra Anh văn).
[2]Xem Germaine Brée, Introduction to Camus, Prentice Hall, Inc. 1962.
[3]Thật sự, Thanh Tâm Tuyền không phải là người đầu tiên tự gọi tên mình một cách đau khổ trong thơ. Trước đó, một nhà thơ khác cũng đã tự gọi tên mình một cách thống khổ như thế. Xem Federico García Lorca, “Thơ ở New York”, “Đất và trăng”. 

Quiero llorar porque me da la gana 
como lloran los ninos del último banco 
porque yo no soy un poeta, ni un hombre, ni una hoja 
pero sí un pulso herido (...) 
Quiero llorar diciendo mi nombre, 
Federico García Lorca, a la orilla de este lago... 

(Tôi muốn khóc bởi vì tôi muốn khóc 
như những đứa trẻ con khóc buồn trên những tay ghế dựa của những 
kẻ ngẩn ngơ 
bởi vì tôi không là thi sĩ, cũng chẳng là con người, chẳng là cánh lá 
nhưng chỉ là cái nẩy bật chảy máu của một vết thương (...) 
Tôi muốn khóc và gọi tên tôi 
Federico García Lorca, bên bờ hồ này... )

[4]Xem Liên-đêm-mặt trời tìm thấy, 1964.
[5]Chữ của Plutarch (diễn lại ý của Simonides): “Painting is mute poetry, and poetry a speaking picture”, Irving Babbitt, The New Laokoon, Boston and New York, 1910.
[6]Những họa sĩ siêu thực đầu tiên, trong nỗ lực diễn tả những kinh nghiệm nội tâm, ở bên ngoài ý thức, đã đi theo con đường sử dụng các kỹ thuật của tâm lý học hiện đại. Sơn hay mực được vẩy đổ trên vải vẽ không có một mục đích để tạo một hình thể rõ rệt nào trong óc người sáng tạo. Những mảnh giấy nhỏ cũng được xé ra và thả xuống mặt tranh, tạo nên những sự kết hợp bất ngờ. Nhà nghệ sĩ siêu thực hy vọng rằng những sự kết hợp bất ngờ đó có thể là chìa khoá mở toang cánh cửa tiềm thức của họ. Những họa sĩ siêu thực lớp sau phát triển tính cách siêu thực theo một kỹ thuật khác. Họ diễn tả lại cái thế giới của những giấc mộng mà họ có qua nỗ lực thực hiện những bức tranh tiến đến độ chính xác và rõ ràng như sự chính xác, rõ nét của một tấm ảnh chụp. Mặc dù có vẻ đứng ở một cực bên kia với những họa sĩ siêu thực đầu tiên trong kỹ thuật sáng tạo, những họa sĩ siêu thực lớp sau này cũng nhấn mạnh rằng hình ảnh trong tranh của họ là những hình ảnh tự phát, tự sinh, và có những liên hệ trực tiếp với những kinh nghiệm vô thức của thế giới nội tâm họ.
[7]Rainer Maria Rilke, The Notebooks of Malte Laurids Brigge, M.D. Herter Norton dịch ra Anh văn (W.W. Norton & Company, Inc., 1949).
NGUỒN : TALAWAS.ORG

Không có nhận xét nào: