Tưởng niệm
Trần
Đình Trường
ĐẠI
GIA KHÁCH SẠN MỸ
Doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1932 tại Hà
Tĩnh – Mất tháng 5. 2012 ở Mỹ (81 tuổi).
Ông chủ bên cạnh một khách sạn thuộc quyền sở hữu ở New York
Trước 75 là
chủ đội tàu biển lớn nhất miền Nam, làm giàu nhờ chuyên chở vũ khí, trang bị
cho quân đội Mỹ vào miền Nam đánh Cộng sản.
Đến biến cố
30.4.75 đã cùng vợ con (1 con trai, 2 con gái) di tản qua Mỹ. Trong cuộc biến
động lịch sử này tự nhận đã dùng đội tàu biển 24 chiếc của mình để chở người di
tản – cả dân Việt lẫn Mỹ – qua Mỹ, đến hơn 8.500 người. Tuy nhiên sau đó có
người phản bác nói thực sự không phải như vậy mà ông chỉ nhân đó đem theo cả
một “núi” vàng qua Mỹ!
Trên đất Mỹ
chuyển qua kinh doanh khách sạn tại New
York và nhanh chóng trở thành một trùm khách sạn tên
tuổi, chuyên mua những khách sạn cũ xuống cấp giá rẻ để tân trang lại phát
triển cả một chuỗi khách sạn. Còn xây một trung tâm thương mại VN tại Philadelphia. Trở thành
một trong số ít Việt kiều giàu nhất Mỹ với tài sản ước tính khoảng hơn 1 tỉ
USD.
Nhưng trong việc làm ăn này cũng từng mắc tai tiếng
là sử dụng khách sạn để chứa chấp tệ nạn xã hội như bọn buôn ma túy, gái mại
dâm. Từ đó thỉnh thoảng lại bị cảnh sát nhòm ngó, kiểm tra, thậm chí còn đưa ra
tòa nữa.
Dù vậy ra tòa lần nào cũng thoát nạn, có lần bị tuyên
án 20 ngày tù song kháng án được chấp nhận vô tội. Lý lẽ biện minh là do mình
có cho một số dân nghèo không nơi cư trú ở khách sạn không lấy tiền nên bị hiểu
lầm, rằng mình bị cảnh sát Mỹ kỳ thị chủng tộc…
Năm 2001 sau vụ khủng bố 11.9 đã tặng Hội Chữ thập đỏ
Mỹ 2 triệu USD đồng thời còn cho các tình nguyện viên làm công tác dọn dẹp đống
đổ nát 2 tòa tháp bị máy bay khủng bố
đâm sập ở khách sạn miễn phí. Những khi người Việt tụ tập về New York họp hành, gặp mặt hội hè đều sẵn
lòng tiếp đón, hỗ trợ. Năm 2004 được nhận giải thưởng vinh danh trong cộng đồng
Việt kiều Mỹ.
Bí quyết thành công trong sự nghiệp kinh doanh từ VN
đến Mỹ: “Tất cả chỉ tập trung vào 2 chữ cố gắng. Cố gắng làm việc thì tất yếu
dẫn tới thành công. Tầng lớp nào, nghề nghệp nào cũng vậy thôi. Vừa cố gắng làm
việc vừa học hỏi tiến bộ…” Ap dụng thực tế với nhà tỉ phú Việt kiều này ấy còn
là sự khôn ngoan, nhạy bén biết “nhập gia tùy tục” đặc biệt là phải nắm luật
(Mỹ) để có thể “lách” luật.
Cuối đời bệnh tuổi già bị đột quỵ nằm liệt mấy năm
trước khi mất.
1.131
- Đặng Thị Cừ
80
TUỔI BÁN HÀNG RONG NUÔI CON TÂM THẦN
Lao động nghèo sinh 1931 tại Hà Nam.
Sống ở Hà Nam
(2012).
Lấy chồng
cùng quê sinh được 3 con (2 gái 1 trai) thì chồng nhập ngũ vào Nam
chiến đấu.
Năm 1968
nhận được tin báo tử chồng đã hy sinh không tìm thấy mộ. Còn lại một mình vất
vả chạy vạy tứ phương mưu sinh nuôi con.
Con cái lớn
lên, 2 con gái đầu đi lấy chồng xa hoàn cảnh cũng khó khăn chẳng giúp đỡ gì mẹ
già. Con trai út năm 1983 vào bộ đội nhờ thời bình nên năm 1986 được cho xuất
ngũ.
Không ngờ
về nhà, anh con trai bắt đầu có dấu hiệu tâm thần phá nhà phá cửa, bỏ đi lang
thang điên điên khùng khùng. Mẹ già chạy đôn chạy đáo nhờ người chữa bệnh vẫn
không khỏi.
May sao nhờ
thời gian qua đi, đến năm 2000 bệnh con trai đỡ dần, có khi cũng thấy tỉnh trí
lại. Từ đó lấy được vợ cùng xã cũng là người thuộc dạng trí óc chậm phát triển,
sinh được 1 trai 1 gái.
Nhưng sau
khi có đứa con thứ hai năm 2011, bệnh cũ tái phát đánh đập vợ con, tới mức có
lần suýt đốt nhà! Vợ sợ quá ôm con về bên ngoại.
Thế là chỉ
còn mẹ già lại nai lưng ra nuôi đứa con trai 46 tuổi tâm thần bất định nhưng bà
đã hơn 80 tuổi biết làm gì kiếm tiền trong khi trợ cấp Nhà nước chẳng đủ chút
nào. Đành bán nhà rồi dắt con dở người lang thang lên Hà Nội bán rong hàng lặt
vặt ngoài chợ nhỏ kiếm sống qua ngày, tối về 2 mẹ con ngủ đầu đường xó chợ.
Vậy mà mẹ
già cứ canh cánh bên lòng nỗi lo mình mất đi thì thằng con dại khờ biết sống
cậy nhờ ai đây?!
1.132
- Thiênna Hồ
KỶ
LỤC GIA THẾ GIỚI “THỤT DẦU”
Tiến sĩ, doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh
1968 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1978
lúc 10 tuổi cùng gia đình vượt biên đường biển, bị hải tặc tấn công 5 lần may
mà sống sót cập bến Indonesia
rồi được Mỹ tiếp nhận.
Lớn lên tốt
nghiệp đại học nhiều ngành kinh tế, thương mại, sinh hóa lẫn dinh dưỡng ra lập
công ty thành đạt từ năm 27 tuổi.
Vốn đa năng nên cùng lúc còn siêng năng tập luyện thể
dục để giữ gìn sức khỏe qua đó mê say tập bài phạt “thụt dầu” (Sumo squats -
thường áp dụng trong quân trường rèn luyện tân binh) với động tác đứng lên cúi
xuống nhiều lần liên tục trong tư thế chuẩn là phải đứng tấn 2 chân mở rộng rồi
co đầu gối cúi cong lưng xuống rồi đứng lên vươn thẳng người. Ban đầu do người
bố vốn là một võ sĩ đai đen hướng dẫn.
Chuyên cần rèn luyện như vậy 3 lần mỗi tuần
(500-1.000 lần trong 30-45 phút) từ năm trên 20 tuổi, nhờ đó đã đạt tới thành
tích thực hiện được 5.384 lần Sumo squats trong vòng 1 tiếng đồng hồ đáng kể là
chưa ai làm được. Kể cả nhà Vô địch Thế giới môn này Attila Hovarth vận động
viên đẩy tạ 2 lần dự Olympic 1992 – 1996 của Hungary với kỷ lục 4.656 lần/giờ.
Để chính thức hóa việc phá kỷ lục của mình, ngày
16.12.2007 bà đã biểu diễn tài nghệ này trước sự chứng kiến của đông đảo người
hâm mộ và cả Ban Biên tập Kỷ lục Guinness Quốc tế tại sân vận động của ĐH San
Francisco ở California: Hoàn tất 5.135 lần “thụt dầu” đúng quy cách trong chỉ 1
tiếng đồng hồ (kém thành tích cao nhất của mình phần nào do lúc này đã gần 40
tuổi).
1.133
- Thích Minh Châu
CẦU
NỐI PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo sinh 1920 tại Quảng Nam.
Sống ở TPHCM (2012).
ĐH Vạn Hạnh đương nhiên truyền bá tinh hoa tư tưởng
PG tập trung nhiều giáo sư và sinh viên gốc miền Trung theo đạo Phật mang sẵn
tinh thần dân tộc, từ đó dễ chuyển dần qua khuynh hướng thiên tả, thân Cộng
chống chế độ Thiệu – Kỳ. Vì thế không lạ sau 30.4.1975 được chính quyền Cộng
sản khá ưu ái.
Từ đó vị viện trưởng cũ tỏ rõ theo phái chủ trương
“sống chung” hợp tác với Cộng sản do các hòa thượng lãnh đạo PG miền Nam lúc đó
Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh dẫn đầu đối lập với phái PG chống đối Cộng sản
của hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ.
Bản thân nhờ trình độ trí thức cao, khả năng ngoại
giao linh hoạt được cử làm đại diện làm việc trực tiếp với chính quyền Cộng
sản. Tích cực tham gia vận động thành lập giáo hội PG mới thiên Cộng là Giáo
hội PG VN (giữ chức vụ tổng thư ký) đối
lập với giáo hội cũ là Giáo hội PG VN Thống nhất chưa chịu chấp nhận Cộng sản
(xem như bị cấm hoạt động, sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời hầu như
đã “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”!).
Nhờ đó được
chính quyền cho chuyển ĐH Vạn Hạnh thành Viện Phật học Vạn Hạnh rồi lập thêm
trường Cao cấp Phật học VN, Viện Nghiên cứu Phật học VN.
Sau khi đã
làm được một số việc nhằm bảo vệ và hoằng dương đạo pháp (nổi trội về mặt giáo
dục) như trên trong tình thế thời cuộc rất khó khăn, đến cuối đời lặng lẽ rút
lui về ở ẩn chuyên lo tiếp tục biên soạn, dịch thuật kinh sách với hơn 30 tác
phẩm đã hoàn thành.
1.134
- Thích Quảng Độ
PHẬT
GIÁO CHỐNG CỘNG QUYẾT LIỆT NHẤT
Tu sĩ Phật giáo tên thật Đặng Phúc Tuệ
sinh 1927 tại Thái Bình. Sống ở TPHCM (2012).
Sau 1975
cùng hòa thương Thích Huyền Quang viện trưởng Viện Tăng thống đối lập với chính
quyền Cộng sản, đòi quyền tự do tôn giáo thực sự.
Vì thế đã
nhiều lần bị chính quyết bắt giam, thậm chí đưa ra tòa lãnh án tù: Năm 1977 bị
bắt giam ở TPHCM rồi đưa ra tòa nhưng do sức ép công luận quốc tế nên không kết
án; năm 1982 lại bị bắt đưa về quản thúc tại quê nhà Thái Bình; năm 1992 được
cho về lại TPHCM song qua năm 1994 viết tài liệu cáo buộc chính quyền đàn áp PG
(cả gửi thư lên Tổng Bí thư Đỗ Mười lúc đó) nên 1995 bị bắt lần nữa đưa ra tòa
chịu án 5 năm tù; đến 1998 được trả tự do trước thời hạn; tuy nhiên 1999 ra
Quảng Ngãi vận động Phật tử đấu tranh liền bị bắt áp tải về TPHCM, từ đó xem
như bị quản thúc tại chỗ ở nơi mình trụ trì là Thanh Minh Thiền viện.
Năm 2008
sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch, được cử làm quyền Tăng thống.
Đến cuối năm 2011 trong Đại hội PGVN Thống nhất tổ chức ở Mỹ mới chính thức
được suy tôn làm Tăng thống Giáo hội PGVN Thống nhất (đệ ngũ Tăng thống) trên
danh nghĩa vì giáo hội này từ lâu không được chính quyền hiện tại công nhận.
Hơn nữa, do tuổi già nên cũng không còn phát triển hoạt động mạnh mẽ như trước
kia.
Vì các hoạt
động tranh đấu cho quyền dân chủ và tự do tôn giáo nên được một số tổ chức nhân
quyền quốc tế trao giải nhà vận động dân chủ như tổ chức Thorolf Rafto của Na
Uy năm 2006, tạp chí A Different View ở Châu Au năm 2008 nhưng đều từ chối đi
nhận giải vì ngại sẽ không được phép trở về nước nữa.
1.135
- Thích Trí Thủ
DẪN
ĐẦU PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo tên thật Nguyễn Văn Kính
sinh 1909 tại Quảng Trị – Mất 1984 ở TPHCM (76 tuổi).
Sau khi chế độ này bị lật đổ, vào Sài Gòn làm viện
trưởng Viện Hóa đạo được xem như cơ quan “hành pháp” của Giáo hội PGVN Thống
nhất (bên trên còn Viện Tăng thống đóng vai trò tương đương cơ quan “lập pháp”
của Giáo hội).
Sau ngày Công sản toàn thắng, bản thân theo chủ
trương chấp nhận hòa hợp tôn giáo với chính quyền mới khác với Viện Tăng thống
do hòa thượng Thích Huyền Quang dẫn đầu đấu tranh đòi PG độc lập với chính
quyền, thậm chí đi đến chỗ chống đối mà đại diện hiện nay là hòa thượng Thích
Quảng Độ.
Từ đó năm 1977 từ bỏ giáo hội cũ là Giáo hội PGVN
Thống nhất để tham gia vận động thành lập Giáo hội PG mới là Giáo hội PGVN và
nhận chức Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội (giống Viện Hóa đạo trước
kia).
Trong giai đoạn khó khăn PG phải đối đầu với chế độ
Cộng sản “vô thần”, đã đóng vai trò trung gian quan trọng mà tế nhị bảo vệ đạo
pháp vẹn toàn theo chính kiến riêng của mình tương tự cố Tổng Giám mục Sài Gòn
– Nguyễn Văn Bình bên Thiên Chúa giáo.
1.136
- Tô Kiều Ngân
KHÔNG
ĐI H.O
Nghệ sĩ ngâm thơ tên thật Lê Mộng Ngân
sinh 1926 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TPHCM (2012).
Bị gọi đi
lính, ra trường sĩ quan chuyển về ngành tâm lý chiến.
Từ đó sau
75 mang lon trung tá phải đi cải tạo dài ngày.
Nhưng sau
khi được trả tự do đã chấp nhận ở lại cùng gia đình không đi Mỹ theo diện H.O.
Trở lại đời
thường sống đời thanh thản tìm vui qua những hoạt động văn nghệ thầm lặng như
ngâm thơ ghi đĩa, ngâm thơ phổ biến trên mạng, làm thơ nhắc nhớ kỷ niệm quê nhà
Huế, nghiên cứu ca Huế, viết báo, viết sách dạy học thổi sáo, ngâm thơ, thổi
kèn harmonica…
1.137
- Tô Thùy Yên
BÀI
THƠ LỚN TÙ CẢI TẠO
Nhà thơ tên thật Đinh Thành Tiên sinh
1938 tại Gò Vấp, TPHCM. Sống ở Mỹ (2012).
Học ĐH Văn
khoa Sài Gòn, làm thơ từ đó gia nhập nhóm Sáng Tạo gồm đa số nhà văn miền Bắc
di cư thành lập tạp chí văn nghệ cùng tên vận động mở đường cho trào lưu xây
dựng nền VHNT mới cho miền Nam tự do dân chủ.
Trong đó phần mình có đóng góp đáng kể cho thể loại
thơ tự do, cùng với Thanh Tâm Tuyền được xem là hai nhà thơ tiên phong của trào
lưu này. Tác phẩm thơ thường làm những bài dài mang tính tự sự triết lý sâu xa.
Năm 1963 bị gọi nhập ngũ, ra trường làm sĩ quan tâm
lý chiến.
Vì vậy sau 30.4.75 mang hàm thiếu tá phải đi cải tạo
hơn 10 năm.
Tuy nhiên sau khi được thả ra còn bị bắt thêm 2 lần
nữa vì tình nghi chống đối chế độ cộng sản song mỗi lần chỉ giam giữ khoảng một
năm thôi.
Trong thời gian trở về từ trại cải tạo đã sáng tác
bài thơ dài “Ta về” 124 câu đáng kể là khúc trường ca thơ bi tráng về chủ đề tù
cải tạo có chất luợng, giá trị nhất của các nhà thơ VNCH cũ. Bài thơ đã sớm
được chuyển qua Mỹ phổ biến, được nhạc sĩ Cung Tiến bạn thân thiết phổ nhạc năm
1992. Nguyên văn:
Ta
về
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa.
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi.
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời.
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta.
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa.
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi .
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu.
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên.
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa.
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi.
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đa khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.”
Năm 1993 cùng vợ con qua Mỹ định cư theo diện H.O, để
lại người vợ sau – một nhà văn có tên tuổi - cùng một con gái mắc bệnh dộng
kinh trầm kha.
Trên đất Mỹ tiếp tục làm thơ, xuất bản 2 tập “Tuyển
tập thơ Tô Thùy Yên” 1995 và “Thắp tạ” 2004.
1.138 - Tô Tiến Hòa
3
ĐỜI NHIỄM CHẤT ĐỘC DA CAM
Nông dân sinh 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà
Nội (2007).
Bộ đội trên
chiến trường Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế, bị thuơng nên được đưa ra Bắc an
dưỡng năm 1972 rồi xuất ngũ về quê làm ruộng.
Lấy vợ sinh
con bị dị tật, teo cơ, da lỡ loét do nhiễm CĐDC. Con lớn lên lấy vợ sinh con
cũng bị khuyết tật không có chân, các ngón tay dính vào nhau…
Bản thân
ông về già cũng phát tác di chứng về CĐDC gây đau đầu, da lỡ lói, mắt mờ, tai
điếc. Nhưng vì thương cháu quá ham học nên hàng ngày phải chịu khó cõng cháu
đến trường xin học…
1.139
- Tô Văn Khải
MỘT
ĐỜI CÕNG CHA MẸ
Lao động nghèo sinh 1971 tại Tây Ninh.
Sống ở TPHCM (2007).
Trong thời
chiến tranh chống Mỹ, gia đình sống trong vùng chiến khu Tây Ninh nên cha mẹ bị
nhiễm CĐDC lúc nào không hay (còn 4 ông bác ông chú đều là liệt sĩ). Cha bị phù
thủng, suy nhược toàn thân; còn mẹ bị trúng miểng bom trong một trận bom Mỹ làm
2 chân co rút lại bại liệt và thần kinh bất ổn nhiều khi mê mê tỉnh tỉnh như
người mất trí.
Ngoài ra
còn thêm 2 em gái cũng mắc bệnh bại não cứ gặp trời nóng lên là lên cơn động
kinh phá phách, cấu xé cả bản thân mình.
Vì thế từ nhỏ đã phải đi bòn mót khoai sắn ngoài
đồng, thậm chí còn lượm phân bò đem bán cho nông dân giúp cả nhà thêm miếng cơm
cầm hơi.
Năm 1989 gia đình chuyển về sống ở Củ Chi mong “đổi
đời” thoát khỏi ám ảnh chiến tranh u ám. Nhưng cảnh nhà vẫn không khá hơn được
chút nào do chỉ có một mình mình còn sức khỏe đi ra ngoài làm thuê, tối về cặm
cụi đan rổ rá kiếm thêm chút tiền nuôi cha mẹ và 2 em gái. Khi cha mẹ và 2 em
lên cơn đau vẫn chỉ một mình lo cõng chạy băng đồng lên trạm xá, chữa trị qua
loa về nhà nếu có ai còn lên cơn thì lại cõng đi vòng vòng quanh sân để cho…
dịu bớt cơn đau!
Riết rồi chịu không thấu, đến lượt mình bệnh nằm dài
cả tháng, thế là cả nhà… đói! Đẩy vào chỗ tuyệt vọng tới mức có lần định cùng
cả nhà… uống thuốc trừ sâu chết đi cho xong, may mà cuối cùng kịp tỉnh lại đem
giấu chai thuốc trừ sâu không cho ai biết.
Hoàn cảnh bi đát tận cùng như thế mà lại còn phải làm
thêm một nhiệm vụ báo hiếu nữa theo yêu cầu của cha là… lấy vợ để dòng họ khỏi
bị tuyệt tự!
Cũng lấy được vợ nghèo như mình rồi cũng sinh được bé
gái đầu lòng. Đến đó mới nảy ra mối lo nữa không biết cháu có bị ảnh hưởng hậu
quả CĐDC hay không khi đến hơn 2 tuổi vẫn chưa biết nói. Ông bà, cha mẹ lo lắng
như ngồi trên lửa, may mà đến 3 tuổi thì bé nói được ai cũng mừng không kể
xiết.
Tuy nhiên vui mừng chưa được bao lâu thì đại tang kéo
đến, đầu tiên một em gái lên cơn động kinh nặng không qua khỏi rồi kéo theo bà
mẹ đau lòng quá cũng ra đi theo chân con. Với lời trăng trối để lại cho con
trai duy nhất ráng lo tiếp cho cha và em gái được lúc nào hay lúc đó.
Thế là bây giờ lại tiếp tục cõng cha cõng em đi cho
hết quảng đời còn lại.
Dù sao nay cũng còn được niềm an ủi là có đứa con gái
nhỏ chạy lẫm chẫm theo sau cha cõng ông bà bi bô gọi “ba ba” trong khi lẽ ra em
mới là người được cha cõng trên vai!
1.140
- Tod Adamson – Jennifer Arias
QUÊ
VIỆT NỐI NHỊP CẦU TÌNH YÊU
Cặp vợ chồng Mỹ sinh tại Việt Nam.
Sống ở Mỹ (2012).
Chồng là
con lai Mỹ bị cha Mỹ bỏ rơi, sinh ra lại bị bại liệt nên mẹ Việt đem cho trại
mồ côi ở Đà Nẵng trước 1975, được trại đặt tên Việt là Trường Thắng. Tháng
4.1975 được máy bay Mỹ đưa qua Mỹ trong chiến dịch “giải thoát” trẻ mồ côi mang
tên Babylift (khoảng 2.000 em qua Mỹ và 1.300 em qua Canada, Uc, Châu Au).
Vợ cũng là
con lai Mỹ bị mẹ đem bỏ rơi trước Viện Cô nhi ở Sài Gòn, được các bà xơ nuôi
nấng đặt tên Việt là Phương Hồng Lan. Cũng qua Mỹ trong chiến dịch Babylift.
Năm 2000 cả
hai đều tìm về thăm lại quê mẹ sau bao năm xa cách, gặp nhau trên cùng chuyến
bay từ đó nảy sinh tình yêu. Trở về Mỹ làm đám cưới năm 2001.
(Còn
tiếp)
http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hosohauchienky113
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét