Những ca khúc có mùi vị sũng nước mùa mưa của hai hàng cây ôm hôn nhau dọc đường Lê Lợi trong những ngày thành phố Huế về đêm hoặc không có, hoặc chỉ có một vài ngọn đèn đường vàng vọt.
Những ca khúc có mùi vị của chuyến tàu về
muộn trên sân ga, có người em trở về mệt mỏi, có người bán hàng vừa tất bật vừa
sợ hãi, những cô cậu sinh viên áo quần ướp mùi oi nồng ngai ngái của những toa
tàu đầy ăm ắp người và hàng hoá, chạy lây lất lúc nhanh lúc dừng gần như là hên
xui, mà hành khách cứ thở phào bởi con tàu chỉ trễ vài ba tiếng chứ chẳng phải
bốn năm ngày.
Những ca khúc ấy còn đượm hương nồng của mùi
rượu sắn chở ra từ Quảng Ngãi, của tình huynh đệ buổi chiều đạp xe hoặc đi bộ
tìm nhau rồi gặp nhau bên chân cầu Gia Hội, những đêm trăng nghiêng ngả nằm cùng
nhau, gối đầu trên xe đạp bên lề cầu mới, nằm nghêu ngao đọc thơ hay khoe nhạc
đề của bài hát đang viết, rồi nói như sanh như sứa chuyện triết Đông triết Tây,
chuyện Bài giảng trên Núi hay chuyện lắng nghe âm thanh tiếng vỗ của một bàn tay.
Những ca khúc ấy có ân tình của những người
con gái cô đơn mà đôi mắt ngây nồng màu ước nguyện, bên những công việc lam lũ
ban ngày kiếm sống, đêm đêm về ngồi hát với chúng tôi, chịu khó ngồi nghe chúng
tôi lảm nhảm bên tách trà như những kẻ vĩ đại một cách đê hèn, những con người
kiêu hãnh một cách nhát gan, thấy ông công an, thấy ngài văn nghệ nhà nước thì
nép mình tránh né như loài gián thấy ban ngày.
Nhưng Ca khúc Cao Hữu Điền, mặc dù được viết
ra nhiều trong khoảng thời gian đó, sau năm 1975, lẫn bên trong những
mùi vị
kia
hãy còn đọng lại một chiều sâu tâm thức vô bờ của người lữ hành luôn vén lộ giữa
nhân gian cho riêng mình từng con đường nguyệt bạch, từng lối cỏ trong sương.
Anh đã đi từ tuổi thơ u buồn, trong vòng tay
khắt khe của người mẹ kính yêu nhưng không là mẹ đẻ, đã trầm uất điên khùng rồi
từ bỏ Y khoa Đại học.
Anh trở thành thầy giáo sau đó. Rồi Quảng Trị,
rồi Sài Gòn, Đà Nẵng, dạy học, đánh đàn, viết báo, đi Tây, vấn thuốc lá dỏm, bán
hàng rong, rong chơi cùng trí thức, bè bạn với cả chú bé đánh giày, người dán áo
mưa, chia rượu cùng những gã xích lô nhốt cả bầu trời thơ mộng dưới gầm xe trên
dặm đường gió bụi.
Rồi anh dẫn Tây đi dọc đường Nam Bắc, đến cả
những buôn làng miền Bắc xa xôi hay những cánh rừng tràm cuối miền Nam bộ, miệng
nói như nhu cầu phải nói, nhưng thầm lặng sững sờ trước hoàng hôn bên vạt cỏ
chiều, cô đơn nhả khói thuốc vào đầu sông sương bạc, lòng rưng rưng nghe giọng
hót sau cùng của một cánh chim khản giọng bên cánh rừng rỉ máu. Đi như một sinh
kế, hay đi như một người không muốn đến? Đi để ngắm nhìn hay đi để chiêm nghiệm?
Đi để thấy những chiều phai tóc trắng, hay đi để lưng chừng trong giọt máu phiêu
lưu?
Và giờ đây, anh không còn đi lại xa xôi nữa
khi bàn chân đã yếu, nhưng anh vẫn tiếp tục lộ trình kia trong tâm tưởng. Bởi đi
là sống, và đến là chết, nên anh trở về thành phố Huế thân yêu, ngắm vệt nắng
cuối ngày bên đám cỏ úa vàng ở góc đường hàng me cũ, tiếp tục mộng du, tiếp tục
đi và thở như kẻ lãng mạn sau cùng suốt cuộc đời thèm đi và thèm thở. Thỉnh
thoảng, anh mỉm cười vì nhớ rằng mình đã từng là người này hay kẻ nọ trong đôi
mắt ai kia.
Anh là nhạc sĩ ư? Không! Anh có là thi sĩ, là
triết gia? Cũng không! Dường như, đối với những tâm hồn sung mãn, bất cứ sự đóng
khung vào danh hiệu nào cũng chính là không còn đi nữa, và cũng chính là khi họ
tự trói mình trong hạn cuộc khô cứng của ý niệm khen chê đầy chết chóc…
Và tôi, tôi hát những bài hát của anh, một
vài người bạn cất lên bài hát của anh ở một góc buồn nào đó giữa mặt đất quạnh
hiu này. Những sắp xếp hoán vị của 7 nốt nhạc theo tự tình kia có thể không hài
lòng ai đó, nhưng nó ý nghĩa làm sao cho những người đã yêu anh và từng được anh
yêu mến. Và họ, và những người như tôi, hãnh diện cất lên từng giai điệu bỗng
trầm kia như cất lên bài ca chan chứa của kẻ yêu trần gian mà chẳng dám cầm tay.
Anh Cao Hữu Điền thân yêu ơi, anh nghe không,
ở một nơi đó, có người trở về…
Về để làm gì hở anh? Quy hà, quy hà vi?...Nguồn : art2all.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét