Thi khúc -sonnet- là thể thơ
14 câu xuất hiện ở Ý Đại Lợi vào thế kỷ thứ 13 do thi sĩ Francesco Petrarca
(1304-1374) khởi xướng. Sau đó William Shakespeare
(1564-1616) chụp lấy cơ hội, cảm hứng qua thi khúc gồm có 154 bài thơ; hầu hết
những bài thơ viết ra như lời dâng tặng cố nhân. Từ đó thể cách nầy thịnh hành
và ảnh hưởng một số nhà thơ Âu châu. Dựa theo khuôn phép thi khúc Ý. 8 câu đầu
gọi là ’octave’ khoảng cách cho đoạn thơ hay đoạn âm của 8 dòng thơ. 6 câu cuối
gọi là ’sestet’ là bài thơ chấm dứt cho một thi khúc.(4/4 là đoạn âm. 4/2 là kết
âm). Là một bài thơ trọn vẹn cho thể thơ nầy.
Thi khúc là một đỉnh cao đáng ghi nhớ và ngợi ca, một lãnh vực trình diễn,
một hội trường thay đổi đột ngột về thơ tứ. Trong một không gian hạn hữu, một
truyền lưu được ghi chép, đánh thức bằng một nhạy cảm hợp lý, một sức công phá
mãnh liệt đưa thi ca bước vào giai đoạn mới đầy sinh động và làm ngạc nhiên không
ít một số trường phái xưa cũ, đánh đổ thứ ’từ chương tích cú’.Với 14 câu thơ dàn
trải khá đều đặn cho nguồn thơ xuất phát, một thử thách vừa là cơ hội để phát
tiết đầy đủ kỷ thuật cho ngôn ngữ và chứa đựng hồn khí của thi ca.Thi khúc bị tấn
công vào hai mặt nghệ thuật và tương phản: chấp nhận hay bỏ cuộc; thi nhân có đồng
quan điểm cái niêm luật của loại thơ 14 dòng nầy một cách thông dụng như đã đề
ra? Bước đầu của thi khúc được coi là một đối kháng không ngừng giữa những lý
do luật lệ và luật tình yêu, đó là vấn đề yêu sách mong được giải quyết, điều đó
không thể quyết định bởi một đạo luật nào đưa ra mà chưa hẳn tìm thấy thỏa mãn
một cách đầy đủ, nếu như chưa đều hòa, duy chỉ có nhà thơ.
The earliest sonnets record the unceasing conflict
between the law of reason and the law of love, the need to solve a problem that
cannot be resolved by an act of will, yet finds its fulfillment, if not its
solution, only in the poem…The poet experiences the illusion of control and the
illusion of freedom, and from the meeting of those illusions creates the
reality of the poem.
Đối với thi nhân kinh nghiệm của họ là kiểm soát được ảo
giác và ảo giác tự do để rồi hòa nhập hai thứ ảo giác đó mà đưa nguồn sáng tạo
sống thực vào thi ca.
Thế thì làm sao cho thi khúc lôi cuốn cả hai giữa người
đọc và người viết? –Không những chỉ là một (cảm xúc) cho thể thức của thơ với một
dự tính trước chiều dài của bài thơ, một biến đổi, dung hòa khéo léo cách xử dụng
giữa ý và lời từng câu thơ. Thi khúc là khắc ghi lối hành văn của 14 dòng thơ
như thể là lời giới thiệu sự chuẩn mực cho một thi khúc: đó là chân dung trí tuệ,
một hướng dẫn tối thiểu qua sự diễn trình của xúc cảm, ấy là điều nói lên được
cái cảm thức mà chúng ta tiếp nhận và lãnh hội. Nhưng nhớ rằng mỗi khi đụng đến
thi ca, người ta thường ngạc nhiên trước những khám phá phi thường, mới lạ, một
sự khác biệt về cách ‘trị liệu’ của thể cách thi khúc nầy.
Đó là những gì dễ dàng nhất khi nói về thi khúc(sonnet);
thi nhân xử dụng một ngôn từ mới, trong khuôn khổ 14 câu thơ, cô đọng nhưng hàm
chứa, đặc biệt vần điệu đan kết vào nhau và một phương thức có hệ thống, dội vào
một hình ảnh qua tư tưởng để rồi trở thành mẫu mực của thể thơ 14 câu nầy. Tất
cả ý và lời được dàn xếp trong từng đoạn thơ đơn độc (a single stanza) và sắp xếp
thành bốn phân đoạn (quatorzain). Dù cho thi khúc là thể cách của 14 dòng thơ; điều
đó chưa hẳn là cứng nhắc, ước lệ cho thể loại thi khúc nầy, ngược lại linh động
qua từng ngôn từ xử dụng trong câu thơ, nhưng không thể vượt qua 14 câu thơ, vượt
xa hơn mất luôn chất thơ của ‘thi khúc’. Có hai loại cơ bản cho thi khúc; Ý ngữ
(theo hướng của Petrachan) và Anh ngữ (theo hướng của Shakespearean) thì ít ra
cũng cho ta thu tập được phần nào của hai hướng đi đó. Thực ra thời điểm của
hai nhà thơ (Petrarch và Shakespeare) đều đồng điệu trong thi khúc qua từng kỷ
nguyên, thời đại của mỗi người. Tuy nhiên thể thức nầy được xem là thịnh hành,
phổ thông, một mẫu thức như thời trang mà người ta nhảy vào hùa theo, một cách
thức bắt chước, a-dua sáng chế riêng mình làm lạc đường tơ của thi khúc. Nhưng
mỗi nhà thơ đã mang vào thi khúc cái đặc thù truyền thống ngôn ngữ của họ; cũng
cố thể cách nầy như một công trình kiến trúc toàn vẹn và một xác nhận quả quyết
qua lối diễn tả đầy sinh động.
Bất luận ngôn ngữ nào đi nữa, thi khúc được thừa nhận
một hình thể sắc bén, không thể chối từ, dễ dàng cho chúng ta thấy được tầm xa
chất liệu cách xử dụng thơ của thi khúc. Đây là kết quả đầy ấn tượng về thị giác,
không chỉ vì 14 câu thơ tạo hình, nhưng ở đây cũng bình quân được số lượng vần
thơ (syllable). Mỗi một dòng thơ là cấu trúc kết hợp, ý lồng chữ,chữ lồng ý làm cho mỗi câu thơ sáng lên, tác
động như thế nào qua từng dòng thơ với bao nhịp thở và một vài mức độ để định được
bao nhiêu khoảng cách trong mỗi dòng thơ chiếm cứ ý và lời.
Each line’s metrical structure affects how long it
takes to say the line and with how much breath and to some degree how much
space the line occupies.
Dù cho vần thơ khác nhau hay sắp xếp có hạn mức, có thể tạo ra được những ngạc nhiên khác nhau
qua từng vần điệu của thi khúc. Điều nầy cũng cho thi khúc một sức hút độc đáo
nhờ chức năng vận dụng ngữ ngôn: ‘volta’ và ‘stanza’; trong Ý ngữ stanza là ‘phòng
ở’một nghĩa được chia ra nhiều cách thức
khác nhau với nhiều chức năng khác nhau. Volta là ‘quay về’ một tư duy của thơ
nhân, có thể đây là biến thể duyên dáng của ngôn từ trong cách xây dựng thi khúc.
Hiện tượng nầy chúng ta cứ cho đây là tập quán, phong
cách của thi khúc, đạt kết quả lớn từ những câu thơ trữ tình, vượt luôn cả lằn
biên của thời gian, kiểu cách, tôn giáo, chủng tộc, quốc gia và không hệ phái.
Thi khúc trở nên tự do hoàn toàn với tâm hồn của thi nhân không lệ thuộc, gò bó
phát tiết tư duy như thể cách cổ điển trước đây. Bên cạnh đó thi khúc diễn tả sự
thật về tánh tự nhiên của nó (thơ), xung quanh những gì tương phản và đi đến một
xác quyết và minh định đường lối rõ ràng vóc dáng thi khúc.
Thi khúc sanh ra trong một ‘sân trường hoàng gia’. Nhưng
hơn một nửa, bộ phận của thơ là gốc dân ca. Thi khúc đầu tiên tìm thấy ở đảo
Sicilian ghi chép bằng thổ ngữ vào đầu thế kỷ thứ 13 (giữa 1225-1230) đứng tên
bởi một quan chức là Giacomo da Lentino dưới thời vua Frederick II (1194-1250).
Từ ngữ ‘Thi Khúc/Sonnet’ lấy từ Ý ngữ là ‘Sonetto’ nghĩa
là ‘tiếng hát dịu dàng’ (little song) nhưng có thể thi khúc lấy từ cỗ ngữ ’suono’
nghĩa ‘âm thanh’ (sound) và từ đó thi khúc được coi như tự nó là một nhạc khí.
Thi khúc trở nên một hệ thống phát khởi và trầm tư, tĩnh lự là phong trào thời
thượng thuở đó.
Nhà thơ khám phá một nội tại đối kháng, nó tạo nên một
cảm thức cái đó do từ cấu trúc của nhà thơ, có thể đưa dẫn chúng ta đạt tới tiến
trình trong phút chốc thay đổi, từ những thế bí đến nơi sáng sủa. Nhưng ở nhà
thơ sự cớ đó như bắt đầu và cuối cùng cho một quyết định, chúng ta có thể mong đợi
một chuyển đông khác.
Thi khúc được thể hiện qua những thành quả lớn lao ở
thế kỷ thứ 20. Một Rilke ‘Thi Khúc cho Orpheus/Sonnets to Orpheus’ của Đức quốc,
đến Neruda ‘100 Thi Khúc Tình Yêu/ 100 Love Sonnets’ của Chí Lợi, cho đến những
vần thơ thanh tao của Anna Akhmatova Nga và Paul Valery Pháp… với một số ngôn
ngữ cổ xưa được làm mới trong một ngữ ngôn riêng biệt đầy tính thi ca; những vần
thơ trữ tình của Dante và Petrarch đem lại một ngôn ngữ bản xứ như đỉnh cao dành
cho xứ sở họ và cứu một nền văn hóa sống còn và đảm bảo dành cho đất nước của họ.
Lòng đam mê, lý trí, cảm thức và trí tuệ, niềm tin và
nghi ngại tiếp tục sống động từng giờ, từng ngày trong cuộc sống đời nay. Một lý
do phát triển để đương đầu với những lý do khác; những va chạm thực tế và những
hóa trị (chemistry) khác giao tương trong cùng một không gian của thi khúc. Đến
với chúng ta bởi chúng ta vẫn còn sững sờ trước những siêu lý của thơ, những cảm
thức vượt ngoài cảm quan của thi tứ, ngoài vòng cương tỏa của thi ca và chúng
ta vẫn còn tồn tại cái lạ lùng của chất thơ; mà không biết bao nhiêu lý do cho
phép chúng ta tách xa, đứng một cõi riêng mình trong giây phút nào đó. Tất cả
những thúc bách còn xẩy ra trong chúng ta. Thi khúc thay đổi bất luận ai còn đứng
bên lề hoặc còn trong luống cày nông cạn đó ‘its scanty plot of ground’.Thi khúc
phong phú bởi nó đem lại một hải cảng rộng rãi dành cho những cảm xúc rối bời và
những kỷ niệm đau xót; để đảm bảo những điều trên chúng ta cầm giữ và chận đứng
những bẩm sinh tự tại; tuy nhiên không phải là công việc đơn thuần để cảm hóa mà
đây là một hữu hạn vượt ngoài vấn đề, thời kỳ của chạm trán, đương đầu sẽ được
rút ngắn và giảm dần.
Thi khúc là phòng thâu âm thanh; ở đây vẫn là đối kháng,
khó mà hòa giải một lúc, tạo một cảm thức chung và ghi nhận sự nhận thức mà lòng
đam mê và lý trí thế nào cũng đưa tới một biến thể nội tạng, im lặng chưa phải
là kinh nghiệm thay cho lời nói, cái đó chỉ là trọng tâm cho biên cương ở ngoài
kia (a border beyond) mà ngôn ngữ không thể đi theo đó mà giải bày. Thi khúc
mang lại cho chúng ta -có lẻ- đặc nơi đây cả hai bề mặt cho nhà thơ và người đọc,
‘mất ở chính nó và tìm thấy ở chính nó’, mà nơi đây là con đường mê lộ dành cho
tình nhân. Mary Wroth có câu: ‘Bỏ lại hết đi và nắm lấy sợi tơ tình’.
Vậy thi khúc là gì? Là chứa đựng tình yêu, mà tình
là cái chi chi ? (to leave all and take the thread of love). Bởi thế mới gọi là ‘tình
thi’ cho một bài thơ 14 câu.
Thử nghiệm câu thơ ‘tình thi’ nầy của nhà sáng lập Thi
Khúc F. Petrarca; mở đầu bài thơ ông viết: ‘S’amor non è, che dunque è quell
ch’io sento? / If no love is, O God, what fele I do?’(Geoffrey Chaucer chuyển
sang Anh ngữ bài thơ ‘Canzoniere của Petrarca). Đây là một giọng thơ vung vãi,
một tia sáng loé lên, một cuộc đổi thay hình ảnh đó là những gì sống thực phản ảnh
qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, như chúng ta biết những lời thơ dai dẳng triền miên
không dứt là những lời thơ trữ tình như một tiếc thương: mất mát, tình yêu và một
tinh thần tự do phóng khoáng. Lời thơ như ai oán cho thân phận:
‘Nếu không tình để yêu, Chúa tôi ơi, Tôi cảm gì đây?’
một tự sự thiết tha của thi nhân.
Lướt Qua Một Vài Bài Thơ Tượng
Trưng của ‘Thi Khúc’ 14 Câu.
- Thể thơ
Sonnet của Shakespeare trong tập Thi Khúc
gồm có 154 bài. Thi Khúc #18:
“Shall I
Compare Thee”
Shall I compare
thee to a summer’s day?
Thou art more lovely and more
temperate:
Rough winds to shake
the darling buds of May,
And summer’s lease
hath all to short a date:
Sometime too hot the eye of
heaven shines,
And often is his
gold complexion dimm’d;
And every faire
from fair sometime declines,
By chance, or nature’s changing course,
untrimm’d;
But they
eternal summer shall not fade,
Nor lose
possession of that fair thou owest;
Nor shall Death
brag thou wand’rest in his shade,
When in
eternal lines to Time thou growest;
So long as
man can breathe, or eyes can see,
So long
lives this, and this gives life to thee.
“Em Như Ngày Hạ”
Ta
muốn ví em như ngày hạ,
Vẻ
diễm kiều êm ả sao tầy.
Gió ào rung nụ
hây hây,
Ngày hè ngắn ngủi không đầy gang tay.
Có lắm
buổi gặp ngày nóng gắt
Ánh
nắng vàng mây hắt mời.
vẻ
tươi nhưng cũng có thì,
vận trời thay đổi không di chăng dời
nhưng
mùa hạ nơi em bất diệt,
vẻ mỹ miều vẫn đẹp vẫn
xinh,
tử
thần chẳng dám dụ mình,
vì em sống mãi trong tình thơ ta.
Còn
người, còn kẻ ngâm nga,
vần thơ trác tuyệt, nét hoa ngàn đời.
(Phạm Trọng Lệ; phỏng dịch)
- Thể thơ sonnet của Dante
Gabriel Rossetti (1828-1882), trong tập :The House of Life / Mái Ấm Hạnh
Phúc (1870).Rossetti làm những bài thơ đầy nước mắt sau cái chết của vợ:
‘Whitout Her’
What of her glass
without her? The blank grey
There where the
pool is blind of the moon’s face.
Her dress without
her? The tossed empty space
Of cloud-rack
whence the moon has passed away.
Her paths
without her? Day’s appointed sway
Usurped by
desolate night. Her pillowed place
Without her! Tears,
Ah me! For love’s good grace
And cold forgetfulness of night or
day.
Want of the heart
without her? Nay, poor heart,
Of thee what
word remains ere speech be still?
A
wayfarer by barren ways and chill,
Steep ways and
weary, without her thou art,
Where the long
cloud, the long wood’s counterpart,
Sheds doubled
darkness up the labouring hill.
‘Còn Gì Cho Em’
Không còn gì là
của riêng nàng? bàng bạc mây trôi
Nơi đây nước hồ che mặt nguyệt.
Quần quần áo áo đâu còn nữa? quẳng vào hư
không
Mây giăng lối che khuất vầng nguyệt tỏ.
Đâu
còn nữa quàng vai nhịp bước? e ấp một thuở nào
Ai chiếm đoạt đêm nay. Nơi một thời chăn chiếu
Vắng nàng! Hàng lệ chảy. Tôi
ơi! Tình nhẹ nhàng hay mơ
Đêm
ngày lạnh giá tình ơi là tình sao đành quên
Không nàng
tình trống như không? Không, hởi ôi tội tình,
Lời
nào còn lại năm nào còn không?
Đường
đi vô định lối về lặng thinh,
Đồi dốc đứng
đá yên nằm, không tranh không ảnh không là em
Mây
phủ đèo giăng rừng đối mặt
Bóng đen
ụp xuống ngang đồi dốc cao.
(vcl.phỏng dịch)
- Thể thơ
sonnet của Sylvia Plath (1932-1963).Trong tập ‘The Colossus’ (1962).
Trong thời gian của những bài thơ ra đời là thời kỳ bức
xúc có thể đưa tới tuyệt vọng:
‘Mayflower’
Throughout
black winter the red haws withstood
Assault of
snow-flawed winds from the dour skies
And,bright as
blood-drops, proved no brave branch dies
If
root’s firm-fixed and resolution good.
Now, as
green sap ascends the steepled wood,
Each hedge with such white
bloom astounds our eyes
As
sprang from Joseph’s rod, and testifies
How
best beauty’s born of hardihood.
So when staunch
island stock chose forfeiture
Of the homeland
hearth to plough their pilgrim way
Across
Atlantic furrows, darl, unsure –
Remembering the white, triumphant spray
O hawthorn
boughs, with goodwill to endure
They named
their ship after the flower of May.
‘Tình Hè’
Đông đen
tràn ngập màu lửa đỏ ầm ầm cháy
Gió xô xát
tuyết hung hản bầu trời tối sẩm
Và, rực rỡ như giọt
máu đào, không can đảm đứng nhìn
Nếu vững lòng ôm
lấy vào nhau và đẹp vô cùng
Giờ đây nhựa sống
xanh mầm reo vang rừng núi
Bên hàng dậu
hoa trắng nở đôi mắt ta sửng sốt
Bỗng hiện hình chàng
đứng ngắm như in
Ôi
lòng dũng cảm đẹp là bao
Hãy tù tội tôi trừng
phạt như thách đố ở hải đảo xa xôi
Quê hương một luống đất cày nhớ
nhung
Vượt cánh đồng
Đại dương lòng bối rối bất an
Hãy
nhớ cho màu trắng vinh quang ấy
Lời như
gai nhọn bạo tàn, đành tâm cam chịu
Gọi tên ngưởi trên tuyến đường giữa tình hè
hoa rộ nở.
(vcl.phỏng dịch)
VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab. cuối 7/2012)
SÁCH ĐỌC:
- The Penguin Book of the
Sonnet by Phillis Levin. New York. USA 2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét