Xưa nay chúng ta chỉ biết Eluard là nhà thơ
trữ tình, một nhà thơ siêu thực của Pháp; ông là một trong những thi sĩ đương đại
thời bây giờ, bên cạnh những giòng thơ lai láng đó ông tiếp nhận một biến thiên
xã hội, đẩy ông vào một trạng huống bức xúc, chôn vùi hoài bão mộng mơ của nhà
thơ, nhưng không phải tất cả tác phẩm của Eluard dễ cho ta tiếp cận lối vào con
đường thi tứ của ông. Có chăng chỉ là cảm nhận đơn phương hoặc một vài khiá cạnh
khác trong thơ Eluard. Thấy ở đó những lời thơ mộng mị, những trau chuốt nhẹ nhàng
trong thơ của ông chứ không thể thấy những uẩn khúc, tiềm ẩn trong đó hay có thể
đây là một lối biến thể, một phá cách mới của nhà thơ(?). Mà lâu nay chúng ta có một ý niệm nhầm lẫn cho Eluard; nhờ những
luận cứ trong ’siêu thực’của ông mà nẩy sinh ở giai đoạn cuối với những câu thơ bất hủ và được
xem như văn thơ hàn lâm dành cho học đường ngày hôm nay.
Thi ca của Paul Eluard chứa đựng một chất liệu năng nổ và sáng tạo, được
chia ra làm hai hoàn cảnh khác nhau: những tác phẩm của ông người ta khám phá được
đặc chất của trường phái đa-đa (dadanist) và trường phái siêu thực
(surrealist), hai thứ nêu trên hoà nhập vào nhau ở những năm 1919-1938 và hầu
như chứa đựng truyền thống chất hiện đại và hậu-siêu-thực, tiếp nối sau
1938-1952. Thời kỳ cuối cùng của Eluard là thời kỳ xót xa với tình yêu và cạnh đó
lại vướng vào con đường chính trị cao độ đưa ông vào một tâm thần bất ổn, choán
phá một tư duy khát vọng của thi nhân. Thật như thế! Tập thơ đầy kinh ngạc và kỳ
diệu ’Last Love Poems / Derniers poèmes d’amour’. Đó là những Tình Thơ Sau Cùng
được sáng tác trong những năm 1946-1951, cho chúng ta một ý tưởng mới, một kỹ
thuật điêu luyện, tài tình của một nhà thơ dày dạn, giàu kinh nghiệm, đem lại
cho chúng ta một khả năng tham dự vào vũ trụ thi ca và hiểu được phần nào tại sao Paul Eluard* nắm được
niềm tin yêu của ông khắp toàn cầu.
Thơ là cõi phi, không thể định nghĩa, không thể giải bày; nó nằm trong
dạng thức siêu nhiên, nó đầy đủ nhân tố để phát nguồn từ tâm thức, nó lay chuyển
tư duy, nó khuấy động trí năng để từ đó thơ trở thành huyền nhiệm của thi ca, một
đam mê ma túy thơ và rồi thơ biến thái qua nhiều ngôn từ, qua nhiều trường phái,
tất cả nằm trong qui trình của thơ. Chẳng mấy ai có thề biết được tôi / Tốt hơn
người biết lấy tôi(thơ). On ne peut me
connaitre/ Mieux que tu me connais (trong Poeme 1935-36) Và từ đó thơ trở thành
một thứ ngôn ngữ của tiếng hát, một thứ ngôn ngữ được chấp nạp với hoài vọng, dù
cho trong khi đó có một ít tuyệt vọng.”Language that sings, language charged
with hope even when it is desperate” (trong Eluard, ’Oeuveres complètes’). Lời
lẽ đó chính là lời yêu cầu tha thiết của Paul Eluard mà ông đã trút vào đó những
lời ca vang vọng trong tập Tình Thơ Sau Cùng. Đối với Eluard, thi ca có thể là
tiếng nói của nhân loại: ”con người, kĩ nữ, con chim cô độc”. Vậy thì ai đã mở
màn những trang thơ tình như thế? Hay đã có trong tay chúng ta! Tiếng hát của
thơ sản sinh ra thế giới. Tiếng nói của nhà thơ không thể dập tắt, vì đó là cột
trụ chung cho những người viết và làm thơ. Để đồng lòng với Eluard; thi ca luôn
luôn là: ”kẻ chuyên chở một tri thức uyên thâm mẫn cán, một mầm mống bản năng
thiên bẩm, một lòng trắc ẩn trong nhu cầu của đời sống” (the bearer of a
profound intelligence, of reason rooted in instinct, in sensitivity, in the
need to live).(trong Oeuvres complètes/ Complete work). Nếu nhà thơ van xin cái
chết thì đó là lối thoát cho họ ra khỏi cái đau đớn, ra khỏi hiểm nguy trong thực
tại đang sống.
Tình yêu được soi rọi trong những vần thơ sau nầy của Eluard là những
thể thơ khó hiểu trong lúc thi sĩ phải đối đầu với những bi kịch cá nhân, sau
thế chiến II (1946) mà phải dựa qua ngôn ngữ thi ca để kiếm sống. Thơ của
Eluard chứa ’nhạc ngữ’ nhiều hơn, mỗi bài thơ có ý nhạc đi theo nhưng cũng có
những bài thơ mang theo nỗi buồn, nỗi đau đó như đôi chân trần vượt qua lằn biên
của ngôn từ, như diễn từ kêu gọi, mà mỗi lần được trút ra từ uất nghẹn tận đáy
lòng, hiện diện của thi nhân là tiếng thơ nhưng không là tiếng nói giản đơn của
một cá nhân, ở đây là tiếng nói của con người đang đứng trước cảnh ngộ đau thương
và được coi như sự đè nén, ép buộc trong những vần thơ bi thảm cổ lỗ sĩ
-ancient tragic verse- Paul Eluard tìm thấy tình yêu một lần nữa trong đời ông.
Eluard chuyên chở đến chúng ta những cảm thức vững vàng và thích đáng ở một tấm
lòng đầy ngạc nhiên và kỳ diệu.
Trong 4 tập thơ sau cùng đều nói
lên cá tính của con người đối diện với bi thảm :
Eluard sống êm đềm hạnh phúc bên
vợ (Nusch), tưởng đời đối đãi cho họ cuộc tình thơ mộng, nhưng không bao lâu vợ
chết đột ngột, một cái ’sốch’ và nỗi đau đến với ông, Eluard rơi vào tuyệt vọng
như rơi vào lò luyện ngục. Paul Eluard phục hồi cuộc đời qua tình bạn và tình yêu.
Eluard tái sinh đời mình bằng một cuộc hôn nhân mới (Dominique). Một kiểu thức
lãng mạn cổ điển, thể hiện dưới cái nhìn chân phúc đi từ nỗi đau vô biên để rồi
được cứu nguy trong một sức mạnh không cùng. Nhưng kiểu thức đó không phải là định
mệnh mà chính Eluard muốn điều đó với lòng dục vọng để làm mới cuộc đời đang sống.
Trong lúc ấy; ông không tìm thấy nỗi đau khổ và cô đơn vây quanh đời ông.
Eluard chấm dứt tất cả để bắt đầu trở lại với ’đôi mắt tinh tường’ hơn sau những
lần chạm trán với đời cũng như chạm trán với tình yêu.
Paul Eluard tin thơ có nhiều dấu hiệu của niềm tin, những bài thơ như
thánh ca ở nơi thờ phượng, thơ còn là hoài niệm, thơ là những kỷ niệm khó quên
về những tàn phá của chiến tranh. Giống như Blake trong ’Lời Ca Vô Tội / Songs of Innocence’ Eluard có
những bài thơ tương tợ trong ’Niềm Khao Khát Vững Lòng Chịu Đựng / The Firm
Desire to Endure’ chứa đựng cả một sự đánh đổi và triệu chứng mà thế giới đã trải
qua sự tàn phá và hủy hoại. đó là nguyên nhân của cuộc chiến thế giới II.
Dù cho tiếng hát của Eluard đơn thuần vang vọng vẫn không bao giờ là tiếng
hát u hoài trong quần chúng mà ngược lại ngời sáng. ’firm desire to endure/ le
dur désir de durer’ âu cũng là điều khó đạt được qua sự chịu đựng; bởi nó quá
khó để duy trì niềm hy vọng giữa lúc nầy trong khi quá nhiều những hủy hoại.
Vì vậy Eluard muốn một điều; thơ của mình được mọi người nghe, hát, vẽ,
múa, và được thưởng thức một cách cực độ đến với độc giả khắp nơi.
Những giòng thơ của Eluard sau nầy là một tiếp cận gần gũi với độc giả.
Thơ của ông không quay về như những lần trước đây với thể thức tôn thờ hay thần
tượng hóa, nhưng ngày nay Paul Eluard làm
một dáng thơ có tình nghĩa với độc giả. Mục đích chính là thơ tình, một loại thơ
gần như truyền thông, một sứ điệp hòa bình, một cảm xúc chung, một cảm nhận và
niềm hân hoan xuyên qua một tri thức nhạc điệu. Eluard thường xử dụng ngôn từ ’mình trần / nu / naked’ trong thơ của
ông -giống như thể xác của người yêu- đó là thứ ngôn ngữ riêng của nhà thơ, cái
bình thường giản đơn như tự có ’simplifies itself’- một cái trơn tru, trần trụi
của chất thơ. Eluard thường dựa vào ngữ pháp trong thơ , một cách thông thường.
Do đó chúng ta không bối rối bởi những ngôn từ trong thơ của ông, tuy nhiên;
xuyên qua những vần thơ hổn hợp vẫn cho chúng ta một cảm giác thoải mái, lời thơ
tợ như phản phất một ít thần chú, hiện hình hóa thân (incantatory). Andre Gide
có lần nhấn mạnh như sau:
”Có thần chú trong thơ của Eluard là một cái gì đạt được độc quyền và
trong một cái gì đó mặc dầu vẫn đầy đủ nghĩa lý của ngôn từ... Eluard chỉ giữ lại
cái năng lực thần thông đó...” (Incantation in the poems of Eluard is obtained exclusive of and in
spite of the meaning of words…Eluard retains only their incantatory power…)
Nghệ thuật thi ca của Eluard trong sáng rõ ràng và
thanh thoát với hồn người là thể chất liên kết trong một đức tính của thi ca và
xã hội. Eluard cho ra tập thơ đầu tay với tựa đề “Bầy Súc Vật và Đám Chủ của Chúng
/ The Animals and Their Men” (1920) được xem như những lời thơ chân tình cùng sự
trở về của những nhà thơ, một chuyển thể của ngôn ngữ thơ, một phản ảnh trung
thực chất liệu thơ, một trao đổi giữa nhà thơ với nhà thơ. Đó là mục tiêu của
Eluard, biết xử dụng ngôn ngữ để trao đổi và dung hoà với quần chúng. Một lợi điểm
khá tốt đẹp cho Paul Eluard.
Trong bài nhận định Eluard đã lấy câu châm ngôn của
Lautréamont mà lập lại rằng: “Thi ca phải làm nên tất cả. Không riêng một ai”
(Poetry must be made by all. Not by one). Cách mạng về thi ca là những gì đến với
chúng ta và chia sẻ cùng chúng ta trong một ngôn ngữ thế giới, Đối với Eluard
thơ không thực chất, không xác thịt, không huyết lệ, nó chỉ đến trong giây phút
tương giao nào đó; mỗi khi giữa độc giả và nhà thơ có cùng một trạng thái tương
đồng với nhau trong cuộc sống.
Suy tư của Eluard không bao giờ tìm thấy cái biến dạng
ngôn ngữ trong thơ của ông, kể cả thời gian đầu với trường phái ĐaĐa và Siêu thực
là những tác phẩm chỉ nói lên những gì kinh nghiệm về thiên nhiên và về sau ít
nói đến trong tập thơ “Những Bài Tình Cuối / Last Love Poems”. Những tình thơ được
cô đọng trong sự nghiệp của Eluard, tất cả là kết quả làm thành thơ, một thể thơ
tiến bộ, chiếm lĩnh suốt ba mươi năm. Hoàn cảnh lịch sử là một kinh nghiệm lâu
dài và bền bỉ của thơ và củng cố một điạ
vị lớn lao trong thơ của Eluard, một ủy nhiệm về thi ca, đó là điều có thể bưng
bít phần nào thể thơ siêu thực của ông trước đây.
Năm 1919 Eluard bắt đầu hợp tác với André Breton,
Louis Aragon va Phillipe Soupault để cùng nhau hoạch định đường lối chủ thuyết đa-đa,
làm việc chung với nhà thơ Lỗ Ma Ni Tristan Tzara bắt đầu đưa phong trào đa-đa đến
Zurich (Đức)
1916. Tzara và chủ nghĩa đa-đa thực sự bùng
dậy và bỏ rơi chủ nghĩa siêu thực vào năm 1922. Eluard tiếp tục hoạt động với
nhóm siêu thực; ông là một trong những người hăng hái và ảnh hưởng trường phái
nầy cùng một số thành viên cho mãi đến 1938. Có thể là tình thân hữu và bè bạn đám
văn nhân mà Eluard còn tiếp nối với trường phái siêu thực, tha thiết đó đã đi vào
thơ của Eluard. Tình bạn đã in sâu vào lòng Eluard như Réne Char, Max Ernst và
Picasso cho đến những ngày cuối đời.
Với lối viết máy móc nhanh nhẹn, trường phái siêu thực
động viên Eluard qua thể cách chất liệu lỏng (fluidity of style) phương cách đó
đưa đến động tác thanh thản của người mộng du. Đối với Eluard coi như đây là bạn
đồng hành; siêu thực có nghĩa là khám phá những gì chưa biết tới, quật khởi (to
mine) cái vô thức và cái thế giới mộng mơ. Eluard cho đây là nguồn gốc mới và được
dùng để xây lên một ngôn ngữ đầy tính cách thẩm mỹ, một thứ ngôn ngữ đi tới cái
tận cùng tự nó nếu cái đẹp đó chạm đến con người.
Eluard không mấy hài lòng để tiếp tục dựa lưng vào ‘bức
tường ảo vọng’ trong thơ của ông. Siêu thực là một thể thức hiện đại, có nghĩa
một biểu thị tư tưởng trong thơ của Eluard ngày hôm nay, ông đã tạo cho minh
con đường để đi, rèn luyện để có những lời thơ khác người trong phong cách vừa
hiện sinh vừa siêu thực. Qua những tác phẩm của Paul Eluard được các nhà phê bình
đánh giá cao, khởi từ năm 1936 tên tuổi của ông được ghi nhận khắp Âu châu và mọi
nơi; từ đó thơ văn được coi là tiếng nói của lương tâm và phổ thông với quần chúng,
nó không còn là cõi riêng của những người viết văn hay làm thơ, liên hợp những
khuynh hướng chính trị và cuộc đời ‘vượt thoát ngoài kia’ với những giòng thơ tình
trong một ngôn ngữ ‘hồ lốn’ amalgam mới mẻ hơn. Mà có lần Eluard nói ở Handrail
vào năm 1936; lời thơ của ông thu hút mãnh liệt vì bên trong nó có một cái gì để
làm nên:’Này đây/hởi mọi người đoàn kết lại’ attentive/to the people whom he reunites
(trong Oeuvres compl).
Cùng năm đó Eluard quyết định từ bỏ ‘siêu thực’, đoạn
tuyệt người bạn André Breton và bên cạnh đó ông giả từ những gì không cần thiết
đối với ông lúc nầy. Paul Eluard bị một sức ép mãnh liệt, ném ông đến gần với đảng
Cộng Sản 1926 và rồi cách ly mọi lý thuyết 1930, qua năm 1940 ông là đảng viên đảng
Cộng Sản. Trong một bài thơ Eluard dùng chữ ‘người/hommes/men’ ý rằng ‘người’ là
‘nhân dân’.Tư tưởng Cộng Sản đã phản ảnh ít nhiều trong tập ‘Những Bài Thơ Tình
Cuối/Last Love Poems’ một tư duy trong sáng và hàm chứa qua những lời thơ tha
thiết như một khát vọng mà Eluard mong muốn từ lâu.
Thi Ca Không Gián Đoạn
/ Uninterrupted Poetry
Trong cuốn: ‘Le prière d’insérer de Poésie
Ininterrompue’ có nói rằng: tập thơ Uninterrupted Poetry chứa đựng cả tinh hoa
quan trọng của nhà thơ Eluard; chắc chắn ở đó chúng ta có một xác quyết rõ ràng
cho một điều gì nghịch lý, bởi vì có một sự chuẩn mực có thể cho chúng ta tìm
thấy. Thí dụ; thơ Eluard có nhiều ý tưởng quan trọng hơn ý tưởng tự do? Nhưng nếu
thơ là vấn đề để lãnh hội và cảm nhận là quan trọng trong cảm thức định lượng,
thì chúng ta có thể nói có ảnh hưởng hay hậu quả gì đó ‘consequence’; thế thì đó
là sự thực cho bài thơ mà hầu hết bảy trăm thể thơ là có một cái gì khác thường
trong những tác phẩm của Paule Eluard và chính cái sự cớ đó Eluard bắt tay vào
năm 1946, một liều lĩnh thử nghiệm trong việc đương đầu với một thời buổi hiện đại
hóa. Eluard thành công! như vậy không có gì để bao che cho một mẫu thức của cái
gọi là importance của tám-dòng-thơ trong ‘Couvre-Feu in Poésie et Verité’ 1942 và
cho tất cả những gì chú ý tới sự tiến trình của một tinh thần tự do; ở đây chưa
bao giờ tự do cho Eluard. Điều nầy vẫn còn nằm dưới đáy tuyệt vọng của đo lường
về sự quan trọng của tập thơ mà điều đó chưa đánh giá hay thẩm định cụ thể.
Thi ca là ngôn ngữ và chính lý do nầy không phải là cần
thiết cho một nhà thơ hơn là khởi đầu cho
một ngôn ngữ; không ai biện chứng để có thể tin phục một cách sâu xa như Eluard
trong thời gian bắt đầu cuộc chiến. Trong một góc độ nào đó, dữ kiện nầy sẽ đạt
tới, ngày mai sau cuộc chiến; thì cái gì cho một họa sĩ gọi tên cho họa phẩm
‘la grande composition’(?); có thể coi đây như dấu hiệu đã giải quyết xong sự
khó, một thông điệp cho một trạng huống của tư tưởng thi ca mà điều đó không
bao giờ nhượng bộ một cách dễ dàng hoặc một thích nghi thỏa đáng cho chính nó.
Tóm lại; hơn nữa thế kỷ qua, sau cái chết của Paul
Eluard, bây giờ chúng ta đã thấy những gì ‘siêu thực’ là những gì hoàn toàn không
có đổi mới hay sửa sang đường lối siêu thực cả, nhưng không phải vì thế mà làm
mất giá trị tuyệt hảo nguồn thơ của Eluard; đó là con đường sáng cho ông, một
giao thông giữa người và đời.
Eluard là một nhà thơ tình, một nhà thơ mơ mộng, một
khát vọng ấp ủ, tất cả cô đọng trong một tâm hồn vượt thoát của đời ông qua những
đấu tranh đòi bình đẳng, thù ghét chiến tranh phá hủy nguồn sống của con người,
Eluard đứng bên cạnh những kẻ khốn cùng, chống lại xã hội bất công, hoạt cảnh đó
xâm chiếm Paul Eluard qua tình thơ. Đó là đam mê của ông để sáng tạo ra một ngôn
ngữ đại đồng. Eluard dàn trải để chia sẻ. Không còn thân tình với Breton nhưng ông
nhất trí với Pablo Neruda, kẽ đồng hành. Neruda ngưỡng mộ và khâm phục Eluard
coi ông như một ‘cảm xúc trong sáng’ của nhà thơ vĩ đại.
Bên trong con người của Eluard chúng ta tìm thấy giòng
thơ bất tận, một cái gì của ‘firm desire to endure’ một ước ao chắc nịch với lòng
kiên nhẫn. Tuy nhiên; lời nhắc nhở với chúng ta: ’ngôn ngữ chấp nạp niềm tin và
hy vọng dù trong lúc đó có một ít tuyệt vọng’. Dẫu gì Paul Eluard vẫn là nhà thơ
đương đại nhất của chúng ta hôm nay và mai sau. Khát vọng đó trở thành hiện thực
cho thi sĩ thiết tha với tình người.
*
Đơn Cử Vài Ba Bài Thơ của Paul Eluard
CƯỜI ĐỘC
Tranh nhau một nụ cười
Như đêm sao mọc trên trời
Một nụ cười cho nhau
Mắt cười thích thú xanh xao
Dựa vào khối bóng đêm đen
Ngọn lửa bừng lên trong mắt tôi
Tôi đã thấy xuyên qua điều muốn biết
Đêm lắng sâu ngày tái tạo
chẳng thay lòng đổi dạ chúng tôi.(1)
UN SEUL SOURIRE
Un seul sourire disputait
Chaque étoile à la nuit montante
Un seul sourire pour nous deux
Et l’azur en tes yeux ravis
Contre la masse de la nuit
Trouvait sa flamme dans mes yeux
J’ai vu par besoin de savoir
La haute nuit créer le jour
Sans que nous changions d’apparence.
BÊN NGOÀI
Đêm . lạnh . hoang vu độc chiếc
Coi chừng giá buốt khóa chân tôi
Nhưng cành nhánh rì rào tìm đường chỉ lối thoát ngục
tù
Quanh tôi cỏ
cây dựng cảnh không gian
Then cài cửa đóng cả bầu trời
Tù ngục tôi sụp đổ
Sống lạnh . đốt lạnh .có tôi. ấm đôi tay.(2)
FROM The OUTSIDE
The night the cold the solitude
Carefully they locked me in
But the branches sought their way in the prison
About me grass found sky
They bolted out the sky
My prison crumbled
The living cold the burning cold had me well in hand
(1942)
NGƯỜI TÌNH TÔI Hay TÌNH NGƯỜI ĐÀN BÀ
Nàng đứng trong mí mắt tôi
Và tóc nàng là của phần tôi
Nàng dáng vẻ xinh xắn trong tay tôi
Nàng là muôn sắc trong mắt tôi
Nàng là chìm đắm trong bóng hình tôi
Tợ như phiến đá dựa lưng trời
Đôi mắt nàng mở rộng
Nàng không cho tôi ngủ
Giấc mơ nàng tỏa rộng sáng như ngày
Trời xanh quen thói phì hơi nước
Làm tôi nực cười, cười rủ rượi cười
Và nói không thành lời.(3)
L’AMOUREUSE
Elle est debout sur mes paupières
Et ses cheveux sont dans les miens
Elle a la forme de mes mains
Elle a la couleur de mes yeux
Elle s’engloutit dans mon ombre
Comme une pierre sur le ciel
Elle a toujours les yeux ouverts
Et ne me laisse pas dormir
Ses rêves en pline lumière
Font s’évaporer les soleils
Me font rire, pleure et rire
Parler sans avoir rien à dire. (1924/1926)
VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab. cuối 6/2012)
* Paul
Eugène Éluard (1895-1952) sanh tại
Paris. Pháp quốc.Chết tại Charenton. Pháp quốc.
SÁCH ĐỌC :
- Uninterrupted Poetry by Paul Eluard. trans :
Lloyd Alexander. New Directions Pub. Corp.NY.USA 1975.
- Le Dur Desir De Durer. by Stephen Spender. New Directions. 1950. USA
1977.
- Introduction Notes by L. Aragon
- (1) (2) (3) Phỏng dịch bởi VCL.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét