Thứ Hai, 23 tháng 8, 2010

Thanh Tâm Tuyền, người đi tìm tiếng nói


Đỗ Lai Thuý

Tôi đi tìm tiếng nói
Cho cổ họng của tôi
Thanh Tâm Tuyền


Thơ, sau 20 năm Đổi mới và Mở cửa, không chỉ có sự đổi mới của chính bản thân thơ, mà còn có cả sự đổi mới của cái nhìn về thơ, tức lý luận phê bình thơ. Trong đó, đáng kể là sự nhìn nhận lại một số hiện tượng cách tân thơ trong quá khứ không xa, mà Thanh Tâm Tuyền là một trường hợp khá tiêu biểu. Từ đỉnh cao Đổi mới, đọc lại Thanh Tâm Tuyền, đặt thơ ông vào nguồn mạch đổi mới thi ca dân tộc, có thể rút ra những kinh nghiệm không chỉ là lịch sử, mà đôi khi rất thời sự, có ích cho việc đánh giá “thơ 20 năm đổi mới” hôm nay.
*
* *
Sinh năm 1936, Thanh Tâm Tuyền thuộc một thế hệ nhà thơ khác với các nhà Thơ Mới về tuổi đời. Và, do đó, quan trọng hơn, khác về học vấn và trải nghiệm. Nếu các nhà Thơ Mới tiếp xúc với văn học châu Âu chủ yếu qua “bộ lọc” nhà trường Pháp thuộc và dừng lại ở cuối thế kỷ XIX, còn ai đó có trèo sang thế kỷ XX thì cũng đã hụt hơi, đọc mà không hiểu, hiểu mà không thấm, thì Thanh Tâm Tuyền tiếp nhận nghệ thuật phương Tây một cách trực tiếp và đồng thời, nên, nhờ thế, tự do và sáng tạo (ý của Đặng Tiến). Nếu các nhà Thơ Mới trải nghiệm cuộc sống một cách thơ ca trên bình yên các trang sách, thì Thanh Tâm Tuyền sống một cuộc sống văn xuôi của cuộc chiến tranh, của chia cắt đất nước, của tranh giành quyền lực. Giữa họ, quả thực, là một đứt đoạn lớn. Trước, ở nhận thức thực tại. Sau, ở nghệ thuật.
Năm 1956, ở tuổi hai mươi, Thanh Tâm Tuyền in tác phẩm thơ đầu tiên của mình có nhan đề như một tuyên ngôn: Tôi không còn cô độc. Có lẽ, cô độc là một đặc sản của cái tôi nguyên tử luận của Thơ Mới. Một cái tôi luôn đối diện, đúng hơn đối đầu, với thực tại. Cái tôi Thơ Mới này, sau khi đã lên tới thiên đỉnh, Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất, với Xuân Diệu, đã không chịu đựng nổi cô độc, nên đã tìm về với cái bọc trăm trứng cộng đồng, hoặc một thời tiền sử hòa đồng nguyên thủy, hoặc những thiên đường nhân tạo liên/ xuyên – cá – nhân, để đến 1945 thì hòa mình vào cái ta xã hội, cái ta dân tộc. Nhưng tôi lại là sự chống lại chủ nghĩa tập thể núp danh cộng đồng, dân tộc, xã hội, đề cao cái cá nhân đích thực. Thanh Tâm Tuyền của Tôi không còn cô độc không còn là sự đối lập giữa tôi và thực tại, tôi đối diện với thế giới, mà lơ lửng giữa tôi và thực tại, tôi hiện diện trong thực tại, tôi là thực tại.
Xóa bỏ khoảng cách giữa tôi và thực tại, cái hố thẳm tư tưởng ấy, là nâng cái nhìn thực tại lên một bình diện mới, một chiều kích mới. Điều này tạo ra một ý thức mới trong văn nghệ. Bởi thế, việc làm đầu tiên là thanh toán ý thức văn nghệ cũ một cách công khai, quyết liệt. Bốn cuộc trao đổi giữa Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Thái Tuấn… trên tạp chí Sáng tạo hoàn toàn phủ nhận văn nghệ tiến chiến, từ Thơ Mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, tiểu thuyết tả chân Tân dân, kịch nói, đến hội họa ấn tượng và tả thực. Dĩ nhiên, nhát dao chặt đứt tính liên tục lịch sử để tạo ra sự đứt đoạn, ở bình diện cụ thể, bao giờ cũng có những cực đoan, những bất công của nó, nhưng trên bình diện nguyên lý là hợp lẽ. Bởi, đây là sự phủ nhận một quan niệm thực tại như một cái gì đó tự thân, đặc cứng và nhất phiến, nên đứng trước nó văn nghệ hình như chỉ còn mỗi việc mô phỏng, phản ánh, ảnh xạ. Chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, thậm chí cả chủ nghĩa tượng trưng nữa, ít nhiều đều là con đẻ của cái nhìn thế giới này.
Sự phát triển của khoa học (vật lý thiên văn và vật lý hạ nguyên tử) và triết học đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi quan niệm về thực tại. Không còn nữa một quan niệm về thế giới khách quan, tự thân, độc lập với ý thức của con người, mà chỉ có một thế giới do con người (sinh ra) và vì con người (phục vụ) theo nguyên lý vị nhân. Sự khủng hoảng thực tại này khiến người ta phải đi tìm những phương thức biểu đạt thực tại mới, trước hết trong lĩnh vực hội họa. Các trường phái lập thể, biểu hiện, trừu tượng, siêu thực… thi nhau ra đời để đáp ứng nhu cầu này. Văn chương cũng lao vào một kiếm tìm tương tự. Nhà thơ và họa sĩ giờ đây không phải chỉ chơi thân với nhau như những láng giềng tốt, mà vì họ cùng chung một cái nhìn thực tại, cùng chung việc tìm kiếm ngôn ngữ mới để biểu đạt thực tại mới. Tình thơ – họa của nhóm Sáng Tạo, do vậy, khác về chất với tình của các nhà thơ, học sĩ của Tự lực văn đoàn thời tiền chiến.
Cái mới ở thơ Thanh Tâm Tuyền, trước hết, là sự chủ thể hóa thực tại. Bởi thế, thơ ông trình hiện một cái tôi đa ngã. Không phải cái tôi nhất nguyên rã ra thành những bộ phận độc lập. Hay một kiểu sinh sản bằng cách tự sao lại bản mình. Càng không phải sự phân thân. Đa ngã là do đa thể. Bởi, con người vốn đa nguyên. Không chỉ ngoài con người có con người, mà, quan trọng hơn, trong con người có con người. Tôi là người là một người khác (Đừng bắt tôi từ biệt). Cái người khác ấy nhiều khi xa lạ với chính tôi, với chính sự hiểu biết của tôi. Nó đến từ những cơ tầng khác.
Hồn là khởi nguyên tinh thần, xác là khởi nguyên sinh học. Hồn, xác hòa hợp thì con người trùng khít với bản thân, có sự khỏe mạnh của cái cây, tảng đá. Ở Thanh Tâm Tuyền thường thì hồn và xác lìa nhau, tạo ra những cái tôi khác nhau. Tôi luôn nhìn, và nhìn thấy, thể xác tôi bị đau đớn, chảy máu, bị đâm chém với một thái độ dửng dưng.
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
(Bao giờ)
Nhưng, có lẽ, đặc sắc hơn cả, ở Thanh Tâm Tuyền, là tên và tôi. Cái tên và cái tôi, tự nguồn, vốn là một. Tư duy nguyên thủy cho rằng cái tôi nào thì phải mang cái tên ấy. Tên và tôi, do vậy, vận vào nhau. Nhưng dần dần, với sự phát triển của xã hội, cái tên tách biệt khỏi cái tôi, trở thành một thực thể tự thân, độc lập. Cái tên tôi giữa phố, phố vắng và cái/ tên âm lên sự thù hằn (Đêm). Tên trở thành một ký hiệu, một căn cước rỗng, chỉ thuận tiện cho việc giao thông xã hội. Ở Thanh Tâm Tuyền, cái tên, thậm chí, chỉ còn là cái xã hội bám đầy rong rêu của các quy tắc, định chế, luôn tra xét, đe dọa cái tôi bản năng, tự do, sáng tạo:
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền
Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Sợ chó dữ
Con chó đói không màu
(…)
Tôi gào tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền
Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
Cô bé quàng khăn đỏ ơi
Này một con chó sói
Thứ chó sói lang thang
(…)
Tôi gào tên tôi thảm thiết
Thanh Tâm Tuyền
Bóp cổ tôi chết gục
Để tôi được phục sinh
(Phục sinh)
Như vậy, những cái tôi thơ Thanh Tâm Tuyền, với một vài đơn cử trên, là những thực thể tồn tại tự thân, luôn tranh đấu, giằng xé, thậm chí chém giết nhau trong cuộc đối thoại/ đối đầu miên tục. Con người hiện đại, vì thế, luôn tự mâu thuẫn. Và, cũng vì thế, mà luôn tự thay đổi cái tôi với tư cách là một nhân tố kiến tạo thế giới.
Nếu ở bình diện nhận thức, thơ Thanh Tâm Tuyền là sự chủ thể hóa thực tại, thì ở bình diện diễn ra, thơ ông lại kéo ngôn ngữ về với sự vật. Tức thay đổi quan niệm về ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật. Với Ferdinand de Sanssure, ngôn ngữ như một công cụ có khả năng phản ánh trung thành sự vật đã trở thành huyền thoại. Nhưng cũng từ đây, ngôn ngữ, với bản chất tự trị của nó, ngày càng xa rời sự vật, thậm chí quy định lối nhìn sự vật. Bởi thế, từ và vật ngày càng đối lập với nhau. Thanh Tâm Tuyền đã kéo ngôn ngữ về với sự vật, nhưng không phải để phản ánh sự vật, mà để đồng nhất với sự vật: ngôn ngữ là thực tại.
Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền, bởi thế, đầy những vật liệu của công nghiệp và thành phố. Thơ Mới, mặc dù là con đẻ của văn hóa đô thị, nhưng chưa thực sự sống thành phố bởi còn bị ám ảnh những hoài niệm thôn quê. Thanh Tâm Tuyền đã bắt được nhịp sống đô thị, cũng là nhịp sống của hôm nay, đương đại. Thành phố trong thơ ông như một công trường xây dựng. Đầy những vật liệu nhân tạo. Tất cả đều dang dở, ngổn ngang, thậm chí hỗn độn. Cái nhìn này về thực tại ảnh xạ vào thơ Thanh Tâm Tuyền. Ngôn từ thơ bị lột vỏ quy ước trần trụi trở về với sự vật thô nhám. Các từ đứng cạnh nhau một cách tình cờ, ngẫu nhiên, làm trật nghĩa nhau. Câu thơ thì bị cắt dòng đột ngột, đôi khi mang tính bạo hành. Bài thơ mang tính thể nghiệm, tồn tại như những khả năng, khả thể. Tập thơ như một hợp tuyển tình cờ, các bài thơ như ngẫu nhiên được đưa vào, ngẫu nhiên đứng cạnh nhau và, vì thế, phát ra những diễn ngôn riêng biệt, như chẳng ăn nhập gì với nhau. Bởi thế, đọc thơ Thanh Tâm Tuyền người ta cảm thấy khó chịu, bứt rứt, bất an, thậm chí phẫn nộ, bởi vì nó không cho ta ngủ yên trên những thói quen sống và thói quen thẩm mỹ, nó bắt ta phải chấp nhận những trạng huống nhân sinh mới mà ta không muốn chấp nhận, để, cuối cùng, giúp ta vượt qua cái thực tại giả tạm, bề ngoài, tìm đến cái thực tại đích thực ở bề sau, bề sâu, bề xa, cái tổng thể mới có khả năng hợp nhất lại cái bề ngoài vỡ vụn.
Con người là một động vật khát thèm cái toàn vẹn, cái đồng nhất. Cho rằng vỡ nát, hỗn độn chỉ là của cái thực tại bên ngoài, người ta đi tìm sự thống nhất ở bên trong, ở chiều sâu: vô thức của phân tâm học, của chủ nghĩa siêu thực, cấu trúc của ngữ học và dân tộc học, siêu tuyệt hay cao cả trong mỹ học… Thanh Tâm Tuyền đi tìm một nghệ thuật khác chứa đựng tất cả những điều trên: đó là nghệ thuật Dionysos hay nghệ thuật đen. “Chúng tôi trả lại nàng thơ, trả lại nghệ thuật cho các người, cho những thi sĩ thuộc dòng đầu bù tóc rối có nghệ thuật rạng ngời vững vàng như thần Apollon. Chúng tôi theo cơn cuồng nộ bi thảm của Dionysos, của cuộc đời hôm nay. Chúng tôi cho các người vĩnh viễn, của cuộc đời hôm nay. Chúng tôi cho các người vĩnh viễn, hãy nhường lại cho chúng tôi hiện tại” (Nỗi buồn trong thơ hôm nay, 1955). Cuồng nộ bi thảm là tính chất của Dionysos, là sự khẳng định cuộc đời hôm nay. Bởi, “sự khai sinh ra bi kịch là một cuộc hoán đảo mọi giá trị” (Nietzsche, Buổi hoàng hôn của những thần tượng).
Sự thống nhất của thơ Thanh Tâm Tuyền còn ở mỗi tập thơ của ông, tôi không còn cô độc và Liên – Đêm – Mặt Trời tìm thấy, cũng như toàn bộ sáng tác thơ của thi nhân trước 1975, có cấu trúc. Khác với phần đông nhà thơ, thi phẩm của họ thường chỉ có bố cục mà không có cấu trúc, thi phẩm Thanh Tâm Tuyền ngược lại, không có bố cục nào cả nhưng lại có cấu trúc. Chính cấu trúc đã tạo ra một lực hướng tâm thu hút, sắp xếp những yếu tố tản mạn, đối nghịch nhau thành một chỉnh thể. Nhưng cấu trúc thơ Thanh Tâm Tuyền là một cấu trúc mở (Prigozhin), hay cấu trúc động. Nghĩa là, nó còn có một lực ly tâm, cũng mạnh mẽ không kém gì lực hướng tâm, khiến nhiều khi cấu trúc trở nên xộc xệch, để cho các từ vượt thoát khỏi hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thủy đi lang thang ra ngoài tìm những trò chơi mới. Thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, đi ra ngoài ngữ học cấu trúc của Saussure để đến với ngữ dụng học của Wittgenstein. Tính chất hậu hiện đại, theo kiểu Lyotar, thấp thoáng trong thơ ông là vậy.
Những cách tân theo hướng hiện đại bắt đầu với thơ của Nguyễn Xuân Sanh trong Xuân Thu Nhã Tập (1942). Thơ ông, mặc dù đã phát động một tư duy đứt đoạn, nhưng ngôn ngữ vẫn còn xưa cũ, sách vở, đặc biệt câu thơ vẫn bảy chữ chằn chặn xếp thành từng khổ bốn câu. Rồi thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi (1946 – 1949) với ngôn ngữ súc tích, giàu hình ảnh tươi nguyên từ thực tế đời thường. So với hai đàn anh trên, thơ Thanh Tâm Tuyền đi xa và sâu sắc hơn. Nhưng cách tân thơ của ông cũng chỉ kéo dài được trên dưới 5 năm, người khác không theo đã đành, mà chính thi nhân cũng không tiếp tục. Sau đó là thơ Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng thời hậu – Nhân văn, một số nhà thơ chống Mỹ và thơ “trẻ” ngày nay. Tuy là những đứt đoạn, nhưng đổi mới thơ vẫn thành một chuỗi liên tục, tạo ra kinh nghiệm lịch sử quý giá cho sự đổi mới thơ hôm nay đang được sự đồng thuận của cả Nhà nước và Xã hội.
Tháng 5 năm 2010
Đỗ Lai Thúy

Không có nhận xét nào: