Ngày 30 tháng 10 năm 2018, nhà văn Kim Dung qua đời ở tuổi 94
tại Bệnh viện Hong Kong sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật.
Kim
Dung tên thật là Tra Lương Dung (phồn thể: 查良鏞, giản thể: 查良镛, bính âm:
Cha Leung Yung), sinh vào ngày 6 tháng 2 năm 1924 tại trấn Viên Hoa,
huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc,
trong một gia tộc khoa bảng danh giá. . Ông nội là Tra Văn Thanh làm tri
huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời
con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút; Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau
sinh 9 đứa con, Kim Dung là con thứ hai.
Thuở nhỏ Kim Dung thông minh, lanh lợi, nghịch nhưng không đến nỗi
quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền
thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông
rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là "Tra thị
tàng thư" nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những
cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.
Sáu tuổi, ông vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại
thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn
cho ông lúc bé tên Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng
Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim
Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật
báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.
Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ
truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó
thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.
Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học
trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng
cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc
sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia
đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện
thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được
nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại
soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem
lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.
Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý
châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu
trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại,
nhưng đã cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim
Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến
học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với
học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo
có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự
ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động
dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu
trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một
ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài
báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả
chỉ là một học sinh.
Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di
dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để
bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học
Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu,
nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.
Tại học viện chính trị Trung ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối
năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ
này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt
tay vào làm cuốn Anh - Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng
Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại
trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố
cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi
học, năm 19 tuổi.
Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri
thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những
tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của
Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre
Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại
đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng
lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một
số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông
xem như thất bại.
Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này
rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc,
người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn.
Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi
học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.
Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ
Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày
xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú
về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi
việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch
thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều,
xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim
Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học
Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.
Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang
làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến
nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ
tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phân của
ông rất xinh đẹp.
Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị
quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với
gia đình. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông,
trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết
định ly hôn.
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện
trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của
mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn
viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời
Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa,
Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản
này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng,
Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.
Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương
Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết
truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương
Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim
Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái
chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến,
dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân
phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan
nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm
báo, không hoạt động điện ảnh nữa.
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh
Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài
xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những
tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập
khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.
Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức
nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn
học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu
thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã
được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính
trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản
Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển
giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.
Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của
mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn
giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét