Một phát hiện hay: Sách
Hồng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn
April 7, 2015
https://www.diendantheky.net/2015/04/o-quy-toan-sach-hong-mot-chu-truong-xay.html
https://tuanvannguyen.trihoc.com/2015/04/mot-phat-hien-hay-sach-hong-cua-nhom-tu/
Tác
giả Đỗ Quý Toàn có một phát hiện thú vị: đó là tủ Sách Hồng của nhóm Tự Lực Văn
Đoàn. Mê những tác phẩm của nhóm TLVĐ từ lúc còn bậc đệ thất, vậy mà đây là lần
đầu tiên tôi nghe/biết đến tủ sách này! Cũng đúng thôi, bởi vì nhiều nhà phê
bình văn học không hề nhắc đến loại sách này, hay có nhắc đến thì cũng chỉ qua
loa, và thế là chẳng bao nhiêu người nghe đến tủ Sách Hồng. Đây là loại sách
dành mang tính giáo dục cách sống và đạo đức xã hội cho thanh thiếu niên. Cái
hay của nhóm chủ trương là họ tìm tòi trong kho tàng truyện cổ tích dân gian,
rồi sáng tác thành tiểu thuyết với văn phong mới, trong sáng, dễ hiểu, dễ đi
vào lòng người. Linh mục Thanh Lãng viết “Các nhà văn thi nhau mà lục lọi tìm tòi trong di sản cũ những truyện
biến ngôn, những truyện hoang đường để mặc cho chúng những bộ áo mới duyên dáng
và thi vị hơn.” Đọc qua những điểm sách thì tôi thấy tủ sách này rất cần
thiết trong thời đại ngày nay.
Bài đã đăng trên Diễn Đàn Thế Kỷ, và tôi copy nguyên bài để
trước là tham khảo, sau là chia sẻ cùng các bạn.
====
http://www.diendantheky.net/2015/04/o-quy-toan-sach-hong-mot-chu-truong-xay.html
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/sch-hong-mot-chu-truong-xy-dung-cua-tu-luc-van-don/
Sách Hồng, Một chủ trương
“Xây Dựng” của Tự Lực Văn Đoàn*
Đỗ Quý Toàn
Tự
Lực Văn Đoàn xuất bản các truyện “Sách Hồng” với cuốn Ông Đồ Bể của Khái Hưng, nhà in ký nộp bản ngày 31 tháng Tám năm
1939 [Minh họa số 1]. Từ năm 1940 hai tháng in một tập Sách Hồng, mỗi cuốn có
đánh số thứ tự, cho đến năm 1945, ngoài ra còn có thêm Sách Hồng Đặc Biệt không
đánh số [Minh họa số 2]. Lấy tên “Sách Hồng” vì bìa trang trí màu hồng, vẽ bông
hoa hồng trên một góc; giống loạt truyện tiếng Pháp của Nhà Xuất bản Larousse, mang tên “Sách Hồng cho giới trẻ” (Les livres roses pour la jeunesse, xuất bản từ năm 1909 đến
1939, tổng cộng 719 cuốn). Những sách Livres Roses này
chắc cũng phổ biến ở Việt Nam, lúc đó do Pháp cai trị, và nhiều người Việt học
trường Pháp đã quen đọc tiếng Pháp. Sách Hồng của Tự Lực Văn Đoàn nhắm
vào trẻ em không biết tiếng Pháp hoặc biết nhưng cha mẹ muốn khuyến khích đọc
tiếng Việt. Nội dung các cuốn Sách Hồng mang tính chất giáo dục tương tự Les Livres Roses. Cách trình bày bìa, minh họa bên trong cũng chịu ảnh
hưởng của bộ sách Larousse in. Sách Hồng thường ghi do tên các nhà xuất
bản Ngày Nay, Đời Nay. Sau năm 1952, Nhất Linh tái bản, đề tên nhà xuất bản
Phượng Giang [Minh họa số 3]. Khoảng thập niên 1960 thành viên của gia
đình Khái Hưng thành lập nhà xuất bản Văn Nghệ, và cũng cho tái bản Sách Hồng
của Khái Hưng với tiêu đề “Sách-Hồng Khái-Hưng”, thí dụ: Để của bí mật, 1960, bìa màu đỏ cũng vẽ hoa hồng. [Minh họa số 4]
Trên
trang bìa sau Sách Hồng do nhà xuất bản Phượng Giang ở Saigon ấn hành, do Nhất
Linh tự chăm sóc về văn chương và đã khẳng định “Sách Hồng là loại tiểu
thuyết lý thú và hữu ích cho Nhi-đồng và Thanh-niên nam nữ. Các bậc phụ huynh
không phải lo ngại băn khoăn, cứ việc yên tâm mua Sách Hồng đưa ngay cho con em
đọc. Sách Hồng lại vừa là sách giáo khoa Việt-ngữ, các giáo sư muốn trích dẫn
những đoạn văn hợp trình độ học sinh đều cần có đủ bộ.”
Minh họa số 1: Ông Đồ Bể, 1939 (Sách Hồng số 1,
in 10 ngàn cuốn, hình dưới đây lấy từ microfilm, không màu)
Minh họa số 2: Bông Cúc Huyền. Đời Nay,
1943 (Sách Hồng Đặc Biệt, không đánh số)
Minh họa số 3: Thầy đội Nhất. Phượng Giang, 1961.
Các
nhà phê bình văn học và viết văn học sử Việt Nam thường bỏ qua Sách Hồng. Nếu
có nhắc đến một cách sơ lược họ cũng không phân tích kỹ về nội dung các cuốn
sách, vì coi đó chỉ là những “sách trẻ con.” Điều này đáng tiếc, vì bỏ qua bộ
Sách Hồng thì không nhìn thấy một khía cạnh quan trọng trong chủ trương của Tự
Lực Văn Đoàn. Sau khi dùng tiểu thuyết tấn công mạnh vào các hủ tục, các quy
tắc đạo đức lỗi thời thuộc nền văn hóa cũ, từ năm 1939 Tự Lực Văn Đoàn cũng
dùng Sách Hồng để đề cao nhiều giá trị luân lý cũ, giúp các thanh thiếu niên
hiểu biết thêm những quy tắc đạo đức trong truyền thống dân tộc.
Minh họa số 4: Để của bí mật. Saigon: Văn Nghệ,
1960. (Sách-Hồng Khái-Hưng)
Khi
viết về Tự Lực Văn Đoàn trong cuốn Nhà Văn Hiện Đại, Vũ Ngọc
Phan chỉ nhắc qua đến đến bộ Sách Hồng, không coi là những tác phẩm văn chương
quan trọng. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Giản Ước Tân Biên không
nói tới các sách này. Trong Bảng Lược đồ Văn Học Việt Nam – Quyển Hạ –
Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945) (Trình Bầy, Sài Gòn,
1967) Thanh Lãng chú ý đến Sách Hồng hơn, ông viết: “Hai loại xuất bản lớn ra đời do những nhà văn thời danh
chủ trương: chúng tôi muốn nói đến hai tủ sách: Sách Truyền Bá và Sách
Hồng. Các nhà văn thi nhau mà lục lọi tìm tòi trong di sản cũ những truyện
biến ngôn, những truyện hoang đường để mặc cho chúng những bộ áo mới duyên dáng
và thi vị hơn. Ngay trong loại Sách Truyền Bá và Sách
Hồng, ta cũng có thể gặp nhiều tác phẩm quả thực có giá trị lâu bền. Những
huyền truyện trên đây gây trong dân chúng một tiếng vang to tát: chúng là món
ăn tinh thần hợp giọng của thanh thiếu niên đang ham mê những cảnh thần tiên,
mơ mộng. Không nguyên giải trí, Sách Truyền Bá và Sách
Hồng còn là những phương tiện hiệu lực vô cùng để truyền bá chữ quốc
ngữ và phổ thông vào trong dân chúng nghệ thuật mới. So sánh với các huyền truyện
của Huỳnh Tịnh Của, của Trương Vĩnh Ký, hay của Phan Kế Bính, các huyền truyện
trong hai tủ sách Truyền Bá và Sách Hồng đã
vượt hẳn lên một bậc: cách kết cấu chặt chẽ, mạch lạc ; ý tưởng sâu sắc; văn từ
dễ dãi, nhất là lưu loát.” (trang 711-712; dẫn lại theo Luận văn chưa ấn
hành viết về Khái Hưng của Tanaka Aki (田中 あき), sinh
viên Đại học Ngoại ngữ Tokyo – tên chính thức là Đông Kinh Ngoại Quốc Ngữ Đại
học).
Thực
ra các bộ Truyền Bá và Sách Hồng không chỉ kể
lại những “huyền truyện, truyện biến ngôn, những truyện hoang đường thuộc di
sản văn chương cũ” như Thanh Lãng tóm tắt. Hai bộ sách này in những
sáng tác mới, phần lớn nội dung là khung cảnh xã hội đương thời. Nhiều tác giả
đã nổi danh trước khi tham gia trong các bộ sách thiếu nhi này. Một số tác giả
viết theo lối văn kể chuyện cổ tích, huyền thoại, ngụ ngôn; nhưng đó là số ít
và họ vẫn sáng tác những câu chuyện hoàn toàn mới.
Bộ sách Truyền Bá do ông Vũ Đình Long
và nhà in Tân Dân chủ trương, quy tụ
các nhà văn không thuộc Tự Lực Văn Đoàn nhưng nổi tiếng không kém. Trong đó có
Nguyễn Công-Hoan, Tô-Hoài, Lê Văn-Trương, Thâm-Tâm, Trúc-Khê, Ngọc-Giao, và
những nhà văn trẻ hơn như Mạnh Phú-Tư, Hoàng Cầm, Hữu-Mai, Phạm Bá-Đại,
Mai-Phương, Vũ Bằng, vân vân. Bộ sách Truyền Bá in như một tạp chí, ra mỗi
tháng hai lần, về sau in mỗi tuần một cuốn, gọi là tuần báo Truyền Bá.
Trong mỗi số có một truyện ngắn đầy đủ và một truyện dài đăng liên tiếp nhiều
kỳ, với nhiều bài ngắn cho trẻ em tìm hiểu, thí dụ trong số Báo Tết có những
bài “Ý nghĩa của những bức tranh Tết” hoặc “Tại sao người ta lại luộc bánh
chưng về ban đêm?” Người đọc thời nay chắc sẽ thú vị thấy cuốn Trên đảo
Hoàng-Sa của Ngọc-Cư, in tháng Ba năm 1943, chứng tỏ các nhà văn nước
ta đã chú ý đến quần đảo này trong khi cuộc Thế Chiến Thứ Hai còn đang diễn ra
và nước ta còn do Pháp cai trị và bị quân Nhật chiếm đóng.
Các tác giả Sách Hồng
Trong
số các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn hai tác giả viết cho loại Sách Hồng nhiều nhất
là Khái Hưng, Hoàng Đạo và Thạch Lam, mỗi người trên 10 cuốn. Ngoại trừ Nhất
Linh và Xuân Diệu, các nhà thơ, nhà văn khác trong văn đoàn đều góp tác phẩm
trong bộ sách thiếu nhi này. Thí dụ
-
Thế Lữ (Hai Thứ Khôn in
hai lần, Cuộc Đời Ly Kỳ và Gian Nan Của Rô-Bin-Sơn,
dịch, in thành bốn cuốn);
-
Thạch Lam — khi viết Sách Hồng còn
lấy bút hiệu Thiện Sĩ (Hạt Ngọc của Thạch Lam, Quyển Sách của
Thiện Sĩ, vân vân);
-
Tú Mỡ kể chuyện bằng thơ lục bát (Bà
Túng, số 26, tháng Sáu 1942; Vụ kiện Trê Cóc, số 27, tháng
Giêng 1943), có viết kể truyện cổ tích như Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn (cuốn
này ghi ở bìa là Truyện Cổ Tích, không phải là Sách Hồng, nhưng cũng là sách
dành cho thiếu nhi).
Nhiều
tác giả ngoài Tự Lực Văn Đoàn được mời viết, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ hơn,
như
-
thi sĩ Huyền Kiêu (Đứa bé đi câu),
-
V. Minh (Hai tháng đầy đủ của một
Hướng đạo sinh, 2 cuốn),
-
J. Lưu Ngọc Văn (Tiếng Chim Ca, tập
1 ),
-
Đào Văn Thiết (Tiếng chim ca,
Tập 2),
-
Huyền Hà (Sách rừng, 1, 2, 3,
4), vân vân.
Sách
cho trẻ em đọc thường in nhiều hơn các tác phẩm văn chương, loại Sách Hồng cũng
vậy. Thí dụ, cuốn Con Cá Thần của Hoàng Đạo in ngày 18
Novembre 1939 tại nhà in Ngày Nay, “tirage” (số lượng in) do quản lý (gérant)
của nhà in ký nộp bản ngày 15 Decembre 1939, ghi 10,000 cuốn, mỗi cuốn 32 trang
[Minh họa số 5]. Ông Đồ Bể của Khái Hưng, in 30 Juin 1939,
chứng nhận tirage của nhà in Ngày Nay, đề ngày 31 Aout 1939, in 10,000 cuốn.
Một cuốn bán chạy, như Cóc Tía, kịch 2 hồi 2 cảnh của Khái Hưng,
khi tái bản lần thứ ba năm 1940 vẫn còn in 5,000 cuốn [Minh họa số 6]
Minh họa số 5: bìa Con Cá Thần. Đời Nay. 1939 (trích từ microfilm)
Minh họa số 6: bìa Cóc tía. Đời Nay, 1940 (trích từ microfilm)
Với
số lượng phổ biến cao như vậy, Sách Hồng gây ảnh hưởng trên lối viết, lối diễn
đạt của độc giả nhiều hơn những tác phẩm văn chương của Tự Lực Văn Đoàn. Văn
chương Sách Hồng rất giản dị, trong sáng như văn đoàn này vẫn chủ trương; các
tác giả đều cố gắng đạt tới mức giản dị tối đa.
Từ
năm 1952 Nhất Linh lập nhà xuất bản Phượng Giang tại Sài Gòn tái bản sách
TLVĐ và Sách Hồng, đồng thời có thêm những tác phẩm mới của các tác giả không
thuộc Tự Lực Văn Đoàn. Về Sách Hồng có các cuốn do Phượng Giang xuất bản lần
đầu như Chiếc Áo Nhung Lam của Linh Bảo, Hoàng Tử Chột
và Công Chúa Xứ Anh Đào, của Phạm Lệ Oanh (cũng dùng tên Lệ Oanh
để viết Con Đường Mới, Đứa Trẻ Khốn Nạn, Lá số tử vi, Phật của bé Hương),
của Bình Nguyên Lộc (Người đàn ông đẻ), của Đỗ Đức Thu (Bạn vàng)
Bảo Sơn (Đảo san hô)…
Ngôn ngữ
Chúng
ta không ngạc nhiên khi thấy trong Sách Hồng những chữ mà đến thế kỷ 21 ít
người Việt Nam còn sử dụng như: “Đường đi trong làng quằn quèo” (Lên
Chùa của Thiện Sĩ) cũng như “tìm nhẽ lý của
cuộc đời,” hoặc “một giống chim cứng cát” (Hoàng Đạo, Con
Chim Gi Sừng). Trong Hạt Ngọc của Thạch Lam, ông viết, “Bà Tú mời ông Ba
ngồi trên chiếc trường kỷ kê liền một chiếc án
thư.” Những đồ đạc như “trường kỷ” (ghế dài) và “án thư” (bàn nhỏ để sách)
ngày nay ít người biết đến, nhưng chữ “liền” nghĩa là “ở bên cạnh” giờ cũng
không mấy ai dùng, mặc dù chữ “liền” nghĩa là “ngay lập tức” vẫn còn thông
dụng.
Cũng
vậy, trong Sách Hồng viết nhiều chữ Hán, các chữ thời đó còn thông dụng, ai
cũng hiểu, nhưng ngày nay rất ít người dùng, thí dụ gọi cha, bố là thân
phụ. Trong Cóc Tía của Khái Hưng, “Con vẹt chào nhị
vị đại huynh” nghe hài hước như các vai trò nói trên sân khấu. Trong Sơn
Tinh của Hoàng Đạo ông viết “Ngọn cô phong,” (nghĩa là
ngọn núi cao lẻ loi), “hiền khế” (gọi người con rể). Trong Con
Hươu Sao của Hoàng Đạo, số 31, in năm 1944, ông kể: “Con chồn năn nỉ
con chó săn của ông châu: Xin anh hãy nghĩ đến tình đồng hương, đồng xứ!”
Trong sách dịch Cô Bé Đuôi Cá, Hoàng Đạo viết, “… tân lang và tân
nhân xuống tầu. Tiếng súng thần công nổ vang …”
Ảnh
hưởng của lối văn cổ điển thấy rõ trong thơ Tú Mỡ, khi ông mô tả nàng Bạch
Tuyết, với ngôn ngữ phảng phất Cung Oán:
Miệng
cười như đóa hoa xinh,
Con
mắt đa tình đắm nguyệt say hoa
Một
điều lý thú là ngay khi viết cho trẻ em đọc, các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn vẫn
giữ cả lối viết hài hước, trào phúng với ngụ ý phê bình xã hội đương thời. Trong Cóc
Tía (Sách Hồng số 8) Khái Hưng cho các con vật nói năng trịnh trọng,
rõ ràng chế giễu một thói tục đương thời. Ông giải thích một vùng bị nạn hạn
hán với lý do quên hối lộ các quan phụ trách làm mưa trên “thiên đình;” bọn họ
tham ô, chỉ nơi nào dâng lễ nhiều mới cho mưa xuống. Các sinh vật họp nhau lại,
đề cử Cóc Tía lên trời khiếu nại – vì Cóc có uy tín “là Cậu Ông Trời!” Cóc Tía
đã “tuyển mộ anh tài đại náo thiên cung” vì thiên đình là một lũ thối nát! Khái
Hưng mô tả Ông Trời cũng “mê đánh tổ tôm,” bỏ cả việc “triều đình” giống như
ông “Quan Phụ Mẫu” trong truyện ngắn “Sống Chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn.
Nhưng các vì sao “quần thần” cũng ham chơi: Bắc Đẩu quên không giữ
“sổ tử,” Nam Tào bỏ “sổ sinh” không “cập nhật” không biết trong các loài
sinh vật đứa nào còn sống, đứa nào đã chết. Ngòi bút Khái Hưng vẫn sắc sảo như
khi viết tiểu thuyết phê bình xã hội. Khi cô Hằng Nga trên cung trăng nói có
thể giúp cho tất cả loài người “hạ giới” bất tử; Bắc Đẩu hỏi: “Bất tử mà bệnh
tật, nghèo đói thì bất tử làm gì?”
Đề tài
Nhiều
Sách Hồng kể chuyện cổ tích, như Tú Mỡ kể lại chuyện Trê Cóc, Hoàng Đạo phóng
tác chuyện Tấm Cám nhưng cả hai đều thay đổi nhân vật, bố cục và nhiều chi
tiết. Nhiều cuốn là sáng tác mới viết nhưng viết theo lối chuyện cổ tích,
như Ông Đồ Bể của Khái Hưng, Con Cá Thần của
Hoàng Đạo. Nhưng phần lớn các Sách Hồng kể những câu chuyện trong khung cảnh
thời đại của người đọc chứ không phải thuộc thời xa xưa. Những câu chuyện đoàn
Hướng Đạo đi cắm trại, hoặc một gia đình về quê để những đứa trẻ có dịp quan
sát nghề làm ruộng, hoặc một em bé lên chùa nghe giải thích về tôn giáo, đều
nhắm vào việc giáo dục lớp thiếu nhi hiểu biết thêm về xã hội Việt Nam bên
ngoài các thành phố.
Ngay
trong chuyện thần thoại, nhân vật chính là các trẻ em bình thường, như một cậu
học sinh trong Con Cá Thần, hoặc là một nho sĩ như Ông Đồ
Bể. Theo lối kể chuyện thiếu nhi, các Sách Hồng cũng lấy những loài thú làm
“nhân vật.” Như con Ong, con Kiến, và con Ve, cá Trê, Cóc với Nhái Bén, Ễnh
Ương (Vụ Kiện Trê Cóc kể bằng thơ, của Tú Mỡ). Các “nhân vật” trong
kịch Đạo sĩ của Khái Hưng là Hươu, Nai, Chim, Vượn, Gấu, Hổ,
lại thêm các loài Hoa Đơn, Hoa Sim, Hoa Cúc, tất cả đều nói tiếng người. Cũng
như con hươu, con bướm, con cú, cô chim khuyên, đến cô phong lan và cả giọt sương
cũng biết nói, trong Con Hươu Sao của Hoàng Đạo, số 31, in
tháng Bảy năm 1944. Con Chim Gi Sừng của Hoàng Đạo (số 15) là
lời con chim già kể cuộc đời mình, từ lúc chui ra khỏi vỏ trứng, thấy mẹ bay
lượn chào đón các con; trong truyện này các loài chim đều nói chung một tiếng
nói. Trong Sách Hồng hay có thần thánh tham dự và phù trợ, thí dụ trong Bông
Cúc Huyền của Khái Hưng, Con Cá Thần Hoàng Đạo.
Một
số Sách Hồng đã dịch các truyện ngoại quốc phổ thông, đã mang tính chất quốc
tế. Cuộc đời ly kỳ và gian nan của Rô-Bin-Sơn một
mình trên hoang đảo được Thế Lữ dịch thuật, in thành bốn cuốn, số 11, 12, 13,
và 22). Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn được Tú Mỡ kể lại bằng thơ,
với các nhân vật được Việt Nam hóa. Con chim nói sự thực của
Thiện Sĩ dịch nhiều truyện cổ tích quốc tế. Hoàng Đạo dịch chuyện Con
Chim Họa Mi, số 32, có thêm truyện Cô Bé Thơm, in năm 1944, giới thiệu là
“truyện thần tiên của Andersen.” Cô Bé Đuôi Cá do Hoàng Đạo
dịch in xong tháng Năm năm 1945 là một ấn bản đặc biệt không đánh số; mỗi cuốn
trên gồm nhiều truyện ngắn của Christian Andersen, dịch theo bản tiếng Anh.
Truyện Con chim nói sự thực (số 21, in năm 1942) của Thiện Sĩ
được tác giả giới thiệu là dựa trên một truyện của Y Pha Nho (nay gọi là Tây
Ban Nha).
Trong
thời gian các Sách Hồng ra đời Phong trào Hướng Đạo đã phát triển khá rộng.
Hướng Đạo, từ Anh quốc qua Pháp rồi từ đó sang hoạt động tại Việt Nam từ năm
1930, đã lập những đoàn “Sói Con” cho trẻ em từ 6 tuổi đến 11 tuổi. Tên gọi này
dựa trên một câu chuyện của nhà văn người Anh Rudyard Kipling, ông tả một em bé
sơ sinh được đàn sói nuôi, sống chung với các con sói khác. Huyền Hà đã dịch 4
cuốn Sách Hồng mang tên chung là Sách Rừng tập I, II, III và IV. Cuốn Sách
Rừng Tập I: Anh em của Mowgli của Kipling được Huyền Hà
dịch từ bản gốc tiếng Anh, in năm 1943. Cuốn thứ nhì đặt tựa là Sách
Rừng Tập II: Kaa Đi Săn, tên một điệu múa của các “sói con.”
Cuốn thứ ba có tựa là: Sách Rừng Tập III: Có Hổ! Có Hổ. Cuốn
thứ bốn có tựa là: Sách Rừng Tập IV: Rikki, Tikki,Tavi.
Tập
truyện đưa ra những “nhân vật” trong đàn thú rừng, sống ở khu đồi Seeonee.
“Thằng bé con người” lúc sơ sinh bị bỏ lại bên đống lửa giữa rừng khi người lớn
bỏ chạy hết vì bị cọp tấn công. Cọp Shere Khan đã phạm “luật rừng cấm không
được tấn công loài người” (cấm tấn công cả gia súc do loài người nuôi, vì sợ họ
sẽ trả đũa). Shere Khan gặp lửa bị bỏng nên thất bại không bắt được người nào.
Chú bé được một ông bố sói cứu đem về nuôi như một “sói con” đặt tên là Mowgli,
vì nó trần trụi không lông, như một con ếch. Bầy sói tự gọi là “Dân Tự Do” do
“sói xám cô đơn” đứng đầu, cũng gọi là “Akela hay Sói đầu đàn,” có những nhân
vật tốt như con voi Hathi, con báo đen Begheera, con trăn Kaa, con gấu Baloo
(không ăn thịt, chuyên dậy luật rừng cho các sói con), có con cọp Shere Khan và
chó rừng Tabaqui là những nhân vật xấu. Huyền Hà đã góp công vào việc giáo dục
Hướng Đạo cho các “sói con” Việt Nam chưa đọc được tiếng Pháp. [Minh họa
số 6]
Minh họa số 6: Sách Rừng, tập I: Anh Em Của Mowgli, Huyền Hà dịch truyện của R. Kipling
Nội dung
Tự
Lực Văn Đoàn có chủ trương phục vụ xã hội qua việc phổ biến các hiểu biết mới
và những giá trị luân lý cũ và mới. Tủ sách Sách Hồng đặc biệt viết cho các
thiếu nhi đọc cũng theo lý tưởng chung đó. Các cuốn sách này không chỉ nhằm
giải trí mà còn có mục đích giáo dục người đọc. Hai cuốn sách đầu tiên trong bộ
Sách Hồng do Khái Hưng và Hoàng Đạo viết đều mang nội dung giáo dục. Có thể
đoán, trước khi xuất bản bộ Sách Hồng trong Tự Lực Văn Đoàn đã thảo luận với
nhau và hai tác giả được phân công viết những cuốn đầu tiên là Khái Hưng và
Hoàng Đạo. Nội dung hai cuốn sách này có thể “làm mẫu” cho cả bộ sách sau đó.
Trong Tự Lực Văn Đoàn Hoàng Đạo là người chú ý đến việc xây dựng lý tưởng mới
cho thanh niên, như khi ông viết Mười Điều Tâm Niệm, một cuốn sách
mang tính chất lý luận, và tiểu thuyết Con Đường Sáng. Độc giả
của Mười Điều Tâm Niệm hoặc Con Đường Sáng là
những người đã trưởng thành. Sách Hồng nhắm lớp trẻ trên dưới 10 tuổi, cho nên
nội dung giáo dục cũng khác.
Đối
với những người đã quen nhìn Tự Lực Văn Đoàn như một nhóm trí thức trẻ thể hiện
chủ trương “theo mới” bằng cách đả phá những cái cũ, thì nội dung giáo dục
trong Sách Hồng có thể đáng ngạc nhiên. Vì ngay trong những cuốn sách đầu tiên,
do hai nhà văn chủ chốt, chúng ta thấy Tự Lực Văn Đoàn làm công việc xây dựng
chứ không đả phá. Và để xây dựng một nếp sống mới, một nền luân lý vững vàng
cho các thiếu niên, Khái Hưng và Hoàng Đạo đã đề cao những giá trị đạo lý cổ
truyền của người Việt Nam.
Đề cao đạo đức cổ
truyền
Tự
Lực Văn Đoàn nổi tiếng về các tiểu thuyết mô tả và đả kích các phong tục cũng
như các quy tắc luân lý hủ lậu trong xã hội Việt Nam. Nhưng bộ Sách Hồng lại
chứng tỏ một cố gắng phục hồi những nền nếp tốt của Nho giáo và Phật giáo, qua
những mẫu người, những tấm gương sống thể hiện tinh thần đạo Phật cũng như đạo
Nho.
Trong
cuốn sách đầu tiên của bộ Sách Hồng (mang số 1), Khái Hưng kể chuyện Ông Đồ Bể, một Nhà
Nho chính trực mà giới trẻ Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 vẫn có thể noi gương.
Ông Đồ Bể lên đường về Thăng Long đi thi; ông đi qua một cái miếu có vị thần
“rất thiêng,” nhưng ông không chịu vào lễ theo lời bà bán quán khuyên, để xin
phù hộ may mắn và tránh bị thần phạt. Ông Đồ giải thích: “Chỉ những kẻ hèn hạ
không biết tự trọng hay không chính trực quang minh mới khúm núm sợ hãi mà
thôi.” Vị thần miếu tức giận lắm, hiện lên thành người, kết bạn với Ông Đồ, đi
chung đường để thử xem ông ta có “chính trực quang minh” hay không. Nếu Ông Đồ
để lộ tính xấu thì Thần sẽ trừng trị. Thần còn cố ý xúi giục Ông Đồ làm bậy,
nhưng ông luôn luôn giữ tư cách đường hoàng. Trong khi khát nước ông từ chối
không bẻ mía trên ruộng của người ta mà ăn; khi múc nước dưới giếng lên thấy
cục vàng, ông cũng vứt xuống, không lấy. Tới một quán trọ chỉ có hai cô gái làm
chủ, một cô còn liếc mắt đưa tình, Ông Đồ Bể không chịu vào ngủ trong quán trọ
mà dựng lều lên ở ngoài đường qua đêm.
Tới
Thăng Long, nghe các thí sinh nói viên đốc học làm chánh chủ khảo trường thi là
người chuyên ăn hối lộ, ai đút tiền nhiều thì được đỗ cao, ai không đút lót thì
rớt. Vị thần đã lấy tình bạn đề nghị giúp Ông Đồ đủ vàng bạc để hối lộ: “Tôi đã
đem theo đây bốn nén vàng để phòng khi gặp phải ông chánh chủ khảo có máu tham
đồng, đổi trắng thay đen, thì sẽ tùy cơ ứng biến. Đây bác cầm lấy hai nén rồi
ngay đêm nay chúng ta cùng nhau tìm vào nơi nhà riêng của viên đốc học.”
“Ông
Đồ Bể từ chối, nói thà rằng không đỗ chứ nhất định không chịu đút lót, lễ lạc
để mất cả phẩm giá con người.” Thái độ và hành vi chính trực của Ông Đồ đã thay
đổi thái độ của vị thần. “Đến đây ông thần mới tỉnh ngộ và hiểu rằng không có
cách gì, không thể dùng mưu thần chước quỷ nào trị nổi một người chính trực
quang minh như Ông Đồ Bể được. Lòng thù ghét của ông thần đối với ông đồ đổi ra
lòng cảm phục.” Sau đó Ông Đồ Bể đã thi đậu, vào triều gặp ông vua, đi làm
quan, vân vân, mà lúc nào cũng cho thấy một tư cách quang minh chính đại, theo
đúng các tiêu chuẩn đạo đức của nhà Nho, mặc dù tác giả không nhấn mạnh đến
những chữ “Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ,” vẫn thường được đề cao trong Nho giáo. Viết
Ông Đồ Bể, Khái Hưng cũng nhằm một mục đích giống như Phan Bội Châu viết Khổng
Học Đăng, hay Trần Trọng Kim viết Nho Giáo.
Con Cá Thần của Hoàng Đạo là cuốn số 2 trong bộ Sách Hồng, kể
chuyện một cậu bé có lòng hiếu thảo và nhân từ. Cha chết năm 13 tuổi, “gia sản”
dùng hết vào việc “thuốc thang,” cậu Minh phải bỏ học về ở nhà giúp mẹ. Cậu trở
thành một người đánh cá. Một hôm, cậu câu được một con cá vừa lớn vừa đẹp, con
cá biết nói tiếng người van xin cậu tha. “Cậu mơ màng nhớ đến thuyết luân hồi
của đạo Phật mà mẹ cậu thường nói đến, và bỗng đem lòng thương con cá kia, có
lẽ cũng biết đau khổ, cũng biết sống và vui như cậu. Cậu bèn thả con cá dị kỳ
xuống biển. Con cá tỏ vẻ hoan hỉ, nhìn Minh gật đầu như để tỏ lòng cảm tạ rồi
vẫy đuôi bơi đi.”
Đêm
hôm đó Minh nằm mơ thấy một chàng thiếu niên, tự nhận là thái tử con của Long
Vương (vị vua cai trị dưới biển), chính là con cá dị kỳ Minh đã tha chết. Hôm
sau, chàng hoàng tử biển này đã dẫn Minh xuống “Thủy tinh cung,” giúp Minh tìm
được kho tàng quý, nhờ thế trở thành giầu có. Trong chuyến du lịch dưới nước,
Minh tỏ ra có lòng thương loài vật như người, khi có tiền chàng lập nhà thương
giúp hàng xóm. Chàng cởi trói cho con cá chiên mắc bẫy, chính là long nữ dưới
thủy cung; chàng nhường cơm cho người đói. Chàng không tham lam, tìm được kho
báu bèn đem trả long vương; Long vương cho cả hộp châu báu nhưng chàng chỉ xin
một ít vàng đủ để nuôi mẹ thôi. Minh can đảm, phải bước qua một cái ao nước sôi
sùng sục nhưng không sợ. Khi thấy mình trở nên nhẹ nhàng, đi trên mặt
nước “Minh mới hiểu rằng lòng can đảm là một lá bùa hộ thân rất hiệu
nghiệm.”
Minh
là người hiếu học, khi không phải lo kiếm tiền bèn đi học lại, rồi lập trường
học giúp trẻ em cùng làng. “Bà mẹ Minh vốn là một hiền mẫu, … ngay hôm sau bà
cụ mướn người dựng nhà, mua bàn ghế, mời giáo sư về mở trường dậy học. Không
bao lâu bao nhiêu trẻ con trong làng đều đến trường ấy học tập, vì bà cụ nhân
từ kia đi từng nhà khuyên mời và cấp giấy bút cho những học trò nghèo.”
Trong
thập niên 1930 ở Việt Nam có phong trào phục hưng Phật Giáo, với các buổi diễn
thuyết, với sách, báo, các hội Phật học và tổ chức “tăng già.” Những người lãnh
đạo phong trào này chắc cũng không ngờ Tự Lực Văn Đoàn cũng đóng góp vào công
cuộc đó, với những cuốn Sách Hồng cho trẻ em đọc.
Cuốn Lên Chùa của
Thiện Sĩ (một bút hiệu khác của Thạch Lam), Sách Hồng số 14, không những giúp
các bạn trẻ hiểu biết thêm về đạo Phật mà còn giải thích cho cả người lớn về
nghi thức thờ phụng trong một ngôi chùa của Phật Giáo Bắc Tông. Trong câu
chuyện, hai đứa trẻ Dung và Thạch xin đi theo mẹ đi lễ chùa nhân ngày rằm tháng
Giêng; trong khi người mẹ chỉ tính đi lễ cùng các bà bạn – một thành kiến coi
chùa chiền chỉ là việc của các “bà vãi.” Ông Thân, người cha đã dẫn các con đi.
Tới chùa, các con được ông Thân giải thích cho hai đứa trẻ về sự tích đức Phật,
từ lúc đi tu cho tới khi nhập Niết Bàn.
Ông
Thân kết luận: “Đạo Phật là một đạo cao siêu và uyên thâm, bây giờ các con chưa
hiểu được. Theo đạo Phật thì người ta kiếp này chết đi lại bắt đầu kiếp khác
mãi không hết, như thế gọi là luân hồi. Mà việc gì cũng có liên lạc nhân quả
với nhau; nếu làm việc thiện thì kiếp sau được hưởng điều thiện, làm việc ác
thì phải chịu điều ác. Nếu muốn thoát khỏi cái vòng luân hồi để đến thế giới
cực lạc, hay Nát Bàn, thì phải theo đạo Phật. Nghĩa là phải suy nghĩ cho sáng
suốt, hiểu biết mọi lẽ để tâm hồn không bị tối tăm mê muội nữa. Và phải đem
lòng từ bi, thương mến mọi người, mọi vật quanh mình, chớ làm điều ác bao giờ.
Như các con còn bé bây giờ thì phải chăm chỉ học hành để hiểu biết thêm, phải
giúp đỡ những người nghèo khó. Cứ làm như thế các con cũng là làm theo đạo Phật
rồi.” Thiện sĩ viết thêm: “Thạch và Dung đều kính cẩn vâng lời, ghi nhớ lấy
những lời cha dặn.”
Đi
khắp ngôi chùa, ông Thân giảng giải với hai con về cách bầy biện các pho tượng
Phật và Bồ Tát, các bàn thờ trong chùa, những kiến trúc từ Cổng Tam Quan vào
Chính Điện, vào Tăng đường hay nhà Tổ, qua Nhà Bái Đường nằm ngang nối với
chính điện, với hai vị thần Hộ Pháp. Sau cùng, ông Thân dẫn các con qua Điện,
là nơi thờ “Thánh Mẫu” và “Đức Ông” và các “quan lớn” để cho “phái đồng bóng.”
Ông giải thích: “Phái này không có liên lạc gì với Đạo Phật cả. Người ta sở dĩ
lập ban thờ Chư Vị ở đây vì muốn chiều lòng những người muốn đến lễ bái, dâng
bát hương, ngồi đồng, ngồi bóng. Nhưng cách thờ phụng như thế thực hỗn tạp và
giảm mất cái cao quý tôn nghiêm của đạo Phật đi.”
Tự
Lực Văn Đoàn không cổ động cho Nho giáo cũng như Phật giáo, họ chỉ quan tâm đến
những giá trị nằm trong các nguồn văn hóa tổ tiên người Việt đã tiếp nhận để từ
đó xây dựng nền đạo lý dân tộc. Tú Mỡ, trong tập truyện Bà Túng viết theo
thể song thất lục bát, trong truyện Thằng Ăn Cắp Gà với Bà Già Đạo Đức với
những niềm tin tưởng bình dân, trong đó các thần, phật đều ở trên thiên cung,
mọi việc thế gian do ông Trời xếp đặt:
Vả
chăng việc trên đời thiện ác
Đã
có Trời thưởng phạt công minh
Trong
chuyện Người Hóa Khỉ, Phật đóng vai một sứ giả của Trời, đã hiện xuống làm một
ông già, bảo cô gái:
Ta
là Phật Tổ Như Lai,
Trời
sai ta xuống thử người trần gian
Vì
cô gái hiền lành tử tế nên được Phật giúp đang xấu trở thành đẹp. Còn ông bà
“trưởng giả” cha mẹ nuôi cô thì độc ác, cho nên Phật đã khiến họ biến thành
khỉ, đó là “Nghìn xưa sự tích của con bù dù!”
Tú
Mỡ không đề cao một tôn giáo, nhưng kết thúc câu tục ngữ diễn tả triết lý nhân
quả trong đạo Phật đã thấm nhuần trong văn hóa Việt Nam:
“Ở
hiền âu sẽ gặp lành
Ai
hành ác nghiệt tội đành vai mang.”
Hoàng
Đạo không “viết chuyện cổ tích” mà phóng tác để thay đổi cho chuyện cũ bớt
người ác, nhiều người thiện hơn. Truyện Lan và Huệ của ông (số
10, in tháng Giêng 1941) kể chuyện mẹ ghẻ, con chồng, giống như chuyện Tấm Cám
nhưng với kết cục rất nhân hậu. Lan đóng vai cô Tấm, giầu lòng từ bi, yêu
thương cả các loài vật như con chim, con chuột. Nhưng tác giả đã thay đổi đoạn
kết: Lan không trả thù mà đã rộng lượng tha thứ cho bà dì ghẻ và cô em tên là
Huệ! Lan cảm hóa cả hai người, biến người ác thành người thiện!
Triết lý sống giản dị,
lương thiện
Trong Cái Ấm Đất của
Khái Hưng (số 9, 1940); một nhà cự phú trước khi chết đã thú tội với các con
“Cha đã hà hiếp bóp hầu bóp họng người ta để có được cái tài sản ngày nay mà
cha sắp đem chia cho các con. Cha xuất thân với nghề bán nước vối rong.”
Người
cha để lại gia tài rất lớn, với một di sản đặc biệt là cái ấm đất: “Nó là người
bạn hàn vi của cha. Nó là người bạn thân-mật của một quãng đời trong sạch của
cha, vì ngày còn phải kiếm ăn với cái ấm đất, cha hiền lành, ngay thẳng, thành
thực. Rồi sau, một ngày một thêm giàu có, cha cũng một ngày một thêm lừa lọc,
gian trá, ác nghiệt, tàn nhẫn. …cái ấm đất thì nó hoàn toàn trong trắng, không
hề nhuộm máu, (không) đựng mồ hôi nước mắt của một ai.”
Khi
chia gia tài, người anh Cả nhận lấy ruộng và trâu; anh Hai lấy dinh cơ nhà cửa;
chỉ cậu em út nhận cái ấm đất. Hai anh muốn giúp nhưng cậu em từ chối. Anh Ba
đi bán nước vối, một ông cụ uống hết cả ấm mà không trả tiền, một bà cụ làm đổ
hết cả nước vối, đổ hai lần, nhưng anh Ba vẫn vui vẻ. Vị thần thử thách
anh xong mới nói: “Tôi là linh hồn của cái ấm đất này, tôi là Thần Ấm Đất,” và
hỏi anh ước muốn gì sẽ giúp.
Anh
Ba không thích giầu, không thích sang, chỉ thích sống “đủ ăn, không làm phiền
ai và không bị ai làm phiền mình.” Giữa hai mục tiêu “giầu có hay sung sướng,”
anh Ba chỉ mong sống sung sướng. “Ba sẽ sung sướng được sống một đời trong sạch.
Ba sẽ sung sướng với sự giúp đỡ kẻ nghèo, vì không giầu có Ba cũng có thể giúp
đỡ kẻ nghèo bằng một bát nước vối nóng, thơm ngọt. … Ba sẽ sung sướng vì một
đời bình dị sẽ không thay đổi lòng Ba như một đời giàu có. Ba sẽ mãi mãi giữ
được nguyên vẹn lòng tốt của mình.”
Cổ động nếp sống mới
Sống
khỏe mạnh, sống gần gũi với thiên nhiên, đó là một phong trào mới ở các thành
thị nước ta từ đầu thế kỷ 20. Tự Lực Văn Đoàn tích cực đóng góp cho cuộc vận
động này.
Cắm Trại của Khái Hưng tả một đoàn Hướng Đạo đi cắm trại. Đây
là những trang nhật ký của Lực, anh đoàn trưởng 16 tuổi; anh dẫn đoàn đi cắm
trại từ ngày 28 tháng Sáu đến 20 tháng Bẩy, quá lâu ngày so với các cuộc cắm
trại bình thường chỉ trong một cuối tuần. Cho nên trong kỳ trại này đoàn đã làm
nhiều công việc hữu ích chứ không chỉ đi chơi. Mục đích của tác giả là diễn tả
quan niệm sống mới.
Thí
dụ, ông đề cao ý kiến “Làm việc bao giờ cũng thích, nhất là làm việc bằng chân
tay.” Vì vậy, luật lệ của đoàn cắm trại là ai muốn nhập đoàn, muốn được đi cắm
trại thì phải thông thạo một nghề chân tay. Trong câu chuyện chúng ta thấy các
đoàn sinh biết đan tre, biết cắt áo, đóng bàn ghế, vân vân. Họ còn giúp ích xã
hội, như làm cả một sân vận động cho ngôi làng nơi họ đóng trại, rồi giúp dân
trong việc chài lưới. Trong một tháng ở gần nông dân họ được học về các loại
thóc, được tập cầy, bừa, còn học cả cách làm nước mắm. Những điều này Hoàng Đạo
cũng hay cổ động trong các sách của ông, cho thấy hai nhà văn đều thể hiện một
chủ trương cải tạo xã hội của Tự Lực Văn Đoàn.
Hạt Ngọc của Thạch Lam (số 12) là một cuốn hay nhất
trong bộ Sách Hồng. Lối viết của Thạch Lam giản dị, nhẹ nhàng rất thích hợp với
đề tài và mục đích giáo dục thanh thiếu niên thành thị về đời sống của người
nông dân, cho họ thấy muốn có những hạt cơm ăn (những hạt ngọc) thì bao nhiêu
người phải góp công, góp sức. Các trẻ em ngày nay, năm 2015 muốn học về nghề
làm ruộng, trồng lúa của tổ tiên từ thế kỷ 20 về trước nếu đọc Hạt Ngọc cũng
đủ các thông tin cần thiết.
Câu
chuyện bắt đầu khi Ban, một học sinh ở Hà Nội, phải làm bài luận tả một buổi
gặt lúa ở nhà quê. Cậu bị điểm kém vì, cậu phân trần với cha, “con chưa thấy
người ta gặt lúa bao giờ thì làm sao mà tả được?”
Ông
Ba, người cha cậu bé thấy phải đưa hai con về quê, ở tỉnh Hưng Yên. Ông suy
nghĩ: “Về quê để chúng biết công việc đồng áng ruộng nương ra sao … Để chúng
biết sự làm ăn khó nhọc, chân lấm tay bùn của những người làm ruộng suốt ngày
giãi nắng giữa cánh đồng; để chúng biết giá trị của một hạt thóc mà bao nhiêu
công quả mới gặt được về. Ông thường thấy trẻ con các nhà giầu có ở Hà Nội
không biết coi trọng hạt cơm … Ông lại thấy các cậu đó đối đãi với những người
nhà quê rất là khinh bạc, tỏ ý khinh bỉ những người quần nâu áo vải….” Thạch
Lam viết cuốn sách này nhằm mục đích giáo dục trẻ em thành phố như vậy.
Ông
Ba đưa Ban và Hồng, cô con gái nhỏ, về quê. Họ vào quán nước đầu làng, gặp bà
bán hàng tử tế. Hai đứa trẻ được ra đồng xem gặt lúa, chúng được cho thử gặt
lúa để thấy công việc đòi hỏi kỹ thuật khéo léo. Những người thợ gặt được chủ
ruộng cho phép đổi lúa mới gặt lấy bánh của cô hàng, cô này cứ mùa gặt mới
làm bánh đem bán. Tối về nhà các em được xem đập lúa, cũng được tập dùng cái
néo nhưng rất vụng về. Các em được thấy người ta dùng đôi đũa tre để “tuốt lúa”
là gạt nốt thóc sót lại trên từng bông lúa, các em biết mỗi hạt thóc đều quý
giá. Tác giả giới thiệu “cái hái” để cắt các bông lúa, “cái néo” để kẹp lúa lại
khi “đập lúa,” mô tả kỹ lưỡng cả cách sử dụng những nông cụ này. Trong lúc
ngoài sân đập lúa thì trong nhà có tiếng giã gạo, và có tiếng các cô thợ hát
lên những bài ca dao mà cậu Ban đã được học trong sách.
Đoạn
cuối câu chuyện ngắn, Bà Tú chủ nhà và cô con gái giảng cho Ban và Hồng những
giai đoạn của nghề nông, từ lúc gieo hạt, trồng lúa cho đến việc xay thóc, giã
gạo. Bà Tú kết luận với những lời khuyên: “Người ta nói Đổi bát mồ hôi
lấy bát cơm quả không sai…. Hạt thóc cần để nuôi sống loài người, và
lại biết bao nhiêu công của, bao nhiêu sức lực mới trồng lên được. Vậy các con
phải kính trọng và cám ơn các người làm ruộng, nhờ có họ chúng ta mới có cơm
ăn.”
“Bà
Tú dịu dàng nói thêm: Hạt cơm là hạt ngọc đấy hai cháu ạ. Ngày xưa có người học
trò nhặt hột cơm trong đống phân trâu mà cất đi, sau Trời Phật phù hộ cho thi
đỗ. Vậy hai cháu phải biết quý trọng hạt cơm trong bữa ăn, ăn đừng để phí phạm
rơi xuống đất bẩn nhé.”
Có
thể coi Thạch Lam đã viết cuốn sách này với tất cả tình yêu hướng về các nông
dân và muốn chuyển tình yêu đó tới lớp trẻ đang lớn lên ở các thành phố. Một
cuốn sách “giáo khoa” và “dậy đạo đức” như vậy, xuất bản lần đầu cũng in tới
6,000 cuốn, cho thấy nhu cầu giải trí của trẻ em vào năm 1940 giản dị và hiền
lành như thế nào!
Lý tưởng sống tự do,
tự chủ.
Con Chim Gi Sừng của Hoàng Đạo (số 15) giáo dục trẻ em về tình yêu quê
hương và quyền sống tự do. Nhưng câu chuyện cũng nhấn mạnh cuộc đời phải tranh
đấu, theo luật mạnh được yếu thua, là một luồng tư tưởng đang lan tràn trong xã
hội Việt Nam thời đó, năm 1941 khi in cuốn sách này.
Con
chim gi chứng kiến cảnh anh chim chèo bẻo hàng xóm bị rắn nuốt; hôm sau thấy
cảnh con bọ ngựa chụp con chuồn chuồn ăn, con chim sẻ bay tới mổ ngay con bọ
ngựa, tha lên nóc nhà, rồi một con mèo chộp bắt anh chim sẻ. Con chim tự hỏi:
“Đời chỉ là một cuộc tranh đấu khốc liệt đến thế ư?” Sau câu đó là bốn hàng bị
kiểm duyệt, cho thấy lý tưởng tranh đấu cho tự do đã bị lưỡi kéo kiểm duyệt của
chính quyền Pháp cắt xén! Đoạn sau viết: “một kẻ thù đáng sợ của mọi giống vật,
dù ác hay lành: loài người!… loài vật chúng tôi cũng có lúc giết loài khác
nhưng là thế bất đắc dĩ… Chứ đến người thì họ giết chị bạc má, bắt tôi để mà
chơi thì thật là quái ác!” Con chim Gi Sừng bị nhốt đã đạp đổ những món gạo,
nước mà hai cậu bé đặt vào trong lồng. Chim nói: “Các cậu ở ngoài tự do đi lại,
có ai cấm đâu mà các cậu lại cấm tôi?” Hôm sau các cậu bé tưởng con chim chết
rồi, đưa ra khỏi chuồng, chim bay tìm tự do!
Con
chim làm quen với một đàn chim di cư, được cõng trên lưng đưa lên miền lạnh.
Đến mùa tuyết rơi, chim Gi Sừng lạnh quá rớt xuống đất, được một cô gái cứu.
Con chim nghĩ: “loài người không phải toàn là tàn ác cả như tôi tưởng.” Bay về
phương Nam, theo anh sếu đi nữa, ra đến biển. Trở về quê cũ, mới thấy yêu quê
hương: “Lúc ấy tôi mới nghĩ ra rằng quê cha đất tổ hình như có một linh hồn
riêng, có thể làm rung động linh hồn ta hơn tất cả mọi nơi.”
Con Hươu Sao của Hoàng Đạo (số 31, in năm 1944) cũng dùng xã hội
loài vật để nói về loài người. Trước cảnh người bị cọp ăn thịt, mẹ của Búp, con
hươu sao, giảng: “Giống ác thú thường là ăn thịt lẫn nhau con ạ!” Trong đoạn
kết, tác giả gói ghém một bài học: “Những con cọp dữ tợn cũng không sung sướng
hơn loài người độc ác; họ tự giết lẫn nhau, giầy xéo lẫn nhau, tự làm khổ
nhau!” Cuốn sách này ra đời và cuối trận Đại chiến Thứ hai, khi đế quốc Nhật và
thực dân Pháp đang chia phần cai trị nước ta!
Chống
độc tài giả danh “Thượng Hoàng Đạo Sĩ”. Trong vở kịch hai hồi Đạo Sĩ của
Khái Hưng in năm 1944, là Sách Hồng Đặc Biệt không đánh số, ông Đạo Sĩ làm các
loài thú, loài hoa khiếp sợ, ông ta tiêu biểu cho một nhà độc tài, còn muốn
cướp quyền của tạo hóa. Nàng Tiên hóa phép bắt tên độc tài hiện nguyên hình
thành con cáo chín đuôi, còn Nàng Tiên hiện hình thành đức Phật Thích Ca. Có
thể đoán tác giả đã dùng chuyện ngụ ngôn này tố cáo âm mưu thiết lập một chế độ
độc tài của “con cáo chín đuôi!”
Giảng dậy khoa học cho
trẻ em
Lên Cung Trăng của Hoàng Đạo (số 7, in tháng 10 năm 1940). Chuyện bắt
đầu vào ngày Tết trung thu, chú Học giảng cho chị em Hồng, Liên, Sang về mặt
trăng. Đêm ngủ, Hồng nằm mơ thấy chú Học báo tin: “Có một nhà bác sĩ bên Mỹ đã
làm xong một cái máy có thể đưa người ta đến tận cung trăng. Hiện thứ máy ấy đã
đến Hải Phòng ngày hôm qua và độ ba giờ nữa thì khởi hành!”
Chú
Học giải thích về hỏa tiễn và làm sao thoát khỏi trọng lực: “Chui trong một
viên đạn bắn lên thì nguy hiểm. … chỉ còn việc làm một cái máy luôn luôn bắn
đạn ra để dật (sic) lùi rất nhanh là có thể bay lên mặt trăng được. Nhưng sức
nổ phải mạnh lắm … đi nhanh đến nỗi không bị sức hút vào của trái đất làm trở
ngại nữa.”
Chú
Học giải thích về cách làm hỏa tiễn: một cái máy tròn có lớp vỏ cách nhiệt, bên ngoài không gian lạnh đến -300 độ. Trong
hỏa tiễn có máy hút và nhả không khí. Khi người đi ra ngoài hỏa tiễn phải mặc
áo tơi có chứa không khí. Trên mặt trăng không ai nghe thấy người khác nói,
không có một tiếng động vì thiếu không khí. Từ mặt trăng nhìn về trái đất thấy
như một vầng trăng lớn, nhìn thấy cả Thái Bình Dương, nhận ra châu Á; bước đi
thấy nhẹ, nhẩy lên thấy rất cao, vì sức hút của mặt trăng thấp hơn trái đất,
người nặng 30 ký lô chỉ còn 10 ký lô thôi.
Vì
thiếu không khí, trên mặt trăng cũng không thể có sinh vật, tuy nhiên thấy lớp
cỏ cứng hay rêu trắng mốc. Tuy nhiên, tác giả tưởng tượng trên đó cũng có một
“loài người!” Hồng đi đến bờ vực thấy có bậc thang đều đặn, đi xuống thấy một
cửa hang nhỏ, một bọn người hiện ra, hình kỳ dị, mũi to, miệng rộng như loa kèn
… Con người trên mặt trăng thấy “du khách” đã nhận xét: “Giống các cụ nhà ta
quá nhỉ?” Họ giải thích: “Cha mẹ chúng tôi là người trần!” Du khách được mời
vào bên trong, gặp một cô gái hình dạng giống loài người trái đát. Cô giải
thích rằng cô sống trong động không ra ngoài, và có máy hút không khí đủ để cô
thở! Đi thăm khu vườn Hồng thấy có đủ thứ cây cỏ, với một dòng suối duy nhất
trên mặt trăng. Nhưng Hồng tỉnh dậy, mới biết tất cả chỉ là một giấc mơ!
Lên
Cung Trăng có thể đã phóng tác một cuốn
trong bộ sách Livres Roses của nhà xuất bản Larousse (Un Voyage en Fusée của
Jean Hesse và Henri Peltier, in năm 1935). Chúng tôi không được đọc cuốn sách
Pháp này, đoán rằng trong đó cũng kể chuyện con người lên mặt trăng.
Kết Luận
Điểm
qua các Sách Hồng chúng ta thấy Tự Lực Văn Đoàn không chỉ muốn công kích để phá
bỏ tất cả nền phong hóa cũ. Ngược lại, chính họ muốn góp công vào việc khôi
phục những truyền thống tốt trong nếp sống cổ truyền. Đây là một khía cạnh mà
các nhà phê bình và viết văn học sử thường bỏ qua không nhắc tới; vì họ không
quan tâm đến nội dung các Sách Hồng.
Nói
chung, Tự Lực Văn Đoàn muốn xây dựng một nền đạo lý và lối sống mới nhưng vẫn
gìn giữ các quy tắc sống tốt đẹp trong di sản văn hóa dân tộc. Chúng ta đã thấy
những quan niệm sống mới thể hiện qua Phong trào Nhà Ánh Sáng; qua những tác
phẩm trong Con Đường Sáng, hoặc Mười Điều Tâm Niệm của
Hoàng Đạo, Đẹp, Gánh Hàng Hoa hoặc Trống
Mái của Khái Hưng. Mục tiêu xây dựng thể hiện rõ nhất trong các Sách
Hồng với chủ đích giáo dục các thế hệ trẻ. Các chủ trương đó của Tự Lực Văn
Đoàn tiếp tục thể hiện trong nửa sau thế kỷ 20 ở miền Nam Việt Nam. Nếu ở miền
Bắc quan niệm đó cũng được tôn trọng nữa thì chắc chắn nếp sống của người Việt
Nam vào thế kỷ 21 sẽ tốt đẹp hơn thực trạng ngày nay.
_____
*
Bài này được Đỗ Quý Toàn thuyết trình ngày 29-9-2014 tại trong buổi ra
mắt Kỷ Yếu Về Tự Lực Văn Đoàn và Sưu tập Số hóa Báo Phong
Hóa, Ngày Nay, Văn Hóa Ngày Nay và những tác
phẩm của Tự Lực Văn Đoàn lưu trữ tại Thư Viện Việt-Học, Westminster,
California.
**
Những bìa sách dùng làm hình minh họa đã được nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiền
tu chỉnh lại bằng kỹ thuật số cho đẹp và rõ ràng hơn. Xin trân trọng cảm ơn ông
Nguyễn Trọng Hiền, một người đã sưu tầm và lưu trữ nhiều tài liệu về Tự Lực Văn
Đoàn, trong đó có gần đầy đủ các mẫu áo tân thời của thân phụ ông, Họa sĩ
Nguyễn Cát Tường, tự Lemur.
PHỤ LỤC:
I. Phụ chú về Minh họa (Đỗ Quý Toàn viết thêm)
Trong
các Sách Hồng, phần minh họa rất đáng chú ý, có thể là một đề tài riêng để khai
triển. Họa sĩ nào vẽ những hình minh họa này, không thấy ghi và cũng không ký
tên. Trong thời gian xuất bản các Sách Hồng, những họa sĩ cộng tác thường xuyên
với nhà xuất bản là Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường (tác giả các
kiểu áo Lemur). Có thể họ cũng giúp minh họa các cuốn sách này. Chúng ta có thể
thấy nét vẽ trong nhiều cuốn khác hẳn nhau.
Những
hình in trong sách đều dùng bản khắc gỗ, vì kỹ thuật nhà in thời 1940 còn thô
sơ. Cho nên các nét vẽ cũng rất giản dị, sơ sài và phần nhiều chiếm trọn một
trang để việc “sắp chữ” dễ dàng hơn. Trong hai cuốn truyện viết bằng thơ của Tú
Mỡ, Bà Túng và Vụ Kiện Trê Cóc các tranh minh
họa còn viết kèm những câu thơ để cho thấy hình trong tranh đi với câu thơ nào
trong truyện. Nhưng vì không thể sắp chữ vào trong bản gỗ cho nên phải viết
bằng chữ Nôm cho người thợ khắc dễ làm việc! Và cũng có thể cho giống với những
tranh dân gian thời trước, hợp với đề tài truyện kể.
Thí
dụ, bức minh họa tại trang 9, trong truyện Bà Túng, trong đoạn Phật
hiện ra như một ông lão thử lòng nhân từ của Bà Túng hình vẽ kèm câu thơ chữ
Nôm: “Một ông cụ già nua tuổi tác.” Các câu sau: “Râu dườm dà (sic) tóc
bạc phất phơ – Nói rằng lỡ bước xa (sic) cơ – Xin ăn một bữa,
ngủ nhờ một đêm”.
II. Thư Tịch Sách Hồng Của Tự Lực Văn Đoàn có tại Thư viện
Viện Việt Học do Ban Thư Viện thiết lập
Lời
ngỏ: Vì hoàn cảnh chiến tranh, thời tiết nên những tài liệu văn học Việt Nam đã
bị thất thoát hay hủy hoại đi nhiều. Viện Việt Học tại Westminster, California
đang cố gắng thu thập những Sách Hồng đã được xuất bản, tái bản, nhưng chưa đầy
đủ. Chúng tôi kêu gọi quý độc giả bốn phương ai có sách loại này xin cung cấp
cho Ban Thư Viện chúng tôi một bản để có một bộ sưu tập đầy đủ ngõ hầu bảo tồn
văn hóa Việt Nam (những quyển còn thiếu được đánh dấu *). Trân trọng cám ơn quý
vị. Viện Việt Học (website: http://viethoc.com –
email: info@viethoc.com)
1.
Andersen,
Christian. Con chim họa mi. Hoàng Đạo địch. Hà Nội: Đời Nay, 1944.
(SHĐB)
2.
Andersen, Christian. Cô
bé đuôi cá. Hoàng Đạo dịch. Hà Nội: Đời Nay, 1944. (SHĐB)
3.
Defoe, Daniel. *Cuộc
đời ly kỳ và gian nan của Rô-Bin-Sơn. Hoàng Đạo dịch. Hà Nội: Đời
Nay,
1941-1944. (4 tập — *còn thiếu tập 4.) (SH 11, 13, 17, và 22)
4.
Bảo Sơn. *Đảo san hô. Tập I
và II. Saigon: Phượng Giang, 1963. (SH không số)[*Chưa có]
5.
Đào, Văn Thiết. *Tiếng
chim ca. Tập 2. Hà Nội: Đời Nay, 1942. (SH không số) [*Chưa có]
6.
Bình Nguyên Lộc. *Người đàn ông
đẻ. Saigon: Phượng Giang, 1963. (SH không số)[*Chưa có]
7.
Đỗ, Đức Thu. *Bạn vàng.
Saigon: Phượng Giang, 1963. (SH không số) [*Chưa có]
8.
Hoàng Đạo. Con
cá thần. Hà Nội: Đời Nay, 1939. (SH 2)
9.
Hoàng Đạo. Con
chim gi sừng. Hà Nội: Đời Nay, 1941. (SH 15)
10. Hoàng Đạo. Con hươu sao. Hà Nội:
Đời Nay, 1944. (SH 31)
11. Hoàng Đạo. Lan và Huệ. Hà Nội: Đời
Nay, 1941. (SH 10)
12. Hoàng Đạo. Lên cung trăng. Hà Nội:
Đời Nay, 1940. (SH 7)
13. Hoàng Đạo. Sơn tinh. Hà Nội: Đời
Nay, 1941. (SH18)
14. Hồng Nguyên. Hoàng tử trăn. Saigon: Phương
Giang, 1959. (SH không số)
15. Huyền Kiêu. *Đứa bé đi câu. Hà Nội: Đời
Nay, 1943. (SH 30) [*Chưa
có.]
16. Khái Hưng. Bông cúc huyền. Hà Nội:
Đời Nay, 1943. (SHĐB)
17. Khái Hưng. Cái ấm đất. Hà Nội: Đời
Nay, 1940. (SH 9)
18. Khái Hưng. Cắm trại. Hà Nội: Đời
Nay, 1941. (SH 20)
19. Khái Hưng. Cây tre trăm đốt. Hà
Nội: Đời Nay, 1941. (SH 19)
20. Khái Hưng. Cóc tía: kịch ba hồi.
Hà Nội: Đời Nay, 1940. (SH 8)
21. Khái Hưng. Đạo sĩ. Hà Nội:
Đời Nay, 1944. (SHĐB)
22. Khái Hưng. Để của bí mật. Saigon: Văn Nghệ,
1960. [Hà Nội: Đời Nay, 1941.] (SH không số)
23. Khái Hưng. Ông đồ Bể. Hà Nội: Đời
Nay, 1939. (SH 1)
24. Khái Hưng. Quyển sách ước. Saigon:
Văn Nghệ, 1960 (SH không số)
25. Khái Hưng. Thầy đội nhất. Saigon:
Phượng Giang, 1960. (SH 32)
26. Khái Hưng. Thế giới tí hon. Hà
Nội: Đời Nay, 1941. (SH 16)
27. Kipling, Rudyard. Sách rừng. Tập 1, 2, 3, 4.
Huyền Hà dịch. Hà Nội Đời Nay, 1943. (SHĐB)
28. Lệ Oanh. Con đường mới. Saigon: Phượng Giang,
1963. (SH không số)
29. Lệ Oanh. Đứa trẻ khốn nạn. Saigon: Phượng Giang,
1956. (SH không số)
30. Lệ Oanh. Lá số tử vi. Saigon: Phượng Giang,
1956. (SH không số)
31. Lệ Oanh. *Phật của bé Hương. Saigon: Phượng
Giang, 1963. (SH không số) [*chưa có]
32. Lệ Oanh. Hoàng tử chột và công chúa xứ anh đào.
Phạm Lệ Oanh Saigon: Phượng Giang, 1956. (SH không số)
33. Linh Bảo. Chiếc áo nhung lam. Saigon:
Phượng Giang, 1961. (SH không số)
34. Lưu, J. Ngọc Văn. *Tiếng chim ca.
Tập 1. Hà Nội: Đời Nay, 1942. (SH 23) [*Chưa có]
35. Roche-Mazon, Jeanne. *Tình bè bạn của
chị Hằng Nga và chú chuột nước. Huyền Kiêu dịch. Hà Nội: Đời
Nay, 1942. (SH 24) [*chưa
có]
36. Thạch Lam. Hạt Ngọc. Hà Nội: Đời
Nay, 1941. (SH 12)
37.
Thạch Lam. *Quyển sách. Hà
Nội: Đời Nay, 1941. (SH 3) [*chưa có]
https://vietmessenger.com/books/?title=quyen%20sach
38.
Thế Lữ. *Hai thứ
khôn. Hà Nội: Đời Nay,1940. (SH 4) [*chưa có]
39. Thiện Sĩ. Con chim nói sự thực. Hà
Nội: Đời Nay, 1942. (SH 21)
40. Thiện Sĩ. Hai chị em. Hà Nội: Đời
Nay, 1940. (SH 6)
41. Thiện Sĩ. Lên Chùa. Hà Nội: Đời
Nay, 1940. (SH 14)
42. Tú Mỡ. Bà Túng. Hà Nội: Đời
Nay, 1942. (SH 26)
43. Tú Mỡ. Vụ kiện trê cóc. Hà Nội:
Đời Nay, 1942. (SH 27)
44.
V. Minh. *Hai tháng
của một hướng đạo sinh Việt Nam. Tập 1, 2. Hà Nội: Đời Nay, 1942.
(SH 28-29) [*Chưa có.]
Sách Hồng dành cho thiếu nhi
http://www.viethoc.com/van-hoc
- Sách Hồng dành cho
thiếu nhi
- Hoàng Đạo
- Cô bé đuôi cá / Chritian Andersen, Hoàng Đạo dịch. 1944
- Con cá thần, 1939
- Con chim gi
sừng, 1941
- Con chim hoạ mi / Chritian Andersen, Hoàng Đạo dịch. 1944
- Con hươu sao,
1944
- Lan và Huệ, 1941
- Lên cung trăng,
1940
- Sơn tinh, 1940
- Khái Hưng
- Bông cúc huyền, 1943
- Bông cúc huyền (màu)
- Cái ấm đất, 1940
- Cắm trại, 1941
- Cây tre trăm
đốt, 1941
- Cóc tía, 1940
- Đạo sĩ, 1944
Lưu Bình Dương Lễ, 19? chưa có - Ông đồ bể, 1939
- Quyển sách ước,
1940
- Thầy đội nhất,
1941? chưa có [đang xin TV QG]
- Thế giới tí hon,
1941
- Thạch Lam/Thiện Sĩ
- Con chim nói sự
thực / Thiện sĩ, 1941
- Hai chị em (Hai
đứa trẻ) / Thiện sĩ, 1938
- Hạt ngọc / Thạch
Lam, 1940
- Lên chùa / Thiện
sĩ, 1942
- Quyển sách /
Thạch Lam, 1940
- Thế Lữ
- Cuộc đời ly kỳ và
gian nan của Rô-bin-sơn / Daniel Defoe, Thế Lữ dịch, 1944 (4 tập):
- Tú Mỡ
- Bà Túng, 1941
- Bạch Tuyết và
bảy chú lùn, 1943
- Vụ kiện Trê Cóc, 1942
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét