Trần Văn Chánh
Nhân
vật lịch sử thường được hiểu là những đã người sống trong quá khứ
từng có tham gia nhiều ít và về mặt này mặt khác trong quá trình
diễn tiến của lịch sử, không phân biệt hoàn cảnh xuất thân hay lý
lịch tốt xấu (“trung/ nghịch, chánh/ ngụy”, “yêu nước/ phản quốc”,
“tiến bộ/ lạc hậu”, “cách mạng/ phản động”…). Nhân vật lịch sử vì
thế không nhất thiết phải là danh nhân, đều là con người nên có mặt
tốt mặt xấu, có những lúc yếu mềm lầm lỗi, nhưng tất cả đều có vai
trò riêng trong một bối cảnh lịch sử nhất định.
Ở nước ta đã có một vài
công trình biên soạn tổng hợp về nhân vật lịch sử, với sự xuất hiện
trong đó đủ loại nhân vật thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động và khuynh
hướng tư tưởng, chính trị khác nhau. Vì không phân biệt lý lịch tốt
xấu, có công đóng góp xây dựng hay gây hại cho dân tộc, nên sách
viết về nhân vật lịch sử, nhất là ở thể loại từ điển, cần có sự
trung thực, mô tả khách quan tiểu sử, hành trạng của từng nhân vật
dựa trên càng nhiều càng tốt những tài liệu xác thực còn có thể kiểm
chứng được, rồi có sao kể vậy theo một trật tự logic mạch lạc, và
nếu có thể, diễn tả một cách hấp dẫn, chứ không nên và cũng không
cần đưa ra những nhận định đánh giá gắt gao này khác theo nhận thức
chủ quan hay định kiến giáo điều của người biên soạn. Những công
trình biên soạn về nhân vật lịch sử vì thế tuyệt đối tránh óc đảng
phái, “bài xích dị kỷ” (công kích loại trừ những kẻ khác mình), đơn
giản chỉ vì hoàn cảnh quá khứ khác hoàn cảnh hiện tại, mà nhận thức,
hành vi của từng nhân vật lịch sử thì luôn không thể tách khỏi hoàn
cảnh độc đáo cá nhân cũng như bối cảnh lịch sử cụ thể mà nhân vật
đang sống.
Ví như thời
Trịnh-Nguyễn phân tranh (từ giữa đầu thế kỷ 17) bên cạnh vua Lê thì
người Việt Nam đương nhiên cơ bản chia làm 2 phe (không có 2 phe thì
lấy gì đánh nhau?). Bước sang giai đoạn tranh hùng giữa Tây Sơn và
Nguyễn Ánh (cuối thế kỷ 18) thì cũng có hai phe kình chống nhau
quyết liệt và mỗi bên đều có những anh hùng của mình (như Võ Tánh,
Ngô Tòng Châu… của Nguyễn Ánh; Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị
Xuân… của Tây Sơn, hoàn cảnh giữa họ tuy khác khau nhưng ai nấy đều
có nhân cách/ chí tiết đáng trọng). Trong thời Pháp thuộc (tạm tính
từ hòa ước Patenôtre 1884 và sau cuộc binh biến 1885 ở Huế kết thúc
cuộc chiến tranh xâm lăng của Pháp) thì trừ đại đa số quần chúng
nhân dân không tên tuổi ra, số người nổi tiếng đáng gọi nhân vật
lịch sử đương nhiên phải chia làm nhiều thành phần khác nhau, tùy
hoàn cảnh: một số làm việc cho chính quyền thuộc địa, một số phục vụ
trong bộ máy triều đình phong kiến cũ của các vua, và số khác nữa
không chấp nhận số phận nô lệ của bản thân và của dân tộc đã đứng ra
tổ chức kháng chiến hoặc theo quân kháng chiến chống Pháp trong các
phong trào yêu nước. Sau hiệp định Genève 1954, đất nước tạm thời
chia đôi ở vĩ tuyến 17 hình thành thế cục đấu tranh Nam-Bắc với
nhiều lý do rất ngoắt ngoéo phức tạp thì nhân vật lịch sử, gồm các
tướng tá và công chức dân sự bậc trung-cao của mỗi bên đương nhiên
cũng phải chia thành 2 phe phục vụ cho công việc/ mục đích chính trị
mỗi bên, không thể có chuyện số lớn người sĩ quan VNCH vượt tuyến ra
Bắc phục vụ cho chế độ XHCN miền Bắc, cũng như ngược lại không thể
có số lớn cán bộ CS trốn vào miền Nam để kiếm sống (ngoại trừ việc
lúc đó họ được phân công vào Nam vì lý do chiến tranh).
Cái chung hơn hết là
hoàn cảnh cá nhân cũng như hoàn cảnh lịch sử-xã hội mà cá nhân bị
chi phối và phần lớn thường rất khó chủ động thoát ra được. Chúng ta
không thể đòi hỏi các nhà văn hay cán bộ nghiên cứu ở các trường,
viện ngoài Bắc giai đoạn 1954-1975 hiểu thấu hoặc hiểu đúng về lịch
sử Việt Nam vì cuốn Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim và những sách tương tự đều bị cấm đọc. Những nhân
vật lịch sử có công đóng góp lớn cho nền văn hóa dân tộc như Trương
Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, nhóm Tự Lực Văn Đoàn (Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo…)… thì hầu như ít ai được biết tới, hoặc
chỉ biết lơ mơ sai sự thật. Các học thuyết khác ngoài chủ nghĩa
Mác-Lênin về văn học, triết học, kinh tế học (thị trường) của nhân
loại thì lại càng không thể… Cho nên bây giờ nhìn lại với quan điểm
thông thoáng hơn, cần phải có sự cảm thông chân thành và đúng liều
lượng đối với một số anh em trí thức miền Bắc, trong khoảng thời
gian mấy mươi năm, về những mặt hạn chế tri thức và tư duy giáo điều
mà không ít người trung thực đã thú nhận có thời gian họ đã vấp
phải, vì tất cả đều do hoàn cảnh cá nhân và nghịch cảnh ngoắt ngoéo
của lịch sử dân tộc này mà ra.
Trong lịch sử, tính
cách của cá nhân và hoàn cảnh sống của mỗi con người là rất quan
trọng, khó có thể ai nói tài hơn ai. Bẩm tính, năng khiếu, bản lĩnh
và xu hướng hoạt động theo ngành nghề gì cũng rất khác nhau. Có
người chịu làm chính trị, tham gia quốc sự, dám chịu tra tấn tù đày
vì việc nước, đáng gọi anh hùng, thì cũng có người tuy vẫn âm thầm
yêu quê hương xứ sở, biết đau xót vì thân phận dân tộc bị nô lệ,
nhưng kém bản lĩnh chiến đấu, không dám xông pha chiến trận, sợ thấy
chém giết…. Dạng người này, không ít trong mọi xã hội mọi thời đại,
muốn được sống bình yên, chỉ mong “cẩu toàn tính mệnh ư loạn thế”,
nên họ có khuynh hướng tìm những việc làm thích hợp trong khối dân
sự ít thấy đổ máu, bằng cách “trốn quân dịch”, tham gia các hoạt
động văn hóa giáo dục, hoặc thậm chí… đi tu: nếu tiêu cực là để lánh
cuộc đời xào xáo, còn tích cực là để hoằng pháp, giảng đạo với hi
vọng cứu đời bằng con đường xây dựng đạo đức cho tha nhân theo hướng
hòa bình lương thiện. Cụ Đào Duy Anh là một dạng người có phần
tương tự như vậy, lúc đầu hăng hái làm chính trị cách mạng, từ
khoảng năm 1926, nhưng vì ngại cảnh tù đày tra tấn, đã xoay ra hoạt
động văn hóa suốt mấy mươi năm, bằng hoạt động giáo dục và khảo cứu,
đóng góp được rất nhiều cho xã hội qua những công trình bất hủ…(xem
Phan Huy Lê, “Đào Duy Anh, hành trình gian truân của một nhà sử
học”, tạp chí Xưa Nay, số 459, tháng 5.2015, tr. 9-19). Giả
định cụ Đào tiếp tục làm chính trị và bị thực dân Pháp bắt xử tử,
thì câu chuyện về cụ đã chuyển sang hướng khác hẳn, nhưng xét cho
cùng, với tâm chất, tính cách học giả thứ thiệt như cụ thì trước hay
sau gì cũng không thể làm chính trị thành công được. Cho nên cũng
không thể nói Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài (năm 1930) vì chống
thực dân Pháp bất thành là yêu nước và anh hùng hơn cụ Đào Duy Anh
được, vì hình thức lựa chọn việc làm của hai người khác nhau, theo
những khuynh hướng, nhân sinh quan, điều kiện, hoàn cảnh, năng lực,
tâm chất cá thể không giống nhau.
Cho nên ở đây cũng cần có một cách
nhìn thông thoáng hơn về khái niệm yêu nước. Không phải không có
loại nhận thức khá ấu trĩ và phiến diện cho rằng yêu nước chủ yếu
gắn với tinh thần bất khuất, hi sinh dũng cảm chiến đấu thắng lợi vẻ
vang, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...,
thay vì lẽ ra nên nhấn mạnh nhiều hơn đến khía cạnh yêu nước ở lòng
tự trọng, ước muốn hoàn thiện bản thân-rèn luyện nhân cách, ý thức
chấp hành bổn phận và kỷ luật…, thể hiện qua những hành vi bình
thường hằng ngày của công dân, trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể
nhất định.
Cũng phổ
biến có loại quan niệm về yêu nước, về chủ nghĩa anh hùng phân biệt
theo đảng phái hay giai cấp, cách mạng vô sản hay cải lương tiểu tư
sản… Chẳng hạn, cho rằng yêu nước theo kiểu một số nhà văn nhóm Tự
Lực Văn Đoàn là nhuốm màu tiểu tư sản, phải bài bác, phủ định, trong
khi thật ra nhóm này chỉ chủ trương rất đơn giản: yêu nước là yêu
tha thiết đám nông dân nghèo khổ dốt nát cày sâu cuốc bẫm chiếm đa
số trong thành phần dân tộc, phải nỗ lực tìm mọi cách vận động để
giúp đỡ, nâng cao đời sống của thành phần xứng đáng đại diện cho dân
tộc này lên, hầu mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho họ (nói
trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Con đường sáng của
Hoàng Đạo…).
Trở lại
vấn đề thái độ đối với nhân vật lịch sử, thấy có loại quan niệm hẹp
hòi đơn giản, đại khái, phàm hễ ai theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn
hoặc thuộc hàng ngũ vua quan triều Nguyễn, người theo đạo Thiên
Chúa, người làm công chức cho Pháp, không chống Pháp hoặc chủ trương
“Pháp-Việt đề huề” (như Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu…), người theo
các đảng phái “quốc gia”… thì cơ bản nếu không bị coi “nối giáo cho
giặc” thì cũng sai lầm hèn kém tệ hại tất tần tật (trong khi đó thật
ra, vua quan triều Nguyễn, ngay từ thời Tự Đức, trước sau đều đã
chống Pháp rất dữ, nhưng thất bại vì thời đại chủ nghĩa tư bản lúc
đó đang bành trướng với lực lượng quân sự rất mạnh…). Với cách nhìn
nhận và ứng xử này, sau ngày 30.4.1975, khi chiến tranh Việt Nam vừa
chấm dứt, “bên thắng cuộc” đã cho hủy bỏ hết thảy các tượng đài, tên
đường, tên trường học… mang tên những nhân vật lịch sử có lý lịch
dính dáng như trên, và dường như chỉ chừa lại vài ba con đường mang
tên Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn (đều ở quận 4, TP.
HCM) đơn giản vì các vị đại thần này mặc dù cũng quan lại triều
Nguyễn nhưng lại tiêu biểu cho phái chủ chiến chống Pháp quyết liệt:
người thì như Hoàng Diệu quyết tử bảo vệ thành Hà
Nội khi Pháp tấn công năm 1882, còn Tôn Thất Thuyết thì đã
cùng với Nguyễn Văn Tường tổ chức cuộc binh biến 1885 ở Huế làm cho
quân ta chỉ trong một đêm 4.7.1885 vừa chết thảm vừa bị thương đến
số vạn, thây phơi đầy đường, hàng đống người “cụt tay, cụt chân, lòi
ruột, toạc đầu, quằn quại trong vũng máu”, vua Hàm Nghi phải xuất
bôn chạy ra căn cứ Tân Sở, nhưng vẫn không đạt được mục đích như
mong muốn (xem Lưu Anh Rô-Lê Anh Tuấn, “Tìm hiểu cuộc chính biến
kinh thành Huế…”, tạp chí Xưa Nay, số 459, tháng 5.2015, tr.
42-47). Để ý ra, chúng ta thấy, theo quan điểm “chính thống”, dường
như hễ ai chủ chiến, quyết tử đều coi như lý lịch tốt, xếp vào “phe
ta”. Điều này hoàn toàn đúng, nhưng sẽ càng đúng hơn nếu người ta
không vì đó mà phủ nhận sạch trơn những người không chủ chiến, không
hi sinh liều chết do sự run rủi cá nhân hoặc do hoàn cảnh sống trong
một xã hội cụ thể khiến phải có những lựa chọn khác.
Cách làm việc khách quan của các ban biên tập từ điển nước ngoài
cũng thế, chẳng hạn từ điển Larousse nổi tiếng lâu đời của
Pháp, phần nhân vật Việt Nam nếu miền Bắc có Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp… thì trong Nam cũng có Bảo Đại, Ngô Đình Diệm,
Nguyễn Văn Thiệu… Vì vấn đề chủ yếu là giúp cho người sử dụng từ
điển tra trong đó để biết nhân vật X nào đó là ai, chứ không để
đường lối chính trị-ngoại giao nhất thời chi phối. Được biết, trong
bộ
Britannica Concise Encyclopedia vừa có bản dịch tiếng Việt gần
đây với tên gọi Từ điển bách khoa Britannica (NXB Giáo Dục,
2014), phần nhân vật Việt Nam cũng có đủ hai phe (gồm 8 người, xếp
theo thứ tự A, B, C…): Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Lê Lợi, Ngô Đình Diệm,
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp (xem
Nguyễn Việt Long, “Chuyện kể từ người tham gia làm Britannica
tiếng Việt”, báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, 5.7.2015, tr. 27).
Nhân vật
lịch sử, xét về phương diện việc làm của họ trong quá khứ và trong
tương quan với quyền lợi cộng đồng, quyền lợi dân tộc, lẽ tất nhiên
cũng có người tốt, kẻ xấu, cần được mô tả khách quan, đúng sự thật,
để cho thế hệ trẻ hiện tại qua đó nhận xét, đánh giá. Chẳng hạn Trần
Bá Lộc (1839-1899)
là một cộng sự viên đắc lực của
thực dân Pháp khét tiếng trong việc đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa
yêu nước ở
miền Nam Việt Nam vào những năm cuối
thế kỷ 19 thì chẳng ai dám khen là tốt cả, nhưng khi viết tiểu
sử, cũng không được bỏ qua sự kiện hệ thống kênh đào do ông chỉ huy
đã đem lại lợi ích to lớn cho vùng đất
Đồng Tháp Mười… Nói chung, đối với nhân vật lịch sử, ai cũng
vậy, phải nêu đủ cả những mặt tốt, xấu của họ ra cho mọi người biết
dựa theo sử liệu chính xác, chứ không nên vì định kiến hoặc giáo
điều nào đó mà dùng lời lẽ phê bình theo kiểu mạt sát, thiếu lễ độ
đối với các bậc tiền bối đã ra người thiên cổ.
Ở thời hiện tại có người tốt, kẻ xấu
thì trong quá khứ lịch sử cũng vậy thôi, không bao giờ có toàn người
tốt hay toàn kẻ xấu. Gương lịch sử hữu ích ở chỗ biết nhìn vào đó để
soi rọi, rút tỉa kinh nghiệm cho việc làm hiện tại, bằng cách chú ý
mặt tốt để khích lệ các thế hệ hậu bối, còn mặt xấu vẫn kể ra cho
biết nhưng cũng chẳng có gì cần phải làm ầm ĩ quá đáng, như số ít tờ
báo, tạp chí những năm gần đây đã làm rất hăng hái và đầy
định kiến đối với một số nhân vật thuộc diện “phức tạp” vì có lý
lịch liên quan triều Nguyễn, thực dân Pháp, đạo Thiên Chúa…, nổi bật
như vua Gia Long, các ông Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Nguyễn
Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh...
Lạ nhất là trường hợp
Trương Vĩnh Ký
(1837-1898), thiết tưởng cũng nên nêu điển hình để luận giải cho vấn
đề đang xét, vì gần đây có vài sự kiện dính đến tên ông mà
ông bị vài tờ báo, tạp chí lôi ra chỉ trích, trong khi cả nước đều
coi ông là nhân vật lịch sử tiêu biểu, nhà bác học, danh nhân văn
hóa xuất sắc hiếm hoi của vùng đất mới Nam Bộ với nhiều đóng góp cho
sự nghiệp văn hóa đất nước, được chọn để đặt tên đường phố và tên
trường học ở nhiều nơi, đặc biệt tại TP. HCM. Năm 1941 từng được nhà
phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đưa vô hàng đầu sách Nhà văn hiện
đại trong số “Các nhà văn đi tiên phong”, với lời nhận xét khẳng
định chắc nịch: “Trương Vĩnh Ký thì thật là một nhà bác học. Ông
không những là một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch thuật, mà
lại còn là một người rất giỏi về khoa ngôn ngữ học. Ông thật xứng
đáng làm tiêu biểu cho tất cả những người sốt sắng với quốc văn lúc
đầu ở Nam Kỳ; sự nghiệp của ông, chúng ta không thể nào không biết
đến được” (Nhà văn hiện đại, Tập I, NXB Thăng Long, Sài Gòn,
1960, tr. 37). Sách chuyên khảo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt về sự
nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký đến nay đã có đến số chục (như của
một số tác giả: Jean Bouchot 1927, Đặng Thúc Liêng 1927, Khổng Xuân
Thu 1958, Nguyễn Sinh Duy-Phạm Long Điền 1975, Nguyễn Văn Trấn 1992,
Nguyễn Văn Trung 1993, Bằng Giang 1994, Trần Thị Nim 1998, Hoàng Lại
Giang 2001, Tạp chí Xưa Nay [chủ biên] 2002/2006…).
Thế nhưng, vì lý do để công
kích nội dung một cuốn sách trong đó có tiểu sử Trương Vĩnh Ký, một
tác giả đã viết: “Trương Vĩnh Ký là một điển hình của giới trí thức
học cao biết rộng, phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân Pháp,
không có chỗ đứng trong lịch sử văn hóa nước nhà (TVC nhấn
mạnh), nhưng trong cuốn sách này coi ông như một ‘nhà bác học’ ‘có
cống hiến to lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây’” (xem
Tuần báo Văn Nghệ TP. HCM, số 343, ngày 5.3.2015, tr. 11).
Cũng trong tháng
3.2015, Trương Vĩnh Ký lại bị thêm một đợt “tấn công” dồn dập, nhân
sự kiện họ Trương được tôn vinh là nhân vật kiệt xuất có công đối
với văn hóa Việt Nam, trong dịp tổ chức Giải thưởng Phan Châu Trinh
của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh do bà Nguyễn Thị Bình và nhà văn
Nguyên Ngọc chủ xướng. Một tờ tạp chí đã dành liên tiếp 2 số báo để
vừa công kích Giải thưởng Phan Châu Trinh vừa nêu lên những mặt xấu,
hạn chế của Trương Vĩnh Ký, nhưng chủ yếu nói ông là tay sai đắc lực
của thực dân Pháp, và “vấn đề là ở chỗ Trương Vĩnh Ký hoàn toàn
không xứng đáng (TVC nhấn mạnh)…” (Tạp chí
Hồn Việt, số 92, tháng 5.2015, tr. 51). Ngoài ra, tạp chí còn
cho trích dẫn một số tài liệu, bức thư của Trương Vĩnh Ký chứng tỏ
ông rất trung thành với nước Pháp và qua một số công trình biên soạn
đã tận tâm đắc lực trong nhiệm vụ giúp thực dân Pháp thi hành chính
sách đồng hóa dân tộc Việt.
Đọc một số tài liệu trưng
dẫn kể trên, có những câu như “lòng tôi luôn thuộc về nước Pháp”,
“Người bề tôi tận tâm và vâng lời”… (Hồn Việt, tlđd., tr.
67), chúng ta ngày nay chắc chắn sẽ ít nhiều cảm thấy như bị dị ứng
khó chịu, và tự ái nữa, liên tưởng đến những lời ca tụng tương tự
sau này của hậu bối Phạm Quỳnh (1892-1945) đối với nước “Đại Pháp”,
nhưng nếu bình tĩnh đứng trên một quan điểm cận nhân tình hơn để xem
xét, sẽ thấy vì đều là công chức của Pháp, các ông đương nhiên phải
phát biểu những câu sáo thưa gởi như vậy là chuyện rất bình thường,
theo kiểu “ăn cây nào rào cây nấy”, để được việc, như trong một số
trường hợp khác người ta phải dùng những cụm từ đôi khi còn sống
sượng hơn để ca tụng chế độ mình đang phục vụ. Dù thế nào chăng nữa,
không thể chỉ vì vài bức thư hay những câu sáo ngữ như thế mà các
ông không còn là danh nhân văn hóa của nước Việt, vì phần đóng góp
của các ông chủ yếu trong phạm vi văn hóa giáo dục chứ không phải
quân sự hay chính trị. Thực tế cho thấy, trong điều kiện Pháp thuộc,
hầu hết nhân tài Việt Nam trên mọi lãnh vực hoạt động đều được đào
tạo từ nền giáo dục mới của Pháp, mà một số không ít trí thức về sau
đã trở thành những nhà hoạt động chống Pháp tích cực (Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Trường…). Tương tự như vậy, khi Pháp đặt ách thống
trị lên các quốc gia nhược tiểu thì cũng có hai mặt lợi hại đi liền
theo nhau: ngoài chuyện bóc lột, họ cũng đương nhiên để lại, dù muốn
hay không, một số di sản hữu ích cho các dân tộc bị trị như khoa
học-kỹ thuật, giáo dục, y tế, giao thông công chính, hành chính…hiện
đại, và đặc biệt là những tư tưởng về tự do dân chủ và cách mạng.
Riêng nhân vật Trương
Vĩnh Ký, vấn đề nằm ở chỗ, dù thật sự trung thành với thực dân trong
tư cách công chức Pháp thì ông vẫn là một người Việt Nam
có cuộc sống đạo đức nghiêm chỉnh, cả đời học giả chỉ biết căm
cụi nghiên cứu, trước thuật một cách hoàn toàn lương thiện, lại
thường bị thiếu túng, thiếu nợ nhà in vì sách báo in ra bán không
chạy…, không nghe ai nói ông có lem nhem gì đối với công quỹ, hay
làm bất cứ hành động gì có hại cụ thể cho nhân dân lao động. Còn
chuyện năm 1886, Trương Vĩnh Ký được Toàn quyền Paul Bert cử vào Huế
làm việc ở Viện Cơ mật, nếu không phải họ Trương thì cũng phải có
một nhân vật lịch sử Việt Nam nào khác. Giả định Trương Vĩnh Ký lúc
8 tuổi không có cơ duyên theo đạo Công giáo và được đưa đi du học
nước ngoài, thì ông cũng chỉ trở thành một đứa bé chăn trâu làm
ruộng, giống như mọi đứa trẻ chăn trâu khác sống ở cái ấp Cái Mơn
nghèo khổ khỉ ho cò gáy của tỉnh Vĩnh Long mà thôi, làm gì có những
công trình văn hóa đồ sộ mà nhiều thế hệ đã được thừa kế và thụ
hưởng?
Bình luận về con người
trong lịch sử vì thế không thể thiếu sự thông đạt chính trị nhân
tình, và đức công bằng, luôn biết đặt con người vào trong hoàn cảnh
cá nhân cụ thể cùng với những mối tương tác nhân quả trùng trùng
duyên khởi của các sự kiện chi phối bên ngoài, từ đó có được quan
điểm phóng khoáng khoan dung, biết hòa giải với quá khứ trong
tinh thần cởi mở để hướng đến hiện tại và tương lai, chứ không
nên chỉ chuyên moi móc quá khứ với các kiểu thái độ cực đoan, phiến
diện, căm thù, chỉ gây thêm mầm mống chia rẽ trong lòng dân tộc, và
vì thế cũng không thể đạt được sự hòa giải đích thực trong hiện
tại được.
12.7.2015
Nguồn: Bán nguyệt san Văn Hóa
Phật Giáo, số 230 (1.8.2015)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét