1.101
- Phan Văn Tư
MẢNH
ĐẠN NẰM TRONG PHỔI 36 NĂM
Nông dân sinh 1952 tại Vĩnh Long. Sống ở
Vĩnh Long (2008).
Không
chỉ một mà tới 2 mảnh đạn nằm trong phổi 36 năm do năm 1972 đi phát cỏ làm ruộng
thì bị trúng nhiều phát đạn vào ngực không biết từ đâu, của “phe” nào. Được đưa
đi cứu cấp, chạy chữa xem như lành rồi.
Nhưng
không ngờ thực ra vẫn còn 2 mảnh đạn nằm sâu trong phổi không bị phát hiện. Mãi
đến năm 2008 bản thân thấy bỗng nhiên hay đau ngực và ho ra máu mới đi khám bệnh
chụp X-quang, bác sĩ viện quân y mới tìm ra 2 “thủ phạm giấu mặt” này. Được tiến
hành giải phẫu an toàn.
1.102
- Phi Nhung
HOÀI
NIỆM ĐỜI MỒ CÔI
Ca sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Phạm Phi
Nhung sinh 1972 tại Pleiku. Sống ở Mỹ (2012).
Trước
75, mẹ lấy chồng Mỹ nhân viên dân sự sinh ra mình rồi cha bỏ về nước để lại 2 mẹ
con bơ vơ. Sau đó mẹ lấy chồng khác người Việt sinh thêm 5 con.
Năm
2000 mới 11 tuổi thì mẹ bị tai nạn qua đời nên 6 chị em phải qua sống nương nhờ
nhà ông ngoại bà ngoại, riêng mình phải bỏ học ra ngoài đi làm thuê việc lặt vặt
lấy tiền nuôi đàn em khác cha.
Đến
năm 1989 một mình đi Mỹ theo diện con lai.
Trên
đất Mỹ bắt đầu làm nghề lao động chân tay vất vả để sống còn từ quét dọn vệ
sinh, bồi bàn đến may vá, tiếp viên nhà hàng. Có tìm người cha Mỹ nhưng vẫn biệt
vô âm tín.
Theo đạo Thiên Chúa nên có tham gia hát
trong dàn đồng ca nhà thờ nhờ hồi trươc thường quen hát ru em ngủ. Qua đó ngẫu
nhiên được 2 đàn chị ca sĩ Hươg Lan và Trizzie Phương Trinh phát hiện thấy mình
có giọng hát khá tốt nên hết lòng dìu dắt
(bắt đi học thanh nhạc bài bản đàng hoàng), giúp đỡ cho bước vào nghề ca hát.
Từ năm 1993 dần có tiếng tăm trình diễn
sân khấu, thu băng đĩa ăn khách và cả đóng phim nữa, có chỗ đứng trong làng ca
sĩ hải ngoại.
Nhờ hát được cả tân nhạc lẫn cải lương,
giọng ca buồn có nét riêng và đặc biệt chất trữ tình dân quê chất phát mà thật
thà từ tiếng hát đến phong cách biểu diễn (mặc áo bà ba, đội nón lá…): “Tôi cũng
thấy mình quê trong bản chất không thay đổi được. Lắm khi cũng tự an ủi thì quê
cũng hay chứ có gì mà phải suy nghĩ!”
Nhưng ấy chính là “thương hiệu” của cô,
gần giống như Hương Lan vốn là thần tượng thủa nhỏ của mình.
Làm được bao nhiêu tiền đều dành dụm gửi
về nuôi các em, xây nhà cho các em ở Pleiku.
Năm 1998 trở lại quê hương lần đầu
tiên, lên Pleiku thăm mộ mẹ và ông bà ngoại. Những lần về sau bắt đầu trình diễn
sân khấu được nhiều người ái mộ.
Năm 2007 gặp một sự cố đời tư (bị lừa
tiền, người yêu bỏ rơi…) làm suy sụp tinh thần phải nghỉ hát ba năm, còn tính đi
tu nữa tưởng đã mất hết tất cả. May mà sau đó được bạn bè, đồng nghiệp động
viên an ủi mới gượng dậy được để tiếp tục sự nghiệp.
Đến nay vẫn chưa lấy chồng để toàn tâm
toàn ý lo cho các em. Không chỉ thế, còn nhận thêm 13 trẻ mồ côi làm con nuôi
xây nhà ở Bình Phước cho ở chung.
Như một sự hoài niệm về thời thơ dại
cùng các em phải sống đời mồ côi: “Tôi không nghĩ mình làm được điều gì lớn lao
mà thấy đây là việc mình cần làm thôi. Cuộc sống của tôi vất vả nhưng cũng gặp được
những tấm lòng thì mới có được ngày hôm nay.”
1.103
- Phương Hồng Ngọc
MỘT
LẦN HỤT ĐI PHÁP
Ca sĩ Việt kiều Pháp sinh 1964 tại Cần
Thơ. Sống ở Mỹ (2012).
Trước
75 là nữ ca sĩ chuyên hát phục vụ thương bệnh binh VNCH trong phong trào “Em
gái hậu phương”. Lấy chồng là diễn viên kịch nói Ngọc Đức sinh 2 con.
Sau
75 tiếp tục ở lại TPHCM đi hát sô ở các tỉnh.
Cha
là người Việt lai Pháp (ông nội lính Pháp viễn chinh lấy vợ Việt rồi ở lại VN
luôn) nên năm 1977 gia đình được phép về Pháp lại nhưng lúc đó mình đang đi hát
xa nhà hay tin về không kịp nên đành phải ở lại.
Đến
năm 1982 mới được cha bảo lãnh cùng chồng con qua Pháp.
Tại
Pháp may mắn được đi hát phục vụ kiều bào nên sống cũng tạm được. Nhưng hạnh
phúc gia đình lại đổ vỡ, ly dị chồng rồi lấy chồng khác cải đạo Công giáo, sinh
thêm một con gái. Theo chồng mới chuyển qua Mỹ sinh sống.
Từ
năm 2001 thường xuyên về VN vì chồng có công việc đầu tư kinh doanh ở TPHCM.
Nhân đó tham gia nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo, trẻ em khuyết
tật nạn nhân chiến tranh…
1.104
- Ronald Humphrey
LÀM
GIÁN ĐIỆP CHO CỘNG SẢN VN
Nhà báo Mỹ sinh 1936 tại Mỹ. Sống ở Mỹ
(2012).
Trong
chiến tranh VN từng làm phóng viên ở VN, từ đó lấy vợ VN sinh 4 con.
Trước
1975 trở về Mỹ thì VN giải phóng nên vợ con bị kẹt lại TPHCM. Tiếp tục làm
trong ngành báo chí ở Phòng Thông tin Mỹ, viết bài thể thao cho báo The Seatle
News. Lấy vợ Mỹ rồi ly dị.
Năm
1987 bị FBI bắt giữ cùng với Việt kiều David Duong (Trương Đình Hùng, con của
Trương Đình Dzu một chính trị gia đối lập chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn
Thiệu trước đây) vì tội gián điệp tuồn tài liệu mật về chính quyền Mỹ lấy từ
Phòng Thông tin Mỹ cho cộng sản VN. Qua sự móc nối của Đại sứ VN ở Liên Hiệp Quốc
và Đại sứ VN tại Pháp.
Ra
tòa năm 1982 biện hộ sở dĩ làm việc này để “trao đổi” với phía VN đáp lại bằng
cách cho vợ con qua Mỹ đoàn tụ với mình. Lãnh án 15 năm tù.
Tuy
nhiên sau đó được giảm án ra tù sớm. Và vợ con ở VN cuối cùng cũng được qua Mỹ đoàn
tụ.
1.105
- Sơn Nam
NHÀ
NAM
BỘ HỌC “CHẬM MỘT CHUYẾN ĐÒ”
Nhà văn tên thật Phạm Minh Tài sinh
1926 tại Kiên Giang – Mất 2008 ở TPHCM (83 tuổi).
Từng tham gia kháng
chiến chống Pháp ở quê nhà Rạch Giá, có lúc làm tỉnh ủy viên ở Phòng Văn nghệ Xứ
ủy Nam bộ dưới quyền ông Võ Văn Kiệt (sau này là thủ tướng chính phủ thời Đổi mới).
Nhưng 1954 không đi tập
kết mà ở lại Kiên Giang rồi 1955 lên Sài Gòn bắt đầu theo nghiệp viết văn, viết
báo.
Đang làm báo thì do từng
có quá trình hoạt động cùng cộng sản đánh Pháp nên bị chính quyền Ngô Đình Diệm
đưa vào sổ đen là thành phần bị nghi “thân Cộng”, vì vậy năm 1960 bị bắt giam ở
nhà tù Phú Lợi tại Bình Dương.
Tuy nhiên sau khi điều tra kỹ thấy không có dấu hiệu “Việt cộng
nằm vùng” gài lại miền Nam nên 18 tháng sau được thả về. Thực tế không hề nghe
nói được Cộng sản giao nhiệm vụ gì ở miền Nam hoặc do bị “mất liên lạc” (?)
nên không có hoạt động chống chính quyền.
Chỉ thấy từ đó tiếp tục viết báo chuyên tâm khai thác mảng đề
tài lịch sử, văn hóa, phong tục, sinh hoạt dân Nam bộ mà bản thân mình gắn bó từ
nhỏ (bút danh lấy họ Sơn là họ của bà mẹ nuôi người Khmer Nam bộ) qua sáng tác
chủ yếu ký, truyện ngắn và bài khảo cứu. Nội dung gần gũi với cuộc sống người
nông dân Nam
bộ tay lấm chân bùn nghèo khó từ đời này qua đời khác: “Tôi là một đứa con có
hiếu với dân ở dưới.”
Tất cả bài báo, sách in đều nói chuyện đời xưa đời nay chung
chung với mục đích đề cao nền văn học dân tộc, văn hóa dân gian, văn hóa Nam bộ
tránh đề cập đến vấn đề chính trị. Đồng thời giữ vững tư cách một “nhà báo tự
do”, “nhà văn độc lập” không chạy theo chế độ VNCH cũng không tỏ ra thiên Cộng
rõ ràng.
Lần lượt in nhiều tác phẩm giá trị: Sáng tác gồm “Hương rừng Cà
Mau”, “Chim quyên xuống đất”, “Hình bóng cũ”, “Bà Chúa Hòn”…; khảo cứu có “Lịch
sử khẩn hoang miền Nam”… Văn phong độc đáo rặt chất Nam bộ dân dã mà tinh tế, sâu sắc.
Là người cầm bút chuyên nghiệp hoàn toàn sống bằng nhuận bút nên
cảnh sống khá vất vả với gánh nặng gia đình nuôi vợ con. Bản thân người gầy còm
đen đúa “xấu xí” giống hệt nông dân nghèo suốt đời chỉ đi bộ (không biết đi xe
máy, có đi thì nhờ người khác chở) lang thang cả ngày ngoài đường lê la nơi này
nơi nọ tìm chi tiết, đề tài, cảm hứng từ cuộc sống để viết. Từ đó có biệt danh “Nhà
văn đi bụi”, “Ông già đi bộ”!
Sau 1975 gặp lại các đồng chí, bạn bè cũ một thời kháng chiến chống
Pháp nhưng không được chế độ ưu ái vì xét ra chẳng có công trạng gì trong thời đánh
Mỹ, nếu không nói là có khi còn bị nghi kỵ “hợp tác” với chế độ Sài Gòn! Bởi thế
đã bị loại khỏi bộ “Từ điển Văn học” 2 tập đồ sộ in năm 1984, một thời gian dài
vẫn nằm ngoài Hội Nhà văn VN!
Với thân phận “nửa nạc nửa mỡ” không phải Việt Cộng nằm vùng mà
cũng không dính líu chế độ cũ nhiều thành ra như một thành phần nửa vời dở khóc
dở cười. Đặc biệt về gia cảnh vợ con nheo nhóc càng gặp khốn khó hơn khi không
có báo để viết kiếm sống nữa. Cả tủ sách làm tài liệu viết lách, nghiên cứu cũng
bị vợ đem… bán ve chai! Khiến đôi khi không tránh khỏi ngậm ngùi rằng “Con người
ta có khi chỉ chậm một chuyến đò, số phận đã đổi khác rồi!”
May mà còn cố nhân Võ Văn Kiệt bấy giờ là Bí thư Thành ủy TPHCM
thông cảm thỉnh thoảng giúp cho cứu đói.
Cứ thế cho đến thời Đổi mới mới dễ thở hơn, bắt đầu từ việc năm
1990 được đạo diễn Pháp J. Arnaud trân trọng mời làm cố vấn về mặt lịch sử –
phong tục cho bộ phim truyện “Người Tình” (phỏng theo truyện vừa của nhà văn nữ
Pháp M. Duras thời trẻ từng sống ở Sài Gòn) quay năm 1991 ở TPHCM. Rồi được Bí
thư Võ Văn Kiệt cấp nhà.
Từ đó được trân trọng mời tham gia các hoạt động lễ hội truyền thống,
văn hóa dân tộc vùng đất phương Nam.
Và viết báo, viết sách tiếp tục sự nghiệp phát triển văn hóa Nam bộ. Với một
loạt tác phẩm: “Người Sài Gòn”, “Gia Định xưa”, “Bến Nghé xưa”, “Tục lệ ăn trộm”
(khảo cứu); bổ sung truyện ngắn cho tập “Hương rừng cà Mau” (tổng cộng 66 truyện),
“Một mảnh tình riêng”, “Dạo chơi”, “Hồi ký” (4 tập, sáng tác)…
Được một nhà xuất bản ở TPHCM mua bản quyền toàn bộ tác phẩm (hơn
40 đầu sách). Một truyện ngắn trong tập “Hương rừng Cà Mau” được đạo diễn Việt
kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh thực hiện năm 2004 sau đó đoạt nhiều giải thưởng cả
trong lẫn ngoài nước.
Đường đời thăng tiến khá hơn nhiều nhưng cuộc đời riêng vẫn lận đận
chuyện nhà không êm xuôi mát mái tới mức phải rời khỏi nhà đi sống nhờ ở một
nhà văn hóa cấp quận cho đến cuối đời. Xui xẻo nữa năm 2007 bị tai nạn phải nằm
liệt trên giường 2 năm trời đến khi qua đời không còn viết lách gì được nữa.
Thật lạ khi cả 2 nhà “địa phương học” hàng đầu cả nước – Sơn Nam
nhà “Nam bộ học” và Nguyễn Văn Xuân nhà “Quảng Nam học” - đều phải trải qua một
cuộc đời gian nan vất vả vì miếng cơm manh áo dưới cả 2 chế độ trái ngược nhau,
đến cuối đời nếu có đền bù vật chất được đôi chút cũng không hưởng thụ được mấy!
Thật là “số khổ” như người đời thường chép miệng thương cảm.
Được tôn vinh là nhà Nam bộ học kiệt
xuất hiếm có nhưng sau khi mất chỉ có một nhà lưu niệm tại Mỹ Tho do cô con gái
sống tại đây tự đứng ra lập nên trong khi lẽ ra TPHCM nơi ông ngụ cư cũng là nơi
thành danh hoặc quê hương Kiên Giang phải làm việc này.
1.106
- Sơn Nguyễn
CẢI
ĐẠO LÀM MỤC SƯ
Tu sĩ Tin Lành Việt kiều Mỹ tên cũ Nguyễn
Sơn sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2009).
Sau
75 vượt biên qua Mỹ.
Học
ngành điện toán ra trường hành nghề thành công.
Năm 1995 bị tai nạn ô tô làm hôn mê sâu
suốt 2 tháng, một phần cơ thể bị liệt. Trong thời gian đó, người thân đã mời một
giáo đoàn đạo Tin Lành ở địa phương đến cầu nguyện thường xuyên cho mình vượt
qua được cơn nguy hiểm.
Kết quả cuối cùng được cứu sống, tỉnh dậy
rồi tập luyện hồi phục. Từ đó mang ơn giáo đoàn nên tình nguyện cải đạo từ đạo
Phật qua đạo Tin Lành luôn.
Ban đầu tham gia hoạt động trong các chương
trình truyền giáo, xã hội của giáo đoàn. Dần dà tu học trở thành mục sư từ năm
2009 phụ trách giáo dân Việt kiều ở một quật hạt thuộc bang Florida.
1.107
- Tạ Chí Đại Trường
LẬN
ĐẬN SỬ GIA
Nhà sử học Việt kiều Mỹ sinh khoảng
1944 tại Khánh Hòa. Sống ở Mỹ (2012).
Cha
là cựu tỉnh trưởng Bình Định nhưng sau đó chuyển qua đối lập chính quyền Ngô Đình
Diệm.
Bản thân tốt nghiệp thạc sĩ sử ĐH Văn
khoa Sài Gòn. Trong thời gian này bắt đầu viết bài về nghiên cứu tiền cổ VN rồi
qua các đề tài sử học chuyên biệt trên tạp chí Bách Khoa được đánh giá cao với
quan điểm dân tộc độc lập không theo trường phái nào với nhiều phát kiến độc đáo,
sâu sắc qua lối viết hấp dẫn.
Năm 1964 bị gọi đi sĩ quan Thủ Đức, sau
đó nhờ chuyên môn sử học nên được rút về bộ phận quân sử thuộc Bộ Quốc phòng
VNCH. Tiếp tục phát triển viết báo, viết sách chuyên đề sử học.
Năm 1970 tác phẩm “Lịch sử nội chiến VN
1771-1802” được tặng giải thưởng quốc gia chế độ cũ.
Chuẩn bị làm luận án tiến sĩ thì Giải
phóng 30.4.1975. Mang lon đại úy nên đương nhiên phải đi cải tạo. Trong lúc đó
về mặt chuyên môn, cuốn “Lịch sử nội chiến VN 1771-1802” bị chế độ mới cộng sản
“cấm” vì quan điểm đề cao triều Nguyễn mà “chê” triều Tây Sơn vốn được cộng sản
ca ngợi là anh hùng khởi nghĩa nông dân chống phong kiến áp bức.
Ra tù, năm 1984 đi Mỹ diện H.O.
Trên đất Mỹ trong 10 năm đầu hầu như đành
đoạn tuyệt với nghiệp sử gia để lo bôn ba làm đủ các nghề để kiếm sống đến độ
có lúc đổ bệnh luôn.
Khi cuộc sống dần ổn định mới có thì giờ
quay lại với nghề sử học. Lần lượt in các cuốn “Những bài dã sử Việt”, “Thần,
Người và đất Việt”, “Sử Việt, đọc vài quyển”, “Người lính thuộc địa Nam Kỳ” (luận
án tiến sĩ)… Có cộng tácvới Trung tâm nghiên cứu VN ở Mỹ biên soạn công trình “Lai
lịch người Việt tị nạn”....
Năm 1992 trở lại quê hương trong bầu
không khí Đổi mới, bước đầu làm quen với giới sử học tiến bộ miền Bắc (gặp nhà
sử học quá cố Trần Quốc Vượng). Trở về viết cuốn “Một khoảng VNCH nối dài” năm
1993 và “Việt Nam nhìn từ bên trong” (viết chung với Nguyễn Xuân Nghĩa) năm
1994.
Sau đó nhiều lần về lại, chứng kiến một
số sách viết ở Mỹ được in lại tại VN từ năm 2000, riêng cuốn nặng ký nhất “Lịch
sử nội chiến VN1771-1802” đến năm 2007 mới tái bản trong nước.
Cũng vì thế bị giới chống Cộng hải ngoại
phê phán “thân Cộng, bài Quốc gia”!
Năm 2010 gửi kiến nghị đến Quốc hội VN
công nhận Nghĩa trang Quân đội VNCH (Nghĩa trang Biên Hòa) là Chứng tích lịch sử
vì “Chế độ nào cũng qua, chỉ có đất nước là tồn tại”, ký dưới là “cựu sĩ quan
VNCH”.
Một kiến nghị muộn màng hầu như bất khả
thi bởi trước đó vào năm 2006 chính quyền VN đã quyết định chuyển quyền quản lý
nghĩa trang này từ Bộ Quốc Phòng qua cho tỉnh Bình Dương, dân sự hóa nó (thân
nhân được tự do thăm viếng, tu sửa) đổi tên thành Nghĩa trang Bình An (ghép tên
tỉnh Bình Dương với tên huyện Dĩ An trực thuộc).
1.108
- Tạ Tỵ
“ÔNG
TỔ” HỘI HỌA LẬP THỂ CHỌN CHẾT TRÊN QUÊ HƯƠNG
Họa sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1922 tại Hà Nội
– Mất 2004 ở TPHCM (83 tuổi).
Thuộc
thế hệ họa sĩ tiên phong của hội họa VN, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương cùng các danh họa Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị, Văn Cao. Sau đó cùng
tham gia kháng chiến chống Pháp.
Nhưng năm 1954 không ở lại miền Bắc mà
theo dòng người di cư vào Nam.
Sống ở Sài Gòn, trở thành sĩ quan quân đội
VNCH ngành tâm lý chiến.
Trong thời gian này tích cực sáng tác mở
đường cho khuynh hướng vẽ tranh lập thể theo trường phái đại danh họa Tây Ban
Nha Pablo Picasso tạo nhiều tiếng vang trong nước và quốc tế. Sau đó chuyển qua
khuynh hướng hội họa trừu tượng. Còn vẽ ký họa rất tài hoa. Được xem là họa sĩ
có tranh bán đắt giá nhất thời này.
Ngoài ra còn làm thơ, viết truyện, bút
ký, kịch nhưng không đạt thành tựu bằng hội họa.
Ngày Giải phóng mang lon trung tá chiến
tranh chính trị nên phải đi cải tạo. Sau khi được trả tự do đã vượt biên qua Mỹ
năm 1982.
Trên xứ người tiếp tục vẽ trong đó có
tác phẩm mang dấu ấn thời cuộc “Những mảnh đời tị nạn”.
Năm 2002 quyết định quay về nước an dưỡng
tuổi già được 2 năm thì qua đời.
Cả Bảo tàng Mỹ thuật VN lẫn Bảo tàng Mỹ
thuật TPHCM đều mua và lưu giữ tranh của ông trong đó có bức “Cất cánh” vẽ năm
1972 được xem là bức sơn dầu lớn nhất bảo tàng.
1.109
- Tạ Văn Hinh
CHỮ
“NHẪN”
Doanh nhân sinh tại Hà Tây. Sống ở Hà
Tây (2008).
Đi
bộ đội vào Nam
chiến đấu ở Tây Nguyên, bị nhiễm CĐDC mà không biết,
Sau
chiến tranh xuất ngũ về Hà Nội làm công nhân công ty. Lấy vợ sinh 5 con đều mắc
bệnh trầm kha lúc đó mới biết là do di chứng từ chất độc này. Đứa con đầu lòng
mới 2 tháng tuổi đã bỏ bố mẹ ra đi, 4 đứa còn lại thì 2 em bị bệnh động kinh
kèm chứng bại liệt teo cơ và 2 em trí óc chậm phát triển.
Dù
vậy vẫn cắn răng chịu đựng tìm cách làm ăn vươn lên mới có tiền lo cho đàn con
bệnh tật. Từ đó quyết định xin nghỉ làm công nhân quay về làng lập hợp tác xã tự
mình làm chủ mới có điều kiện phát huy hết khả năng và giấc mơ ấp ủ. Tự tay viết
một chữ “Nhẫn” thật lớn dán lên tường trong phòng khách lấy đó làm lời nhắc nhở,
động viên mình luôn cố gắng kiên trì nhẫn nại chấp nhận giấu nỗi buồn con cái để
giữ vững tinh thần đấu tranh với số phận vượt lên hướng về tương lai tươi sáng
hơn.
Học
tập kinh nghiệm các mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ thành công thời kỳ
này mới đưa hợp tác xã chuyển nghề từ nghề làng truyền thống chuyên đan lát bò
cót qua nghề đan mây tre lá hợp thời hơn. Hồi đầu dân làng chưa quen nên gặp
khó khăn, vất vả nhưng vẫn kiên trì nỗ lực dần dà tự khắc phục, cải tiến nâng
cao tay nghề làm ra sản phẩm bán chạy có thu nhập ổn định cho hơn 300 công
nhân. Hợp tác xã được nâng cấp lên thành doanh nghiệp tư nhân.
Từ
hoàn cảnh bản thân đã tập hợp trẻ em khuyết tật ở địa phương về truyền nghề miễn
phí rồi thu nhận vào làm.
Tất
cả thành công quy vào một chữ “Nhẫn” là bí quyết sống rút ra từ nỗi đau riêng
chua xót phận người: “Hoàn cảnh gia đình mình như thế, nếu không nhẫn nại chắc
tôi đã buông xuôi mọi thứ từ lâu rồi.”
1.110
- Tap Van Pham
NHÀ
BÁO BỊ ĐỐT CHẾT
Nhà báo Việt kiều Mỹ tên cũ Phạm Văn Tập
sinh 1939 tại VN – Mất 1987 ở Mỹ (48 tuổi).
Đến
Mỹ sau 1975 do cha bảo lãnh nhưng mẹ và 2 em gái còn ở lại. Năm 1981 vợ lập ra
tạp chí “Mai”ở California,
chồng làm chủ bút.
Tuy báo này chỉ chuyên về văn nghệ giải
trí nhưng năm 1987 chủ bút lại chủ trương không đăng quảng cáo cho các tổ chức
chống Cộng, ngược lại cho đăng thông tin các công ty ở Canada làm dịch vụ chuyển
tiền và du lịch về VN. Có lẽ vì lý do đó mà tòa báo đã bị phe phái chống Cộng
ném bom xăng vào trụ sở báo bốc cháy khi ông đang ngủ nên bị ngộp khói chết.
Sau đó tổ chức “Diệt Cộng Hưng quốc Đảng”
(VOECRN) gửi thư đến báo Người Việt công khai thừa nhận mình là thủ phạm đốt
toà báo nhưng không hiểu sao cảnh sát Mỹ vẫn nói điều tra… không ra thủ phạm!
Báo “Mai” vẫn tiếp tục ra do bà vợ và
con gái điều hành.
(Còn tiếp)
http://sites.google.com/site/vanvietloc4/home/ho-so-hau-chien/hosohauchienky110
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét