Thơ hôm nay có thể
là gì? Chắc chắn không phải là cái gì to lớn. Mà là một túp lều nhỏ, tác phẩm
ra rất it, quần chúng chẳng có mấy người, nó ít lưu ý đến sự tiếp xúc. Người ta
đáp ứng một cách đơn giản, với giọng giễu cợt: “thi ca không có gì là vĩ đại”,
nghĩa là có thể thí dụ, nó ngược lại với truyền hình, là cái mà mọi người đều
xem, là cái mà mọi người đều nói đến, hay điều là chuyện khắp thế giới… Bài thơ
có thể là vật khác, sự khác, lại lạ lùng. Nó khác biệt là sự sắp đặt cho mình,
tự luân lưu, có quyền lực, có thể nó là cái khác biệt riêng rẻ và xác thực: một
sự xa xôi thuộc về chúng ta, được đào bới, bới đào mãi, và dùng ngôn ngữ vẽ
thành đồ bản, càng lùi lại tận khoảng không nội tại.
Bài thơ có đặc ân
là thiết lập một vùng đất nhỏ: là nơi không thể nói đó là xứ sở nghèo nàn, cũng
không phải chỉ vào thứ nghệ thuật hiếm hoi. Chính là vùng đất đai của ngôn ngữ
đầy thần bí, bât khả tri, đôi khi tối tăm, một góc hay một xó xỉnh của ngôn ngữ
đậm đặt và rối rắm; ở đó người phải khổ tâm mạo hiểm, nhưng cũng ở đó người ta
vượt qua nhiều sự vật mang tính chân lý…Như thế phải chăng đó là bài thơ chúng
ta đang đọc in trên trang giấy trắng: một thứ ngôn ngữ tập trung, đầy dồn dập
sự kiện, ít hàng, ít chữ? Những hình ảnh, những đối tượng nhô ra: Đây là
quả, là hoa, là lá cảnh: hiện trên trang giấy dưới mắt chúng ta.
Bài thơ chỉ có thể
là bài thơ: tiếp tục thiết lập khoảng không dành cho ngôn ngữ ở đó tập trung và
bảo trì thay vì tiêu phí gây tổn hại làm đảng trí. Một khoảng không, ở đó mang
ý nghĩa chủ thể và thế giới tôn tại trong sự quan sát. Bài thơ kêu gọi sự lo âu
về ngôn ngữ trên những khả năng, thân phận và sự giới hạn của nó. Thi ca có thể chăm
lo đến ngôn ngữ. Như người ta chăm lo một sinh vật hay một đối tượng mà người
ta hằng quí mến. Hoặc người ta phung phí sự săn sóc cho một bênh nhân, một
người hấp hối.…Ít ra là tiếp tục lo chăm sóc nó, lôi kéo sự chú ý đến nó. Cho nó
thấy, nghe, nhất là sờ mó, cảm thấy như là cách thức xuyên qua như là kinh
nghiệm hình ảnh, bằng nhịp điệu, bằng cái xe ọp ẹp đặc biệt của ngôn ngữ là thi
ca. Xe ọp ẹp ấy vội vàng và bị giới hạn, nó tự tiến lên chấp nhận những hiểm
nguy. Thi ca chinh phục ngôn ngữ qua những điều chỉnh hay vận dụng đặt nó vừa
có giá trị vừa khó khăn; như người ta
cảm được sự cứng rắn hay sự mềm mại của một chất liệu, bằng cách thực hiện những áp lực nơi nó, tạo
ra cho nó những vòng quay, những xoắn ốc,
nhưng biến đổi, bằng thơ, gọi là hình ảnh.
Thi ca tạo ra sự gia tăng bên cạnh các từ. Cải biến và nhấn mạnh để thăm dò sự
nhận thức. Chúng ta có thể hiểu được gì?
Đó là câu hỏi được đặt ra bằng những bài tập lạ lùng, những cử động nhịp nhàng
của sự tập luyện điên khùng, những tràn đầy, những tia chớp, những thay đổi dột
ngột của cơ chế, sự tốc độ, sự duy trì, những ý nghĩa, “chậm chạp bằng chữ viết”,
tuyệt đối chậm chạp, và mau lẹ cũng chính xác mau lẹ và không đâu, tuyệt đối
không đâu.
Với Mallarme chúng
ta từng biết, biết bao cái ngôn ngữ thông dụng hằng ngày của chúng ta được rút
gọn chỉ còn như đồng tiền lẻ lăn mau trong âm thanh của chúng ta mà chúng ta
không mấy chú ý. Chúng ta cũng biết biết bao tiết chế trong sự giao cảm lỗi
lầm, khiêm tốn ngược đãi và lạm dụng bằng câu ngắn gọn, những biểu ngữ, những
phiên bản, và những ngôn từ thích đáng. Cũng như câu thơ hay đầu tiên, mà chúng
ta vừa nhớ lại, ngược lại với thời đại, đó là trò chơi của ngôn ngữ, những liều
lĩnh, những mong manh và những giới hạn mà cũng là sự mỹ lệ.
Trong cái quyền
lực của thi ca khiến cho chúng ta có giây lát thấy được, hít thở được cái ngôn
ngữ mà xã hội như đuôi mù và ngạt thở, thấy được và lay động mối liên hệ mông
lung với ý nghĩa đầy thần bí ẩn tàng và ngưng tụ trong cuộc sống cộng đồng. Và
vậy là chúng ta tự đưa mình, ít ra là bảo đảm rằng chúng ta nhớ lại được khoảng
trống mà chúng ta thiết lập và chúng ta từng chế ngự biết bao sai lầm cái ý
nghĩa của những từ mà chúng ta tin rằng đã sử dụng rõ ràng. Trong cái quyền lực
của thi ca làm dừng lại cách sử dụng đồng tiền trong tay ta, vào lúc mà chúng
ta nhắm mua một khúc bánh mì dài. Thình
lình cử chỉ dừng lại và nhìn cái manh múm: Tại sao lại sử dụng những từ này, nó có giá trị gì, sức nặng, tia
sáng, cách sử dụng, sự chuyển đổi thần bí, chúng tự đàm phán trong chúng ta.
Bài thơ là một sự phê phán đầy chú ý của ngôn ngữ. Một sự phê phán ngôn ngữ
thực hành, sự phê phán hành vi của ngôn ngữ. Nó như lôi kéo sự hôn trầm của
ngôn ngữ. Nó chất vấn, khêu gợi, nhắm vào sai lầm. Nó nêu ra sự khảo sát và nêu
ra…
Bày tỏ, ca tụng,
chơi đùa, đánh giá bài thơ, ngôn ngữ thấy rõ, biết rằng đó là tất cả của cải
đầy nguy hiểm. Nó cũng chứng tỏ là lầm lẫn, đầy tớ ngoan ngoản của dối giả,
công cụ thích đáng để đánh bẫy chúng ta, tuân theo ân huệ của sự yếu đuối, đặt
chúng ta trong trạng thái tràn đầy ảo tưởng dễ dàng… Sự gia tăng đó là vận
mệnh, sự liều lĩnh của nó; một sự liều lĩnh mà thi ca quyết định đầu tiên; vì nó tự đề xuất một đòi
hỏi về ý nghĩa và hình ảnh cuồng loạn… Ở đó nó tìm sự lẫn tránh mau lẹ, trong
số những ẩn dụ ảo ảnh hay những nhịp điệu vững vàng, cái điều gây thương tích
thực tại. Thi ca ban cho dục vọng những hàng lẫn trốn, và “nhà thơ tệ hại” sau
cùng cũng không thể nào lừa bịp nó bằng ngôn ngữ, điều nó tạo ra sự trùng phục
uyển chuyển, hòa hài và tự trả mau lẹ bằng những từ dễ dãi.
Cũng như Botho
Strauss từng viết: “Nghệ thuật là nơi ở đó người ta luôn luôn có tình cảm âm
thầm của sự ngây thơ, nhưng nó không có nơi nào ẩn trú.” Tôi cũng chủ trương “
ảo ảnh trử tình” dành cho một tiên quyết cần thiết, có thể là một hành trình
bắt buộc, một mê lộ khộng thể tránh với ai muốn có một cơ may đạt đến sự hiểu
biết chính về thi ca. Sau tất cả, Rimbaud không làm điều gì khác hơn là tức
khắc nhượng bộ cho ảo ảnh ẩn dụ vĩ đại. Có thể ông ta làm vậy là để đi qua bằng
sự không tưởng, tiếp đó là kết toán với nó, yêu cầu nói lời xin lỗi để được
nuôi dưỡng bằng dối giả, và tìm đường trở về đất cát. Về phần Mallarme cuối
cùng dùng giải pháp lường gạt của bấu trời xanh lý tưởng, ông đã khai triển tác
phẩm của ông với “ nghị lực của thất vọng”, trong sự kì dịêu bất kể như thế
nào, bằng cách cố gắng duy trì trên giấy trắng mối liên hệ ám ảnh với điều mà
ông ta biết không đạt đến được.
Như thế đó là bổn
phận và quyền lực của thi nhân; mỗi người giữ gìn cái “bản năng của Thượng Đế”
mà không hề đánh mất vũ khí. Tiếp tục tìm kiếm dưới bầu trới xanh sự chết chóc
của vì Thượng Đế không còn hiên hữu. Biết rõ và không né tránh sự lường gạt.
Đúng hơn là sự tôn kính làm thế nào, do sự gian trá, người ta phóng xuất, ở chỗ
bảo vệ đề cao và điên khùng. Nơi chúng ta thiếu ý thức cái điều bùng nổ trên
cao! Hay là để nói về những sự vật khác: bài thơ viết ra như nói dối với người
hấp hối, và ai biết được ( Mallarme – Divagations). Nó biết Thượng Đế là hư
không, khuôn mặt con người tự tan biến, mà ngôn ngữ thì mệt mỏi và tự tắt, rằng
chân lý trốn thoát, rằng ý nghĩa ở ngoài sự đạt đến, rằng tự nó không có quyền
năng và không thể hứa hẹn gì. Nó biết rằng từ nhiều năm qua lời lẽ của văn học
không có gì hơn là lặp đi lặp lại một cách cuồng nhiệt sự vắng vẻ về nhận thức.
Nó biết đó là sự tỉnh ngộ, nỗi lo âu, sự rút lui, sự lầm lẫn. Nó học thuộc lòng
nhầu nhuyễn đến phát ngấy. Tuy nhiên nó vẫn tiếp tục vì ước muốn cái gí khác.
Dù được tố cáo là khộng có, để cho con người không lùi bước, nhưng còn lại là
điều đặt thành vấn đề. Nó không thể nào tin rằng có được sự đáp ứng cho tất cả.
Nó không bằng lòng ăn uống, tiêu hóa, ước ao, tư thông, tiêu thụ, tích lũy và
sùng bái những đối tượng. Nhưng không phải tất cả là lừa bịp. Để cho nó
biết rằng đó là khoảng trống cư trú, lỗ
hổng ấy tạo thành ngôn ngữ. Nó còn phải đi qua cuộc hành trình trong ngôn ngữ,
thiết lập thành quĩ đạo chết, và nó biết khá hơn một chút niềm ước ao của nó.
Thơ có thể làm được
gì, nếu không phải là sự biểu minh, sức lực không nhìn thấy, bằng cách nhắc lại rằng chúng ta tạo ra ngôn từ, nghĩa là những
phù hiệu nhẹ nhàng mà âm u không giống cái gì cả. Hay là chúng ta như một đàn
kiến chăm chỉ làm việc suốt cả đêm… Da
thịt vật chất chính là mặt đất, còn thịt
máu tinh thần chính là ngôn ngữ; nó như ấn lóat phẩm, là cơ cấu, là âm vực ứng
dụng cho tấm dệt, là chất liệu tinh thần chúng ta. Đúng ra chúng ta là sự kiện
để tìm kiếm và ước muốn cái ý nghĩa, cũng như để cho chúng ta luôn luôn xuyên
qua sự không hiểu biết. Và hiện hữu chính là tranh luận, biện luận mà
thôi. Nhà “thơ muộn màng” không có được
cái linh cảm ấy, và điều khiển ngôn ngữ với tính thủ công sống động. Đúng hơn
nó khá rắc rối với ai mà ngôn từ khiếm khuyết, nó phải quyết định mạnh và thận
trọng với ngôn ngữ để nắm cho được sự hư không của tâm hồn. Tâm chúng ta, cái
tâm chính xác, một cái ổ, một cái hốc, một lỗ hổng đen.
Thơ có thể làm
được gì? Nó nhắc nhở cho chúng ta cái khoảng trống mà chúng ta đã gây ra. Bộc
lộ cái điều chúng ta khoét trống, nhưng
lại gần với điều chúng ta lấp đầy: những cảm xúc, phong cảnh, ý tưởng, ngay cả tình cảm… Và có thể vẽ ra là những
vòng tròn bao quanh chính xác, chứng tỏ rằng chúng ta có da thịt và hơi thở,
chiều dày nhục dục và vô sự. Thi ca tạo ra sự quân bình nơi chúng ta là hư và
thực, dường như sự quân bình đó làm cho cuộc đời thành hư không.
Vậy quyền lực của
thi ca to lớn khác thường, điều nó để lại giả thiết là cuộc đời bí ẩn, và nó
được khuếch tán một cách khiêm tốn. Nó tự thực hiện không sao thấy được. Làm
thế nào nó có thể hành sự khác hơn, từ khi bước xuống ngôn ngữ của nó, điều đó
thực hiện trong một căn phòng, nơi người ta đọc một quyển sách hay viết lách ở
đó….
Thi ca ban cho mỗi
người cái quyền lực kiên cường, quyền cứng đầu, quyền bảo vệ sự sai lầm. Chấp
nhận không hiểu biết. Ước muốn sự rối rắm. Cái quyền lực không có quyền lực.
Khổng Đức dịch
(trich trong Le poete perplex của J.M.Maulpoix)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét