Người xưa cho rằng văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc
lớn của sự "kinh tế" (kinh bang tế thế). Song, cũng thấy rõ tính
chất phiêu lưu hiểm nguy của văn chương, bởi thế người xưa cũng hết
lời khuyên răn đe nẹt nó.
Kinh thánh bắt đầu bằng câu: "Khởi thủy là lời". Câu ấy đi kèm với
cái lắc đầu của Chúa. Chúa cũng sợ rằng những hành động tiếp theo
Lời không khéo chẳng hay ho gì.
Vậy sau khởi thủy là gì?
Không phải tự dưng mà trong văn chương người ta đề cao chữ tâm. Tôi
sẽ nói về điều này sau khi đã trình bày một vài điểm có vẻ như ít
siêu hình hơn.
Trong việc làm văn, yếu tố quan sát giữ vai trò tích cực hàng đầu.
Những nhà văn nhạy cảm và có tài năng, sau khi quan sát xong sẽ mệt
khủng khiếp. Sự lãnh cảm dửng dưng của thói đời, tính chất vô nghĩa
của những việc làm, sự đểu giả trong nhân cách và chi chít những
hình ảnh thối tha trong xã hội đập vào giác quan họ, họ không mệt
sao được?
Sau khi quan sát, nhà văn ngẫm nghĩ để xử lý những lời nói dối và
những lời nói thật, xử lý những hành động bất nhẫn và những cử chỉ
cao thượng, xử lý của cải vật chất có thật và tinh thần lãng mạn
mang màu sắc huyền ảo giống như cách ta lựa chọn thực đơn. Rất ít
khi người ta chọn được thực đơn hợp vị. Tôi không tin là nhà văn nào
cũng biết phân biệt chính xác tuyệt đối các dữ kiện mà anh ta thu
lượm được sau quan sát. Hơn lúc nào hết, đây là lúc nghề nghiệp đòi
hỏi trái tim nhà văn lên tiếng, tức là đòi hỏi chữ tâm trong lòng.
Việc ngẫm nghĩ về các dữ kiện thu lượm được sau quan sát đọng lại
trong lòng nhà văn thành một thứ kiến thức rời rạc, lỏng lẻo. Chính
Lê Quý Đôn đã nhận thấy điều này và điều ông thấy cũng chỉ mờ nhạt
chẳng đáng tin cậy chút nào. Ông viết: "Kiến thức do thanh khí sinh
ra; bản nguyên của thanh khí có gốc ở trời và cũng liên quan đến
thời, từ đó tan vào lòng người, rất kỳ diệu và sinh động. Cảm thấy,
ứng thấy, rất lạ lùng, tinh vi, không hình dung được". Trong điểm
lưu ý này của Lê Quý Đôn, chứa đựng một phát hiện tài tình, đấy là
quy luật "văn đẻ ra văn". Nếu không gọi là quy luật, ta cũng có thể
gọi đó là tình trạng phổ biến.
Hầu hết các nhà văn đều chịu ảnh hưởng của người đồng
nghiệp đi trước. Tính chất truyền lửa hết sức khó chịu này của trí
thức làm cho tất cả các nhà văn khi mới bắt đầu cầm bút đều ngượng
chín người. Họ lố bịch lặp lại tư duy, cách xây dựng hình ảnh, thậm
chí bố cục của ai đó. Guy de Maupassant cũng đã từng ca hát theo
kiểu Flaubert, Gogol thì phải làm theo Puskin, còn Nguyễn Du ở Việt
Nam thì dựa theo Thanh Tâm Tài Nhân là một người gần như không có
tên tuổi gì ở mãi Trung Quốc.
Trong tác phẩm của nhà văn thiên tài, chứa đựng một số câu văn nào
đó làm mồi cho bọn hậu sinh. Việc đọc tác phẩm của họ hết sức quan
trọng. Song, nếu đọc họ mà chỉ dừng ở hình thức nghĩa là không đọc.
Lê Quý Đôn cũng lại nhận ra điều này nữa. Ý kiến sau đây của ông rõ
ràng và minh bạch hơn ý kiến trước nhiều: "Vô luận cổ văn hay kim
văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều phải có
nội dung là đạo. Có nội dung ấy thì văn chương phát đạt, không có
thì hỗn loạn. Phải viết có nội dung thì văn chương thịnh, không như
thế thì suy".
Vậy thế nào là đạo? Và đạo là gì?
Ở
phương Đông người ta coi sự kết hợp âm dương là Đạo, sự kết hợp ấy
được hình dung như con đường. Ta cũng có thể coi đạo như một mạch
sống. Cảm nhận được mạch sống của thời, thể hiện được bằng con chữ,
đấy là văn chương thần thánh.
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, sống cách đây hơn trăm năm, người từng
được nhân dân coi là "thần nhân" giải thích về đạo rất kiêu ngạo:
"Đạo là cái tâm mà ta sẵn có". "Ta" ở đây không phải là mọi người mà
chỉ là một thiểu số cá nhân siêu việt có "lời đạt" (đây là chữ của
Tô Đông Pha) mà thôi. Phương Đình coi "lời đạt" bởi "có gốc". Ông
giải thích: "Ví như nước vậy. Nước ở biển khơi, tuy gò đảo chắn ở
phía trước nhưng dòng không rối loạn. Ao vịnh rất xa, nhưng nguồn
mạch thường thông. Được thế, là vì biển chất chứa sâu dày vậy. Tĩnh
thì thể nghiệm nó ở thân, động thì tham cứu nó ở sự. Nó là cái mà ta
nắm được, để làm trọn vẹn cho "cái vốn có" ở mình. Sau đó, tiếp xúc
với sự vật thì nó bật ra. Không một ý nào là không ngân vang..."
Tất cả những điều trên đều đưa đến hệ quả sau đây: "Văn chương hay
là có "lời đạt", "lời đạt" là bởi có "đạo", "đạo" xuất phát từ "tâm"
tức là từ trái tim người viết". Đã không viết thì thôi, chứ đã viết
ắt phải có tâm, phải có tấm lòng. Nhưng vì sao người ta cứ phải cảnh
tỉnh văn chương, vẫn cứ phải khuyên răn đe nẹt người viết. Trong văn
chương chất chứa sự hiểm nguy gì?
Ở
Trung Quốc người ta kể rằng khi xuất hiện chữ viết, thứ chữ viết
trên mu rùa của vua Phục Hy thì Quỷ cốc tử nhảy ra ôm mặt khóc ba
ngày ba đêm rồi than rằng: "Thiên hạ từ đây đại loạn". Trong chữ
viết, trong văn chương, chứa mầm mống loạn. Điều ấy là một thực tế
và thực tế ấy đã được chứng minh từ xưa đến nay.
Chúng ta hãy thử hình dung một người sinh ra, làm lụng, ăn uống,
sống hoàn toàn mê man trong những phép tắc lề luật, những khuôn khổ
đạo đức tù đọng, "hết ngày dài lại đêm thâu", thời gian cứ thế trôi
đi, rồi chết. Tất cả những điều ấy diễn ra vô nghĩa, tầm thường,
quanh quẩn, không so sánh, không đối chiếu... như thế sẽ kinh khủng
như thế nào. Văn chương không cho phép người ta sống thế, văn chương
thôi thúc, đánh thức tất cả tiềm năng con người trong họ và cảnh
tỉnh rằng: "Này! Sống thế nào thì sống, sống như thế khổ lắm, nhục
lắm, sống như thế đểu lắm, khốn nạn lắm... Mau mau lên, sắp hết đời
rồi". Sự thôi thúc của văn chương dựng người ta dậy...
Sự
thức tỉnh con người ở văn chương có ba bảy đường. Thường các nhà văn
xoàng xĩnh lại đặt lòng tin ở ý nghĩa xã hội của văn chương nhiều
hơn các thiên tài đặt lòng tin vào nó. Các nhà văn kém cỏi, không tự
tin ở tài năng cá nhân mình nên ra sức ráo riết "hoạt động xã hội"
để "phản ánh xã hội". Họ lớn tiếng và tin chắc rằng chỉ riêng mình
mới có "ý thức công dân", riêng mình mới có lương tâm mà thôi. Tôi
đã thấy chuyện ấy xảy ra ở Hà Nội và ở các thị xã tỉnh lẻ. Thường
"các hoạt động xã hội" của loại nhà văn này bao gồm việc tụ tập ở
quán cà phê, salon và các cuộc hội thảo có nội dung chính là "vấn đề
nhân sự". Họ lảng vảng quanh các hội trường, nơi các nhà chính trị
bàn bạc và liếc nhìn với ánh mắt lườm lườm. Việc "phản ánh xã hội"
của họ trong tác phẩm thường sốt sắng nhưng cũng thường sai be bét.
Làm sao mà không sai be bét được? Ngay các nhà chính trị khi định ra
"chế", định ra chính sách, hướng dẫn chúng thực hiện chính sách đó,
phấp phỏng theo dõi hàng ngày cũng còn không tin sự sai đúng, nữa là
một người đứng ngoài cuộc?
Vấn đề "ý thức công dân" và "lương tâm", tôi không muốn đề cập ở
đây. Chúng ta đều có ý thức công dân và lương tâm cả thôi, nó có
chạy đi đâu mà phải lo lắng sợ hãi.
Ở
Việt Nam từ xưa đã lưu truyền một bài ca dao mà tất cả các lời giải
thích về nó đều chết cười:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi cục xôi Bờm cười...
Người viết bài ca dao kia vui tính diễn đạt tư tưởng
"ăn ngay", "nuốt được vào bụng" của mình hết sức tài tình. Tư tưởng
"ăn ngay", "nuốt được vào bụng" có thể ví dụ như tinh thần hiện sinh
trong triết học phương Tây. Người viết bài ca dao đó quá hiểu xã hội
phương Đông, một xã hội đầy thành kiến nặng nề, chất chứa nhiều ràng
buộc, rất nhiều hứa hẹn thề nguyền nên chẳng tin gì hết. Nhà văn
Nguyễn Văn Bờm chỉ tin ở mình, chỉ tin hiệu quả ăn ngay và những tri
thức anh ta có thể tiêu hóa được.
Tinh thần hiện sinh giúp con người nhận thức ra bản ngã mình. Song
tai hại của việc nhận thức ra bản ngã mình là dẫn đến những hành
động bất nhân, bất lương, vị kỷ. Hơn lúc nào hết, ở đây "văn" đóng
vai trò quan trọng. Vậy "văn" là gì? Phải chăng đấy là việc tự mình
quan sát, xử lý dữ kiện, hành động ra sao hợp với mình và hợp với
thời. Chu tử, tức Chu Hy đời nhà Tống Trung Quốc quan niệm: "Uy
nghi đúng mực, nói năng phải lẽ, đều là văn". Quan niệm ấy hết
sức chính xác, Lê Quý Đôn cũng quan niệm như thế nhưng văn hoa hơn:
"Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú là văn của bầu trời - Núi, sông
cây cỏ là văn của đất - Lễ nhạc, pháp độ là văn của người". Lê
Quý Đôn cũng lưu ý
"đừng nhầm lẫn đức với văn là hai". Như thế, văn hay tức là đức
tốt, chẳng có gì mà bàn bạc, đấy là xét về phương diện người viết.
Tính chất hết sức cá nhân trong các tác phẩm văn học lừng danh cảm
động bởi chính bởi chính tấm lòng người viết. Khi người viết không
sợ ngượng, bày tỏ mình và thông cảm được với mọi người thì gì thì
gì, chúng ta cũng phải kính nể anh ta. Tại sao anh ta nói được điều
mọi người không nói được, hơn nữa "không một lời nào không bình dị,
không một ý nào là không ngân vang" thì chắc chắn ở đấy không phải
có cái gì siêu phàm, ở đấy chắc chắn phải có ánh sáng.
Song, tôi vẫn cứ quay lại câu hỏi ban đầu: "Vì sao người ta cứ phải
cảnh tỉnh, đe nẹt văn chương?"
Khi đề cập đến tính chất cá nhân của những tác phẩm văn chương lừng
danh tức là đề cập đến tính chất người của nó. Nó ở đây là hai: Tác
giả và tác phẩm. Ở tác phẩm, độ lớn của nhà văn tính bằng khả năng
đẩy tính cách nhân vật và các vấn đề nêu ra đến hết, thậm chí đến
cái chết. Không phải tự dưng Dostoevski lý giải sự thành công của
ông là ông đã đẩy hết "điều mà các ngài chỉ đẩy nửa chừng". "Các
ngài" đây, tôi cũng không hiểu Dos muốn ám chỉ đồng nghiệp của ông
(tức là các nhà văn Nga cùng thời), ám chỉ các nhà chính trị hay là
nhân dân Nga? Song, tôi biết rõ Dos cũng sẽ gọi con người công chức
trong ông là ngài, ông chồng chung thủy trong ông là ngài, thằng
người nô lệ trong ông là ngài, tất cả con người đạo đức trong ông là
ngài.
Việc đẩy hết, đẩy đến cùng nhân vật cũng như những vấn đề nêu ra
trong tác phẩm đòi hỏi nhà văn phải trung thực với mình đến tận đốt
xương sống. Việc trung thực đến mức dám "thổi sáo bằng xương ống"
như trường hợp Maiakovski đã khiến ông trở nên vĩ đại, dù rằng tài
năng biểu hiện nghệ thuật còn hạn chế. Ta biết cách dùng từ ngữ và
cách văng tục trong thơ của Maiakovski chẳng hay hớm và sang trọng
gì, nhưng không phải vì thế mà ông không phải là nhà thơ vĩ đại.
Hành động tự dí súng vào trán bóp cò của ông hết sức nên thơ. Trước
một tấm lòng như thế thì những người cầm bút khác chỉ còn cách lắc
đầu, phải công nhận ông ta là thiên tài cho yên chuyện.
Dầu khâm phục Maiakovski, thâm tâm nhiều người cầm bút cũng chẳng
muốn noi gương ông. Ở phương Đông, người ta coi danh toàn thân
vẹn mới là anh hùng kỳ tài. Ngày xưa, Triệu Tử Long cũng là một
anh hùng như thế: lập chiến công, không hề bị thương tích, sau đó
chết vì già. Song, Triệu Tử Long hành nghề võ. Còn nghề văn phức tạp
hơn nhiều, không phải khỏe cơ bắp là đã chiến thắng.
Khi đọc cổ văn, tôi sợ nhất câu: "Hành hữu dư lực,
tắc dĩ học văn" tức là có làm dư sức thì mới học văn. Rất
ít người có khả năng như thế, điều mà Maxim Gorki diễn đạt có phần
nào lỗ mãng và không lường hậu quả để lại. Ông nói: "Nhà văn phải
cao hơn điều mình viết". Nói như thế, nhà văn bị đẩy vào thế buộc
phải chứng minh, phải chứng tỏ điều gì đấy (nhất là phải chứng minh,
chứng tỏ với trí tưởng tượng của chính mình thì rất mệt, rất dễ quá
sức). Phật Thích Ca cao siêu hơn nhiều khi Ngài truyền giảng:
"Ngươi đừng tin vào văn của ta, đừng tin vào cái tâm mà ta mong
muốn, ngươi hãy tin vào lòng mình". Đến như thế là tuyệt đối, là đến
hư không. Phật trường tồn bởi rất nhiều những lời truyền giảng như
thế này.
Trong việc thức tỉnh con người, văn chương buộc phải
đụng chạm đến dục vọng. Lý do hết sức đơn giản: bạn đọc không phải
ai cũng đã biết đạo, hiểu đạo, hành đạo. Chất thú, chất bản năng
trong con người nhiều vô kể. Mối hiểm nguy của nhà văn là khi đối
mặt với dục vọng, không khéo anh sẽ thất bại ngay từ "cú ra quân"
đầu tiên. Phật Thích Ca là đàn ông, khi biết đạo của mình có các tín
nữ tham gia, Ngài hiểu rằng có sẽ mất đi 50% màu nhiệm, 50% thời
gian tồn tại, kiểu như nếu đạo tồn tại 10.000 năm thì thực tế chỉ
còn 5.000 năm thôi. Thật đúng là Phật. Ngài vừa độ lượng nhân từ lại
vừa hào phóng. Có tín nữ tham gia đạo mất 50% màu nhiệm Ngài vẫn như
không, mất 50% thời gian tồn tại mà Ngài vẫn chịu được.
Dĩ
nhiên, thể hiện dục vọng trong văn chương không phải chỉ có chuyện
nam nữ. Nó còn là chuyện tiền bạc, là quyền lực, thậm chí là tôn
giáo. Chính trị, ái tình, tôn giáo và tiền bạc là bốn lĩnh vực khi
đề cập đến, dấn sâu vào, nhà văn không khéo rất dễ ăn đòn. Mức độ
hiểm nguy của bốn khu vực trên là ngang bằng nhau và bốn trùm
"mafia" ấy chơi với nhau thân thiết, luôn tìm cách cứu độ lẫn nhau.
Cuộc đấu tranh của nhà văn là nhằm hướng con người thoát khỏi những
mê man về quyền lực chính trị, ái tình, tiền bạc và cuồng vọng hóa
thánh chính mình. Ở đây, nhà văn là kẻ phải một mình chống bốn
"mafia". Có thể nói, chọn nghề văn là chắc chắn chọn sự thất bại về
mình, bởi vì trong mỗi con người ai cũng phải dính dấp đến bốn phạm
trù này, không sao thoát được. Vừa chấp nhận nó, vừa thoát được nó,
vẫn giữ được đạo, đấy là mơ ước của người cầm bút.
Đời sống con người hết sức đa dạng. Người viết cũng thế, hết sức đa
dạng. Chỉ rất ít nhà văn vượt qua được biển cả chông bút rồi cắm
được ngọn cờ ghi tên mình vào một mô đất nhỏ nhoi nào đó. Đa số đến
nơi thì đã kiệt sức, trên người cắm chi chít bút chì, bút bi, bút
mực, bút kim, các vũ khí đủ loại sang trọng và bỉ ổi, thậm chí cả
đạn. Vậy thì ai đến đích? Ai không đến đích?
Số đông nhà văn, có lẽ chiếm đến 99,99% người viết
vướng vào những hóc hiểm của đường đời, lúng túng trong các mê lộ
của lòng người và trong các mê lộ của từ ngữ, không sao thoát ra
được. Số này không biết rũ bỏ sự kiện để tìm đến bản chất. Đặc điểm
nghệ thuật của những nhà văn này là sự hoa mỹ ngôn từ, sự rườm lời.
Họ không bắt mạch được tính cách nhân vật và thường để cho nhân vật
cư xử nói năng nhầm lẫn. Các nhân vật đó yêu đương nhăng nhít, không
biết kiếm tiền và tiêu tiền sai, chẳng biết gì về chính trị và tất
nhiên sẽ vô đạo. Bản thân nhà văn vấp phải chông gai trong đường đời
sẽ mắc phải chông gai trong ngôn từ và làm cho độc giả cũng bị thiệt
mạng nốt. Rất nhiều nhà văn tưởng như lý giải được điều gì đó nhưng
thực ra lại làm rối vấn đề thêm.
Dĩ nhiên, trong tác phẩm của 99,99% số nhà văn đó
không phải vứt đi hết cả, lấp lánh ở đâu đó vẫn có vài hạt vàng bé
nhỏ. Người đọc tinh ý biết cách thâu lượm những hạt vàng đó sẽ có
được một số vàng kiến thức đáng kể, có điều như vậy sẽ phải mất công
sức và thì giờ. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ngẫm nghĩ về sự
đời đã nói về điều này rất gan ruột:
Không có gì hiểm bằng đường đời
Nếu không biết cắt bỏ thì toàn là chông gai cả.
Chữ "cắt bỏ" này trong nghề văn Maxim Gorki gọi là "vặt lông gà" tức
là biết cách rũ sạch các sự kiện không bản chất, rũ sạch các hư từ,
hình dung từ, phiếm từ... Trong đời sống, ta có thể coi nó là việc
cắt bỏ những ràng buộc của thể chế xã hội tiến tới tự do cá nhân
tuyệt đối, giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình.
Khi giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình, đối
mặt với khoảng không tự do cá nhân tức là lúc con người đối mặt với
quỷ. Viết đến đây, tôi nhớ đến chuyện kể về hai người phụ nữ. Một bà
hỏi: "Bạn thân mến, nếu chết bạn sẽ chọn thiên đường hay địa ngục?".
Bà kia trả lời: "Kể ra thiên đường thì khí hậu tốt thật, nhưng ở địa
ngục thì nhiều chuyện vui hơn". Giai thoại này chứa ẩn một nụ cười
khúc khích. Những nhà văn cao thủ mà tôi cho là chiếm tỷ lệ 0,001%
số người cầm bút đã thể hiện tài tình đời sống tự do cá nhân của
mình và nhân vật. Đọc họ rờn rợn, ghê ghê là phải. Nhưng thích. Hơn
nữa thỉnh thoảng lại được cười tủm. Loại văn chương này ngày xưa gọi
là "văn trung hữu quỷ". Ngay Tú Xương cũng thuộc loại này. Thậm chí
cả Nguyễn Khuyến nữa. Khi Nguyễn Khuyến trách Tú Xương:
Rằng hay thì thật là hay
Đem "Trời" đối "chó"
lão này không ưa
Thì thật ra cũng là chuyện "chó chê mèo lắm lông". Khi rơi vào hoàn
cảnh hỏng thi như Tú Xương thì Nguyễn Khuyến cũng phải viết như thế
chứ còn viết thế nào.
0,001% số nhà văn hiếm hoi trên chắc chắn từng trải, tốt bụng, uyên
thâm. Ở họ ranh giới tốt xấu có khi nhòe vì họ chỉ quen làm điều tốt
chứ có làm điều xấu bao giờ đâu mà biết điều xấu là gì. Song, những
nhà văn này bao giờ cũng bị búa rìu dư luận phang vào không thương
tiếc. Lỗi duy nhất của họ là họ quá thật với mình và với bạn đọc.
Đây là thứ văn chương nổi loạn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
đã suy nghĩ về điều này rất gan ruột:
"Không gì nguy bằng lòng người. Nếu không biết giữ gìn mà buông
phóng ra thì thành quỷ quái cả".
Trong lời sấm ấy của Trạng Trình chứa ẩn chân lý sau đây: đấy là
tính mức độ, tính hữu hạn của thiên tài.
Đến đây, chúng ta sẽ gặp khái niệm "hài hòa" của mỹ học hay tình
trạng mà ta vẫn quen gọi là đắc đạo. Số nhà văn đắc đạo chiếm tỷ lệ
ít đến kinh người, nó chỉ chiếm 0,001% số người cầm bút mà thôi. Họ
là những thiên tài và bao giờ họ "cũng lấy điều chí thiện làm
tiêu chuẩn tuyệt đối". Việt Nam may mắn đã có Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, còn sau Nguyễn Du thì hình như chưa thấy ai cả.
Có
thể có người sẽ phản đối tôi về việc chia tỷ lệ ba loại văn chương
kia. Ở đây tùy quan niệm về "người cầm bút". Cách chia tỷ lệ của tôi
là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, từ Tư Mã Thiên trở xuống chứ không
phải là từ dưới lên trên.
Tóm lại, dù ở loại văn chương nào, cũng phải lấy chữ tâm, lấy điều
chí thiện làm gốc. Cảnh tỉnh, đe nẹt người viết là cảnh tỉnh, đe nẹt
loại nhà văn chiếm số đông kia. Đối với 0,001% nhà văn đắc đạo, cảnh
tỉnh đe nẹt họ là thừa.
Đến đây bật ra câu hỏi: ai sẽ là người có quyền cảnh tỉnh đe nẹt văn
chương? Chẳng ai hết cả, đấy chính là bốn trùm "mafia" tồn tại hết
mọi thời: chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn thế lực này
giăng bẫy khắp nơi, hành hạ con người. Văn chương giúp cho con người
nhận thức về mình, nhận chân sự hiểm nguy trong đường đời. Cuộc
chiến tranh nhận thức diễn ra liên tục, khi quyết liệt, khi hòa hoãn
và thường người cầm cờ ở mọi thời bao giờ và cũng chỉ có kẻ ấy mới
có khả năng này. Đấy là nhà văn bất hạnh.
Gã
đang đi trên con đường kia, bút và giấy trong túi, tiền bạc cũng
không, chẳng có bổng lộc gì, trái tim tan nát...
Nguồn: Sông Hương, Huế, số 46-1991
http://www.viet-studies.info
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét