Không có thực tại, thực tại đoì hỏi sự tìm kiếm và chinh
phục
Trich dịch từ Adieu au pòeme
của J-M Maulpoix - Khổng Đức
ThờiTrung
cổ, nhà thơ gọi là troubadour hay trouvère, nghĩa là người tìm kiếm
hay phát minh. Những người lãng mạn còn gọi nhà thơ là người được
lựa chọn, gả cảm hứng tiếp nhận từ thiên nhiên và mông mị thứ ngôn
ngữ phát minh phúc hạnh mà xưa dùng để
phân phát cho những thi thần.Đột ngột vì sự bất ngờ như sự
ước mong của Baudelaire, trở thành nhà sáng tạo bất tri như sự ước ao
của Rimbaud, “ để nguyên ở vị trí phát minh” như lời tuyên bố của
Apollinaire, đó là một trong những mẫu mã đặt thi ca bên cạnh những
thiên tài trời cho, đó là hiện tượng của tinh thông và của sự tiếp
thụ đăc biệt, không có nguyên nhân chính xác. Cái ân huệ của sự phát
minh ấy, lần này áp dụng cho vũ trụ ngoại tại, ngoài ra thiết lập
một trong những chủ đề thích thú cho tả tác thi tính mà nó thuộc
về sự đánh thức thiên nhiên, sự hiển hiện thình lình của một hình
ảnh yêu thương, hay đối tượng tìm
được , nơi những nhà siêu thực, nó ban cho những đặc quyền không dự tính trước, những
sát na ở đó quỉ đạo bình thường của cuộc đời đột ngột bừng nở đôi
cái thần kì.
Nhưng
nếu thi nhân là người phát minh, thì cũng là người tìm kiếm. Kì
quái, đôi khi một trong những nhà từ nguyên đưa ra từ “rime” không phải
là rythme là nhịp điệu, mà gốc la - tinh là rimare, có nghĩa là tìm
kiếm, quan sát chu đáo.
Baudelaire
từng viết về hội họa hiện đại :” Nó
đi, nó chạy, nó tìm kiếm. Nó tìm cái gì vậy? Nó tìm thi ca,
nếu không, thì nói như Henri Michaux, nó tiến đến gần vấn đề hiện
hữu. Thay vì ít đặt những câu hỏi về hiện hữu thì lại đặt vấn đề
về cơ hội, hoàn cảnh: Chúng ta đang ở đâu? Chúng ta là gì? Cũng như
Rilke tự hỏi trong khúc bi thương thứ
năm:” Chúng ta đang ở đâu, đây
là đâu ?”; hay Verlaine đang đối thoại với linh hồn và con tim; tình
cảm với giới hạn trong bài Romances sans paroles :
Linh hồn tôi nói với con tim : biết không
Tự thân tôi muốn bước vào cái bẩy ấy
Được hiện diện dù bị đày ải,
Cứ dấn thân vào hiểm nguy còn hơn là mãi mãi cách xa?
Trong cuộc hội thảo” tìm kiếm nơi
thơ hiện đại” năm 1936, Henri Michaux khẳng định rằng, trong thời đại
ông ta” thơ trở thành một phương pháp tìm kiếm…” Bởi vì thơ thường là
một đối tượng của ngôn ngữ khó khăn, một sự dũng cảm, một công việc
vĩ đại và biến hóa, đề xuất hay bắt buộc phải là sự cô đọng tối đa
của sự kiện ngôn ngữ tập trung trong một không gian thu hẹp. Nó là nơi
chốn ở đó luôn luôn phải học tập ngâm nga, ở đó thực hiện tụng đọc
chứ không phải chỉ nhắm vào kinh nghiệm.
Ít
ca hát hơn là tra hỏi, ít cảm hứng hơn là đặt vấn đề, thơ hiện đại
là bức dệt những ngôn từ trong sự rắc rối. Dựa vào sự chính xác
của hình ảnh, nó hé mở một ít ngôn ngữ trên sự dốt nát của ta.
Nhà thơ có thể nói, là người nhắc nhở ta, trong ngôn ngữ tươi sống,
thế giới không bị khống chế; là người mở lại cho chúng ta chiều sâu
trong không gian mà chúng ta cứ ngỡ là đóng kín. Người mời chúng ta
hãy lên đường trở lại, người ban lệnh đơn giản là chúng ta hiện hữu.
“ Còn gì nữa đây? Nếu không phải
là cách thế đặt vấn đề mà nó tự mệnh danh là thi ca.” Philippe
Jaccottet đã viết như vậy trong bài Yếu
tố của một giấc mơ. Ông ta lại còn minh họa mẫu mã ấy trong văn bản Từ ánh sáng mùa đông với
đầu đề là “ những bài hát” :
Hãy tìm
kiếm hơn là vất ra ngoài hay vì tôi không biết cử động sao, nhảy như thế nào hay là quên mất
không biết gọi là gì
Không tìm
kiếm , cũng chẳng phải phát minh”…
Chính
như thế là một thứ quay về cội nguồn, mà đặc tính hiện đại ban cho
chúng sự tham dự : Cảm hứng vừa rối được thần thánh che chở trở
thành tồn tại phức tạp nó lại che chở cho vấn đề. Khi mà thời gian
không còn long trọng, thì thi ca có thể là hình thức của sự căng
thẳng và chú ý của tinh thần, nó có thể kết hợp với cái đà và
vấn đề, duy trì sự sống động câu hỏi mang dữ kiện trử tình như nó
vừa ước muốn là tiếng hát.
Ước
mong sự tả tác rút ra từ ánh sáng; nó bừng sáng và hướng chúng về
phía ánh sáng đó. Tách ra khỏi những huyền thoại xưa cũ, rửa sạch
niềm tin và ảo ảnh. Không tối tăm và không u ám, nó nói năng rất đơn
giản và vẽ những đường nét sáng sủa bằng những phù hiệu tối tăm.
Trong một thiên khảo luận Martin Heidegger từng
khẳng định : “ nhà thơ là đằn đo”. Paul Claudel cũng định nghĩa: Thơ
là duy tri và đắn đo. Thật vậy, thơ là thứ ngôn ngữ của nhịp điệu,
nó bước từng bước dài trong cảnh sắc cư trú của con người, trong
khoảng giữa trời và đất. Sự sáng tạo là lấy cái gì thuộc về kích
thước của nó, và đo đạt cái gì qua nó. Nó quay lại nhìn về những sinh vật, những đối
tượng của thế giới gần nó, cũng như nhìn những khoảng vô hình xa xôi
hay hướng về khoảng cao xa xanh của
bầu trời. Đo lường cả hai nẻo, đó là công việc của nhà thơ mà lộ tuyến
quen thuộc cũng như nguy hiểm; bởi vì nó phải nói những điều bình
thường của cuộc đời, cũng như hướng về những miền cùng cực ở đó ý
nghĩa lạc lõng. Như thế là đóng góp vào việc xác định sự hiện hữu
con người mà các triết gia gọi là “kích thước”.
Hành trình của nhà thơ khác với hanh trình của
triết gia. Khi triết gia nhắm vào đối tượng để hoạch định những biên
giới, giới hạn thân phận con người, trước tiên nó gắn liền với phương
pháp mà đánh rơi những ảo ảnh. Khi nó đặt câu hỏi: Con người có thể
là gì? Thế là phải quay về với sự khẳng định là không có khả
năng.” Trong khi thi ca ngược lại là tiếp xúc với ảo ảnh, nó viết
cái gì bắt đầu gây ra sự nhiễu loạn, sự linh cảm, sự điều động, và
tạo ra chủ thể khủng hoảng:tình cảm, sự đam mê, cảm xúc…lý tính
không phải là vị thầy của nó.
Thi ca tìm sự hiểu biết xuyên qua sự cuồng
nhiệt. Nó hướng về ánh sáng, nhưng lại cư trú trong sự liên đới của
bóng tối. Đối tượng của nó không gắn chặt vào sự điều hành, cũng
không qui định những cõi bờ; nhưng
đúng hơn là biểu hiện xuyên qua những thứ lắc lư mà chúng ta phải
đứng thẳng. Cũng như một bức dệt của ý nghĩa, của những
cái tháp, và sự tìm kiếm. Bài thơ là nơi tìm kiếm, điều nghiên vừa
mang tính thế giới, vừa là ngôn ngữ và chủ thể. Lo lắng về điểm
tương giao giữa thiên nhiên và thời đại, nghiêng về mặt ngôn ngữ, nhà
thơ cuối mình trên thực tế, trên điều mà chúng ta đứng thẳng, lí trí
chúng ta tồn tại.
Thật vậy, với tôi dường như là trò chơi của sự
tìm kiếm, không gì hơn là lí tính hiện hữu. Cuối cùng với cách
nhìn của nó, bất cứ lí do nào, điểm xuất phát của nó ít hay nhiều
là hoàn cảnh; thi ca không nhắm vào cái gì hơn là đánh giá lại sự
sống (sống trong kinh nghiệm) những lí tính hiện hữu.
Bằng cách duy trì thực tại và lí tưởng đối
với cái này cái khác, bằng cách đối chiếu trên trục của thời gian
cái nó là, cái đã là, cái có thể hiện hữu, tạo thành cái tổng
số xác xuất có thể và không có thể, thơ là làm tăng thêm và đánh
giá lí lẽ sống của chúng ta. Nó phát triển một bên là giá trị. Nó
hướng về giá trị.
Làm thế nào để cho cuộc đời này bớt đi sự phi
lí, đó là điều người ta có thể đòì hỏi ở nhà thơ. Đừng có tô vẽ
một cách nhân tạo, đừng có lừa gạt chúng ta về chân lí của sự vật;
mà đúng hơn hãy chỉ cho chúng ta thứ bột hồ nào để chúng ta làm
được, và với bao nhiêu thì có thể đi vào giấc mơ và ước vọng trong
việc cấu tạo cuộc sống của chúng ta. Hãy giải thích cho chúng ta một
tiếng thôi trong cái nhìn của đám đông những điều kiện của hi vọng với
tình yêu. Hãy nói với chúng ta về cái thời gian sống và chết. Và
hãy cản ngăn chúng những cái gì mất mát, và cái gì chúng ta phải
quăng đi, cái gì chúng ta đang nghiến ngấu.
Chúng ta không chờ đợi gì hơn ở nhà thơ là phơi
trần toàn thể chân lý, không phải trừu tượng và tổng quát mà là cụ thể có cội nguồn. Và nhất
là nó tìm thấy ở đó sự đánh giá lại lí tính của sự sống chúng
ta.
Khổng Đức ( 7-2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét