VanVN.Net
- Bạn thơ và những người đọc yêu mến nhà thơ Đinh Hùng đều có chung
nhận xét: Đinh Hùng tạo được cho riêng ông một thi giới rất lạ, tựa như
một con suối chảy từ trữ tình đến tượng trưng sang siêu thực, mang theo
dòng những hình ảnh giàu có, một ngôn ngữ cá biệt và một tâm hồn lạ lùng
của miền núi rừng hoang vu, bí ẩn, nguyên sơ… Kỷ niệm 45 năm ngày mất
của ông (24/8/1967 – 24/8/2012), VanVN.Net xin đăng lại bài viết do tác
giả Đinh Hoài Ngọc, con trai nhà thơ chấp bút nhân dịp ngày giỗ cha
mình.
Chân dung nhà thơ Đinh Hùng
Đã 45 năm nhưng có những kỷ niệm vẫn như in trong đầu, tưởng chừng như vừa mới xảy ra…
Ngày ấy, bố tôi – thi sĩ Đinh Hùng –
luôn bận rộn với công việc, ban ngày thì đi thu thanh ở đài, rồi tiếp
xúc với các bạn thơ, văn. Bạn của bố tôi ngoài các nhà thơ, văn đã có
tiếng, còn có những cây bút trẻ, những “fan”, với tất cả ông đều ân cần,
cởi mở, đối xử như nhau và quán bar Thăng Long bên kia đường trước nhà
vẫn thường là điểm gặp gỡ, để bàn luận thi ca. Có hôm đến tối khuya mới
về đến nhà, ông lại tiếp tục làm việc: soạn bài phát thanh cho chương
trình Tao Đàn, làm thơ rồi viết tiểu thuyết dã sử và làm thơ trào phúng.
Ông thức gần như cả đêm cho đến tảng
sáng mới chợp mắt một chút. Rồi lại chuẩn bị cho công việc ban ngày. Mẹ
tôi cũng thức theo ông và là một người phục vụ tuyệt vời, pha café sữa,
trà thiết quan âm, nướng lại vài mẩu biscot... Bố tôi bị đau bao tử nên
không ăn được nhiều vì vậy mẹ tôi cứ phải lỉnh kỉnh cả đêm.
Ngoài ra bà còn là người góp ý cho những
tác phẩm của bố tôi. Có đêm chợt thức giấc tôi nghe tiếng đọc thơ của
bố xong, ông hỏi mẹ thấy có cần sửa gì không? Mẹ góp ý, rồi bố lại cắm
cúi viết...
Việc viết tiểu thuyết dã sử của bố tôi
làm cả nhà đều thích thú. Bố thường kể trước cho cả nhà nghe cốt truyện
sắp viết; ông kể say sưa từng chi tiết cho đến kết thúc. Hàng ngày bao
nhiêu người say mê theo dõi trên báo, nhưng ít ai biết được có nhiều
khi, ban đêm không viết kịp nên mãi đến trưa đi làm về, ông mới vội vã
viết, lúc đó ông viết say sưa, ngòi bút như lướt trên từng trang giấy
không ngừng, hình như lúc đó ông không cân suy nghĩ mà những ý tưởng
diễn biến cốt chuyện truyền thẳng từ đầu xuống tay và đưa nhanh nét bút
trải đầy trang giấy. Nhiều hôm trong khi ông viết, hai nhân viên tòa báo
ngồi trực bên ngoài, cứ xong được trang nào là họ vội vàng mang ngay về
tòa soạn để sắp chữ cho kịp in vào số báo phát hành ngay vào buổi chiều
hôm đó.
Dù rất bận rộn với công việc, bố tôi vẫn
là một người cha luôn quan tâm và chăm sóc con cái rất chu đáo. Mỗi
tuần, bố dành buổi tối thứ bảy và trọn ngày chủ nhật cho gia đình và
nhất là cho các con. Chiều thứ bảy, ở đài phát thanh về thể nào ông cũng
ghé qua Đa Kao, vào nhà sách mua sách báo của Pháp (đủ loại truyện
tranh như Spirou, Tintin, L’Intrépide, Mikey....), rồi bánh kẹo
và các món ăn được chúng tôi “đặt trước” từ trưa. Đến chập tối, tôi
dứng trên balcon chờ chiếc ta-xi dừng trước cửa và ông xuất hiện, tay
xách nách mang, thế là tôi chạy nhanh xuống đón.
Cũng có lần bố tôi có khách mời đi vào
tối thứ bảy, nhưng ông vẫn không quên những món quà cuối tuần cho các
con, tạt ngang về nhà đưa quà xong mới đi. Đến nay tôi cũng cố theo cái
nếp đó để thực hiện, tạo cho con tôi niềm vui vào cuối tuần như ngày xưa
mình từng được hưởng.
Ngày chủ nhật thì hoàn toàn thuộc về gia
đình, mẹ tôi thực hiện những món ăn đặc biệt, do bố tôi chỉ cho mẹ làm.
Ngoài tài làm thơ, ông còn có “tài hướng dẫn nấu ăn”. Gọi là đặc biệt
vì đây là những món ăn lạ, sau khi thưởng thức bữa tiệc nào đó, bố tôi
mô tả lại với đầy đủ chi tiết (các gia vị, các nguyên liệu thực phẩm cần
có) để mẹ đi chợ mua về và khi làm món ăn thì bố tôi đứng cạnh để nhận
xét và góp ý xem món ăn đã đạt chưa. Tôi cho rằng “hướng dẫn người khác
nấu ăn” bằng cách mô tả lại món ăn mà mình đã thưởng thức thì không phải
là chuyện dễ!
Sau khi ăn uống xong, cả nhà quây quần
lại để nghe bố tôi kể chuyện theo truyện tranh (mua tối thứ bảy). Tôi
học chương trình Pháp, nên đọc truyện cũng hiểu nhưng vẫn thích nghe ông
kể lại hơn vì bố tôi dựa theo lời truyện kết hợp với tranh vẽ để kể
thành một câu chuyện liền mạch với đầy đủ tình tiết, nếu không xem tranh
cũng vẫn thích thú không kém.
Đầu thập niên 60, phong trào nhạc bắt
đầu rộ lên, đi đâu cũng nghe người ta mở nhạc Silvie Vartan, Adamo,
Christophe, The Beatles..., tôi cũng rất mê nhạc và cũng tập tành làm
thơ, nhưng ngọn lửa văn nghệ trong tôi vừa mới nhen nhúm đã bị bố tôi
dập tắt “không thương tiếc”! Thơ thì sau khi làm được vài đoạn, chưa tự
nhận biết hay dở, tôi đưa ông xem có ý nhờ bố sửa, liền bị ông sẵn bút
trên tay gạch chéo ngay và vò lại. Còn nhạc thì cũng bi đát không kém.
Tôi được ông bác cho một cây đàn mandiline, nhưng bố tôi không những
không dạy đàn mà còn cấm không cho đụng đến.
Ông nói: “... Không muốn các con dính
dấp vào văn nghệ, thơ nhạc gì hết, sẽ khổ đời(!) Phải cố gắng có nghề
nghiệp vững chắc...” Bố tôi không muốn con mình đi theo con đường của
ông. Đi theo con đường trải thảm hoa nhưng bên cạnh là cái nghèo luôn
theo đuổi.
Là nhà thơ trọn vẹn sống và chết với
thơ, ngay cả vào những lúc vinh quang nhất bố tôi vẫn thật nghèo, nghèo
nhưng không bao giờ khổ, vì nguồn vui và niềm hạnh phúc của ông là những
nguồn thi ca không bao giờ cạn.
Đã có lần bố tôi bị bệnh nặng, bác sĩ
Tụng - là bác sĩ của gia đình - điều trị đến khi hết bệnh, đã khuyên ông
nên đổi nghề: làm công chức hay đi dạy học, vì nếu cứ tiếp tục “vắt tim
gan ra” thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng, nhưng bố tôi nói nếu để được
sống lâu mà phải ngừng không được sáng tác nữa thì có khác gì đã chết!
Nếu như vậy thì sống lâu làm gì, sáng tác tức là đã rồi và sự sống đó
mới lá bất tử.
Ngay cả vào những quãng thời gian cuối
đời vẫn say mê với đứa con tinh thần: Tờ tuần báo Tao Đàn Thi nhân số
đầu được ra mắt bằng tất cả sự chau chuốt của ông. Rồi ông phải vào bệnh
viện, nhưng vẫn không quên lo cho tờ báo, những chương trình thơ nhạc
trên đài phát thanh...
Trên giường bệnh, ông vẫn tiếp tục lo
bài vở cho số 2 tờ Tao Đàn Thi Nhân. Một số thân hữu hàng ngày ra vào
“tòa soạn” đặt tại...bệnh viện Bình Dân, để phụ ông sắp đặt bài vở. Và
trước khi bố tôi ra đi vĩnh viễn, tờ Tao Đàn Thi Nhân đã ra được số 2,
ông đã có được tờ báo số 2 bằng tất cả nghị lực trong khi cơn bệnh hoành
hành ngày càng dữ dội.
Vài ngày sau, bố tôi ra đi thật thanh
thản. Trước lúc mất, ông nằm vắt chân chữ ngũ và ngủ, mẹ và tôi mỗi
người một bên, phẩy quạt nhè nhẹ, tôi khẽ nhắc chân ông đặt thẳng xuống
cho đỡ mỏi. Bố tôi vẫn nằm ngủ yên thật lâu, hơi thở nhẹ dần. Bỗng dưng
cả mẹ và tôi đều hoảng hốt ghé sát vào mặt ông, và ông đã nhắm mắt đi
vào cơn trường mộng, lúc đó đúng 5 giờ sáng ngày 24.8.1967, để lại niềm
đau xót cho gia đình và nỗi tiếc thương cho nền thi ca...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét