Diễn Đàn
(Paris)
8-4-13
Hoài cố nhân
Võ Hồng
(1923-2013)
Đặng Tiến
Nhà văn Võ Hồng vừa qua đời ngày
31-3-2013 tại Nha Trang ở tuổi 90, xem
tiểu sử
diendan.org, là một trường
hợp đặc biệt trong hiện tình văn học
Việt Nam. Sau tập truyện đầu tay Hoài
cố nhân, in 1959, qua nửa thế kỷ cầm
bút, ông đã để lại cho đời hơn ba mươi
tác phẩm : truyện ngắn, truyện dài, thơ
và nhiều bài biên khảo rải rác trên báo,
chủ yếu viết trước 1975 tại miền Nam,
thời Việt Nam Cộng Hòa. Qua cái cầu
1975, ông ở lại Việt Nam, vẫn ở Nha
Trang, vẫn tiếp tục viết, dù chỉ lai
rai, có khi dưới những bút hiệu khác. Và
có thêm khoảng 15 đầu sách, vài ba cuốn
tái bản : Gió cuốn, nxb Lá Bối,
1968, nxb. Long An 1989 ; Nhánh rong
phiêu bạt, nxb. Lá Bối 1970, nxb.
Nha Trang 1989 ; một số tên sách mới,
nhưng in những bài viết trước 1975 như
Thiên đường ở trên cao, Nghĩa
Bình, 1987, Trong vùng rêu im
lặng, Nha Trang 1988. Một ít
tác phẩm như Chúng tôi có mặt,
nxb. Tp HCMinh, 2001, tập truyện giả
tưởng viết sau này. Đặc biệt có tập tùy
bút Một bông hồng cho cha, được
nhà Văn Nghệ trong nước, in 1994, và nhà
An Tiêm ở Paris in lại sau đó. Đồng
thời, nhiều tác phẩm Võ Hồng được nhà
Văn Nghệ ở Hoa Kỳ tái bản, như Trầm
mặc cây rừng, 1986, Hoa bươm bướm,
1988, Như cánh chim bay, như vậy
người đọc có thể nói : về mặt dư luận Võ
Hồng đã đạt một mức đồng thuận nào đó,
rất hiếm có trong một đất nước ly tán,
mà văn học nghệ thuật là một địa hạt
nhạy cảm.
Giới cầm bút có ít nhiều tên tuổi tại
Sài gòn trước 1975 hoàn toàn phân hóa :
một số ít, rất ít tác giả hợp tác với
chính quyền mới (và được chính quyền đó
chấp nhận) thường là cán bộ nằm vùng
trước kia, đặc biệt là trường hợp Vũ
Hạnh ; một số bị bắt giữ, hay bị xếp vào
hàng ngũ đồi trụy, biệt kích, bị cấm in
ấn ; một số người ngưng viết vì bất hợp
tác, hay viết rồi chuyển sáng tác ra phổ
biến ở nước ngoài ; có người chấp nhận
thỏa hiệp, viết cầm chừng, không va
chạm, không xu phụ nên được dư luận chấp
thuận (đến mức độ nào đó), như trường
hợp Võ Hồng. Dĩ nhiên là cũng có lời ong
tiếng ve, như khi ông gia nhập Hội Nhà
Văn, 1977.
Võ
Phiến, bạn thân thiết cũ, đồng hương,
đồng cảnh ngộ thời 1945- 1954, khi viết
về Võ Hồng, 1995, trong bộ Văn Học Miền
Nam 1, không mấy
đậm đà, thậm chí còn gay gắt. Nhưng nói
chung là giới văn nghệ tiếp cận Võ Hồng
một cách ôn hòa, công bình hơn, đặc biệt
có Nguyễn Lệ Uyên trong một bài viết
nghiêm túc từ Tuy Hòa trên tạp chí Thư
Quán Bản Thảo, xuất bản tại Mỹ, trong số
đặc biệt về Võ Hồng vô cùng ưu ái
2.
*
*
*
Hoàn cảnh đặc biệt này có những lý do
liên quan đến lối sống và lối viết của
Võ Hồng. Tại Miền Nam, ông nổi bật vào
giữa thập niên 1960, nhất là khi nhà Lá
Bối ào ạt xuất bản nhiều tác phẩm, nhưng
không phải là tác giả ăn khách, thời
thượng ; bằng cớ là trong các tuyển tập
truyện ngắn – được xem như là tiêu biểu
cho tinh hoa lúc đó – không có tên Võ
Hồng, kể cả tuyển tập Ảo Mộng do
nhà Lá Bối thân thiết ấn hành 1966.
Lý
do chính là : truyện Võ Hồng không nằm
trong những dòng cuồng lưu của thời
thượng, không đáp ứng thị hiếu độc giả
trẻ. Chỉ luận về kỹ thuật thôi : kết cấu
không hấp dẫn, tình tiết không éo le,
cốt chuyện thàng thàng, ai ai cũng có
thể trải nghiệm qua mà không vướng bận.
Nhân vật thì thường thụ động, chậm chạp,
không phát huy sáng kiến, thậm chí không
kịp thời phản ứng. Họ chỉ ngồi im, ước
mơ rồi tiếc rẻ. Không có cá tính rõ nét.
Võ Hồng kể chuyện kháng chiến, từ thời
Nhật thuộc đến hết thời Pháp thuộc, mà
ông đã trải qua. Nhưng như khách bàng
quan, không dấn thân mà cũng không phê
phán. Trong khi thời đại chờ đợi, đòi
hỏi một lập trường, một quan điểm. Khi
ra số báo Thư Quán Bản Thảo đặc biệt về
Võ Hồng, nhà văn Trần Hoài Thư đã viết
ngay dòng đầu « thành thật mà
nói, hồi ấy, trước 1975, tác phẩm của Võ
Hồng ít để lại ấn tượng sâu đậm trong
tâm trí của tôi… Bởi vì tác phẩm vủa Võ
Hồng ít đề cập thẳng về chiến tranh và
những suy nghĩ thao thức của một thế hệ… ».
Tuy vậy, trong một chuyến xuất viện sau
khi bị thương lần thứ hai tại mặt trận
Bình Định, người lính trinh sát Trần
Hoài Thư, năm 1969 đã đến thăm Võ Hồng
tại Nha Trang và có bài phỏng vấn, đăng
ở báo Văn thời đó3.
Thái độ Võ Hồng dửng dưng, vô tích sự
như thế là việc lạ, vì đồng hương Khu
Năm với ông phần đông là những người có
ý chí, lập trường, động cơ chính trị
mạnh mẽ, thậm chí quá khích, không chống
bên này thì chống bên kia. Thái độ ngoại
cuộc của ông không được lòng cả hai phe
đương chiến, cả độc giả dấn thân, nhưng
ngày nay, lại là chứng từ khách quan quý
hiếm. Điều này giải thích địa vị của Võ
Hồng trước và sau 1975.
Địa lý văn truyện của Võ Hồng là quê
ông, từ Phú Yên lên Đà Lạt, xuống Nha
Trang. Nhất là Nha Trang. Một vùng đất
ít màu sắc văn học, ít hấp dẫn người
đọc. Nhân sự là những con người thật
trong việc thật, không được dàn dựng
thành biểu tượng, như anh Bốn Thôi hay
ông Năm Tản trong Võ Phiến cùng quê. Đặc
biệt là ngôn ngữ đúng với lời ăn tiếng
nói địa phương. Ví dụ mẩu đối thoại
trong Trầm mặc cây rừng với một
cô gái đang gánh đọt mía :
«
- mùa này sắp trồng mía rồi sao ?
« - Dạ không. Em đi này ngọn để
dặm vào vạt mía bị rầy áp ».
Không phải độc giả nào cũng hiểu và
thưởng thức từ vựng như thế.
Nói chung, hành văn Võ Hồng đơn giản, tự
nhiên, ít có những câu màu mè, trau
chuốt, trừ …cái tựa đề, kiểu Hoài cố
nhân, Hoa bươm bướm, Nhánh
rong phiêu bạt,
Thơm ngát hương cau… Nhiều độc
giả bị Gió cuốn vào những tiêu
đề. Rồi hụt hẫng (Hoài cố nhân là
những chữ Hán khắc trên một con dấu ;
Hoa bươm bướm là tên một loài cỏ
dại, v.v…).
Võ
Hồng là người học rộng, sành tiếng Pháp,
nhưng không mấy chịu ảnh hưởng các trào
lưu thế giới đang thịnh hành. Ông rất
thân với Phạm Công Thiện : người bạn
vong niên này liên miên đề xuất các tác
giả bốn bể năm châu, thì Võ Hồng chỉ
nghiền ngẫm một cuốn Clémentine
của Anatole France. Thời gian này, sách
báo ngoại quốc tràn ngập trên thị trường
miền Nam, thời thượng là những Sartre,
Malraux, Bùi Giáng dịch Camus, Võ Phiến
dịch Stefan Zweig, Dostoievski, Nguyễn
Hiến Lê dịch Somerset Maugham. Riêng Võ
Hồng là con thuyền cắm sào ngoài dòng
thời đại.
Cùng một nghề dạy học, nhưng Võ Hồng có
chút gì lạc lõng so với các đồng nghiệp
Doãn Quốc Sỹ, hay Nhật Tiến, ba nhà văn
nổi tiếng là nhà giáo hiền lành…
Ở
đây, chúng tôi chỉ so sánh những cái có
thể so sánh được, chứ không đặt Võ Hồng
vào toàn cảnh Văn Học Miền Nam. Nhiều
nhà giáo viết văn, nhưng Thanh Tâm Tuyền
không viết văn trong tư cách nhà giáo,
ngược lại với Võ Hồng. Tác giả Hoài
cố nhân luôn luôn tề chỉnh, đạo mạo.
Văn phong mô phạm có khi làm trở ngại
cho danh vọng văn học.
*
*
*
Viết văn, khởi đầu thường là sở thích,
lâu dần trở thành nhu cầu. Khi tác phẩm
có độc giả, sáng tác trở thành một nghĩa
vụ. Đây là trường hợp Võ Hồng viết văn
để « trả hiếu » với quê hương như
lời ông tự sự. Quê hương gồm có vùng đất
đai Nam Trung Bộ khốn khó, những con
người trầm luân, những biến cố đa đoan,
là tình yêu, là ám ảnh, là nguồn cảm
hứng – đồng thời là nghĩa vụ cho Võ
Hồng. Ông trả lời phỏng vấn năm 1972
« nếp sống quê tôi chưa hề được
một nhà văn nào nhắc đến. Những nếp sống
cũ xóa đi. Tôi nghĩ rằng nếu tôi dâng
trọn cả cuộc đời của tôi để dựng lại cái
dĩ vãng đó vẫn còn chưa đủ » (báo
Văn, Sài Gòn, số 299).
Dâng trọn cả cuộc đời cho quê hương :
một lý tưởng như thế, không cao quý
sao ? Và non nửa thế kỷ sau, từ nước
ngoài, Trần Hoài Thư, « nhà văn trẻ »
năm nay cũng đã cổ lai hy, năm 2005,
đánh giá tổng kết « tác phẩm ông
trước sau vẫn ca tụng tình yêu chung
thủy, tình yêu quê hương, cái đẹp của
tâm hồn, cổ súy đạo nghĩa, ca ngợi và
mang lại niềm tự hào của thế hệ ông
trong thời kỳ chống Pháp, không kích
động hận thù, không xúi dục kẻ khác lao
đầu vào cõi chết » (tr.52).
Do
đó, anh đã ra một số báo ưu ái, nghiêm
túc cho Võ Hồng, và nhận được sự ủng hộ,
hợp tác với nhiều người trong và ngoài
nước, nhiều thế hệ khác nhau « Những
tư liệu, hình ảnh cung cấp quá nhiều, đủ
biết là tình thương mến của những người
thuộc thế hệ đàn em của ông dành cho ông
là to lớn đến chừng nào. Và chính những
anh em cầm bút cũ ở trong nước đã đề
nghị chúng tôi làm số chủ đề này »
(tr.49)
4.
Vì
vậy, chúng tôi đã cho rằng, trong hiện
tình văn nghệ bị phân hóa ngày nay,
trường hợp Võ Hồng là một biệt lệ hy
hữu. Nó chứng tỏ trong văn học, đâu đây,
đâu đó, vẫn còn le lói một tia sáng đạo
lý. Nó là niềm tin cậy.
Võ
Hồng quê quán Tuy An thuộc tỉnh Phú Yên.
Thiết tha với địa phương quê nhà như vậy
mà Võ Hồng ít khi về. Trước 1975 ông có
đôi lần về thăm. Sau đó, đất nước thống
nhất, an bình nhưng ông chưa một lần về
cố quận, cách Nha Trang chỉ khoảng 125
km.
Thế mới hay : quê hương là chút nghĩa cũ
càng, là những hình bóng phôi pha, là
Nhánh rong phiêu bạt trong hoài
niệm.
Ba
mươi năm xa Tuy An : thời gian dài gấp
đôi kiếp Thúy Kiều lưu lạc.
Tuy An, Tuy An, Võ Hồng chưa một lần về
lại Tuy An.
Đặng Tiến
Orléans, 6-4-2013
1 Võ Phiến,
Văn Học Miền Nam, Truyện, tập 3,
tr.1718, nxb Văn Nghệ, California,
1999
2 Nguyễn Lệ Uyên,
Võ Hồng nhân cách và chữ nghĩa,
tạp chí Thư Quán Bản Thảo, số
21, tháng 10-2005, New Jersey, Hoa
Kỳ. In lại đổi tên Võ Hồng, người
luôn nặng lòng với quê hương,
trong Trang sách và những giấc mơ
bay, tr. 5-18, nxb Thư Ấn Quán,
New Jersey, 2010. Diễn Đàn đăng lại
tại đây.
3 Thư Quán Bản Thảo, báo đã
dẫn, có đăng lại nguyên văn bài
phỏng vấn này, cùng với nhiều chứng
từ quý hiếm. Báo in ra để tặng bạn
đọc, hỏi nơi địa chỉ
tranhoaithu@yahoo.com
4 Thư Quán Bản Thảo, báo đã dẫn
Nguồn : http://viet-studies.info
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét