Chùa tọa lạc trên một khu đồi núi thấp khá bằng phẳng, phía trước cổng
chùa là một khu đồi thông xanh mát, bên cạnh có một con suối nhỏ trong
vắt quanh năm nước chảy tạo cho nơi đây phong cảnh trầm mặc, thanh tịnh
đậm chất chốn thiền môn.
Hồ bán nguyệt sau cổng tam quan của chùa.
Bước qua cổng tam quan của chùa là một hồ bán nguyệt nước trong vắt
phản chiếu bóng hình rêu phong cổ kính cùng từng đàn cá to tung tăng bơi
lội... Tất cả, tạo nên một bức tranh phong thủy rất đỗi hữu tình.
Ngoài lịch sử lâu đời cùng với kiến trúc độc đáo mang đậm nét đặc trưng
của vùng đất cố đô, chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng khắp trong ngoài nước
bởi nơi đây còn có một nghĩa trang độc nhất vô nhị - nơi chôn cất các
quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa.
Nằm cách chính điện khoảng 50m về phía bên trái của chùa Từ Hiếu chính
là khu mộ địa của các quan thái giám với hơn 20 ngôi mộ được chia thành 3
dãy rõ rệt, phía trên mỗi bia mộ đều có khắc tên tuổi, quên quán, pháp
danh, chức vụ và ngày mất của từng vị thái giám. Hằng năm, cứ đến ngày
rằm tháng 11 âm lịch, nhà chùa lại đứng ra tổ chức ngày giỗ chung để
tưởng nhớ đến công đức những người đã mất, trong đó có các quan thái
giám triều Nguyễn có phần công đức tại chùa.
Phần mộ của những vị quan thái giám triều Nguyễn năm xưa được chôn cất trong khu “nghĩa trang thái giám” nằm trong khuôn viên chùa Từ Hiếu.
Tiền thân của chùa Từ Hiếu là An Dưỡng Am được xây dựng do nhà sư Nhất
Định - là một vị tăng uyên bác, thông tuệ nội điển được cả triều đình
Huế kính nể lập lên từ khoảng đầu thế kỷ XIX để làm nơi tịnh tu. Đến năm
1843, dưới thời vua Thiệu Trị, quan thái giám Châu Phước Năng do ý thức
và lo lắng rằng sau này khi mình nằm xuống do không có con nối dõi, bát
hương sẽ nguội lạnh trong những ngày cúng giỗ nên đã đứng ra quyên tiền
góp của để trùng tu xây dựng An Dưỡng Am thành một ngôi chùa khang
trang với mong muốn sau này làm nơi yên nghỉ, hương khói.
Về sau, An Dưỡng Am được vua Tự Đức sắc phong “Sắc tứ Từ Hiếu Tự”, từ
đó chùa chính thức có tên là Từ Hiếu và tất cả những thái giám trong
triều Nguyễn có phần công đức tại chùa sau khi mất đều sẽ được nhà chùa
mai táng, chôn cất và hương khói tại chùa trong những ngày cúng giỗ.
Cũng chính vì lẽ đó nên ngoài tên gọi Từ Hiếu, chùa còn có các tên gọi
khác như “chùa Thái giám” hay “chùa Hoạn quan”.
Chùa Từ Hiếu hiện nay là một điểm đến hấp dẫn của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. (Ảnh tư liệu)
Trong chùa, một trong những nơi thờ tự trang trọng nhất chính là án thờ
của Tả quân Lê Văn Duyệt (1763 - 1832) - một trong những vị tướng quân
xuất sắc dưới thời vua Gia Long lập quốc. Ông không chỉ là một thái giám
mà còn là một nhà quân sự tài ba, một nhà chính trị xuất chúng. Chỉ vì
lòng ghen ghét, đố kỵ mà ông bị kết tội oan và bị san phẳng mộ dưới thời
vua Minh Mạng (1820 - 1841). Mãi đến đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847),
ông mới được minh oan và được xây dựng lại mộ phần.
Sau này, cùng với Thái úy Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) đồng thời cũng
là một thái giám, Lê Văn Duyệt được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ và
được xem là một trong những bậc tiền hiền có công với đất nước, dân tộc.
Giờ mỗi khi đến Huế, sau khi đã dạo bước tham quan những lăng tẩm, đền
đài, dạo chơi trên sông Hương núi Ngự, không ít du khách tìm đến tham
quan chùa Từ Hiếu - nơi vẫn còn lưu dấu những nét kiến trúc đặc sắc của
đất cố đô xưa. Một chút lắng lòng và cũng để hiểu hơn thân thế, phận đời
của những vị thái giám từng phục vụ trong cung cấm năm xưa.
Bài và ảnh: Hồng Trần (Tuổi trẻ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét