(Thethaovanhoa.vn) -
Đến hôm nay, trên nhiều phương tiện truyền thông vẫn còn tranh luận đầy
mâu thuẫn về việc Trung Quốc mới đây đã ban hành Luật Đạo hiếu. Bằng
cái nhìn của một nhà nghiên cứu văn hoá, Nguyễn Tiến Văn lần giở lại
nguồn cội văn hóa và thiết chế xã hội của đạo luật này.
“Đạo
hiếu là viên đá tảng để khởi đầu cho việc tái thiết học thuyết Khổng
Tử. Xây dựng viên đá tảng này là để xác định bản sắc của văn minh văn
hóa Trung Quốc. Bên cạnh đó, nước này đang triển khai một đại sách lược
để đưa 250 triệu dân nông thôn ra thành thị để biến cải nền kinh tế nông
nghiệp sang công nghiệp, với hi vọng sau 20 năm sẽ bước lên địa vị số 1
thế giới”, Nguyễn Tiến Văn mở đầu câu chuyện.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn
Nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn
* Nhìn từ khía cạnh văn hóa, theo ông Luật Đạo hiếu có bắt nguồn từ các quan niệm xa xưa hay không?
-
Theo tôi nghĩ, Đạo hiếu luật ra ngày 1/7 xét về cội nguồn có thể tiếp
nối di sản “trung hiếu tiết nghĩa” của Trung Quốc từ hơn 2.000 năm nay,
nếu tính từ thời Khổng Tử là người khởi đầu việc mở trường tư thục.
Đạo hiếu bắt nguồn từ Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ và nhất là từ lời của Khổng Tử cho người học trò nổi tiếng về phụng dưỡng là Tăng Sâm. Tuy nhiên, văn bản Hiếu kinh
gồm 1.799 chữ, chia ra 18 thiên, là do các nhà hậu học khoảng 200 năm
về sau soạn ra. Sách này đến năm 743, đời Đường, được chính Huyền Tông
(Đường Minh Hoàng)“ngự
chế” (chú giải). Sau, Chu Hi (1130-1200) đời Tống càng tôn sùng, nên
san định và chú giải thêm để dùng làm sách giáo khoa khắp thiên hạ.
* Qua thời gian nó vẫn như vậy?
-
Trong 25 thế kỷ đạo Nho như một triết lý và một lối sống, thì đã có
khác biệt và khoảng cách với hệ thống tư tưởng dùng trong việc cai trị
và bành trướng thế lực văn hóa của đế quốc, bắt đầu từ triều đại Hán Cao
Tổ (Lưu Bang).
Người
hệ thống hóa Nho học thành giáo điều gò bó và phản dân chủ là Đổng
Trọng Thư (179 TCN - 117 TCN), với sách lược “bãi bỏ bách gia, độc tôn
Nho học”. Từ đó trở đi, lịch sử ghi nhận mọi thời kỳ, mọi triều đại đều
có những thịnh suy của Nho học do mâu thuẫn xung đột giữa nỗ lực hướng
về chân lý, tự do, dân chủ, nhân bản của trí thức về nhân dân với mưu
toan kiềm chế để củng cố quyền lực và đàn áp xã hội của triều đình phong
kiến.
Trong chương Khai tông minh nghĩa, Hiếu kinh
viết: Hiếu là gốc của đạo đức vậy. Hiếu, bắt đầu là thờ cha mẹ, sau là
thờ vua, cuối cùng là lập thân. Do kinh này dạy thần dần làm điều
“hiếu”, từ đó mà khuyên dạy “lòng trung”, còn việc lập thân xếp xuống
cuối cùng, cho nên, được giới thống trị coi trọng hàng đầu, từ đời Đông
Hán đã được xếp vào loại kinh bắt buộc sĩ tử phải học.
* Khách quan nhận xét, những sách như Hiếu kinh, Thập nhị tứ hiếu… có gì hay? Có gì hạn chế?
-
Tích cực là giúp củng cố không những gia đình hạt nhân mà còn cả chế độ
đại gia đình trong một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và tự cung tự
cấp. Nơi mà xã hội không có chính sách phúc lợi cho toàn thể người dân
và an sinh về thất nghiệp, y tế, dưỡng lão, bảo hiểm… Khi đó, con cái là
nguồn lao động cho gia đình, là sự bảo hiểm cho cha mẹ lúc tuổi già.
Tất cả tạo ra một hình ảnh thắm thiết về tình người, trong một cộng đồng
xã thôn nghèo khó nhưng ổn định về tâm tư, nơi cá nhân không được xác
định như là giá trị trước những thiết chế to hơn là nhà, làng và nước.
Chất
gắn bó của những tổ chức này này là gia phong (nếp nhà), hương ước (lệ
làng) và quốc pháp (phép nước). Tất cả đều xây dựng trên hòn đá tảng là
chữ hiếu, tức là sự vâng lời từ lúc bé dại (Dạy con từ thuở còn thơ/ Dạy vợ tức lúc bơ vơ mới về).
Đây là sự cưỡng chế - vừa bằng sức mạnh của người lớn, ưu thế của hiểu
biết và kinh nghiệm, vừa bằng tình cảm của máu mủ, thân thiết - nên
thường dễ in dấu và hiệu quả cho đến tuổi trưởng thành, thậm chí suốt
đời đối với nhiều người.
Mặt
tiêu cực là bẻ gãy sự tự chủ và độc lập cá nhân, đề cao truyền thống và
cội rễ, nên hạn chế cách tân, sáng tạo, phiêu lưu, khám phá… Bảo thủ
quá khứ khiến tương lai bị hạn chế. Đặc biệt, Nhị thập tứ hiếu diễn ca
chỉ lặp lại sự tôn sùng và cường điệu chữ hiếu một cách mù quáng, phản
khoa học. Ở đây coi con cái như vật sở hữu của cha mẹ (nhất là của người
cha trong chế độ phụ quyền, trọng nam khinh nữ), biến đứa con thành nô
lệ, không có quyền sở hữu trên chính thân thể của mình. Người con chỉ
biết hi sinh bản ngã để phục vụ, ngay cả những sở thích thất thường của
chủ nó, là phụ huynh.
* Trong truyện nêu gương Nhị thập tứ hiếu, theo anh số truyện về ứng xử không lành mạnh là bao nhiêu?
-
Nếu phân tích 24 gương hiếu trong tác phẩm vừa kể - đều lấy trong sử
Trung Quốc, và Lý Văn Phức cũng là người gốc Minh Hương - chúng ta thấy
có khoảng 8 truyện dựa vào những yếu tố huyễn hoặc, phi lý, đậm màu sắc
thần bí và mê tín (như các truyện số 5, 9, 16, 17, 18, 19, 20 và 21).
Cực đoan và phi nhân nhất là truyện số 9, khi hai vợ chồng toan chôn
sống đứa con bẻ bỏng để lo nuôi mẹ già, nhưng khi đào đất chôn con thì
tìm được hũ vàng.
Tất
nhiên những truyện này dựa vào triết lý “thiên nhân tương ứng/ vạn vật
đồng nhất thể”, nên yếu tố huyền thoại và huyền ảo là bình thường, nó có
sức hấp dẫn với tuổi mới lớn. Thế nhưng, việc đưa những truyện này
thành kinh sử và sắp xếp theo biên niên từ đời huyền sử Nghiêu, Thuấn
cho đến đời Đường, Tống, rồi nhồi sọ cho lớp trẻ, trước khi chúng hình
thành trí phán đoán, là có tác hại dài lâu. Điều đáng trách nhất: luận
lý được giảng theo cách tuyệt đối áp đặt một chiều, chỉ nói đến bổn phận
của con cái, mà không đề cập đến nghĩa vụ của cha mẹ. Ngay cả trong
những trường hợp cha mẹ ác độc hay phi lý thì con cái cũng chỉ biết vâng
lời. Đây là khiếm khuyết nặng về tính nhân bản và tính dân chủ.
“Chữ
hiếu nguyên gốc chiết tự ra là chữ “lão” (người già), kết hợp với chữ
“tử” (con trai). Hiểu có 3 nghĩa căn bản: 1) đối xử tốt với cha mẹ; 2)
noi theo chí hướng của tổ tiên; và 3) giữ tang lễ cho đúng cách”.
|
-
Không kể những thăng trầm trong lịch sử, riêng thế kỷ 20, Khổng Tử và
Nho giáo đã 2 lần bị bài xích, đả phá triệt để, rồi cũng 2 lần được khôi
phục, đề cao tại Trung Quốc. Tất cả đều vì những nguyên nhân chính trị.
Về
sách lược văn hóa, Trung Quốc cần một biểu tượng để đoàn kết dân tộc và
xuất khẩu văn minh ra thế giới, sau khi bình thường ngoại giao với Mỹ
vào năm 1978, bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, và Liên Xô tan rã năm
1991. Từ năm 2000, Trung Quốc tích cực vận động thành lập các trung tâm
và/hoặc hội nghiên cứu Khổng học, đầu tiên ở Đông Nam Á, nơi Hoa kiều
rất đông (hơn 75 triệu người) và rất có thế lực về kinh tế, xã hội. Sau
đó là các nước Tây phương qua chính sách giao lưu văn hóa đa dạng, song
song với mậu dịch và ngoại giao toàn cầu trong vị thế của nước đứng nhì
về kinh tế.
Đạo
hiếu luật vừa lo chấn chỉnh đạo đức xã hội bị xói mòn, vừa chuẩn bị cho
gánh nặng an sinh xã hội. Bởi một thế hệ nữa là Trung Quốc bước vào chu
kỳ lão hóa dân số, thật khó lo nổi phúc lợi cho hàng mấy trăm triệu
người già hết sức và hết tuổi lao động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét