Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

THẦN TỨ - Tiểu luận của Khổng Đức



Thần tứ là một khái niệm quan trọng  trong tư tưởng văn nghệ của Trung quốc cổ đại, được hình thành vào thời Lục triều với tác phẩm Văn Tâm Điêu Long của Lưu Hiệp, ông dành một thiên để thảo luận về vấn đề Thần tứ. Vào đề của thiên này, Lưu Hiệp mượn ngay lời của Trang Tử :”Hình tại giang hải chi thượng, tâm tồn Ngụy khuyết chi hạ”. Nghĩa là : Hình hài có thể ở trên sông trên biển, nhưng tâm hồn lại gởi ở nơi cung khuyết; dùng để làm sáng tỏ ý nghĩa của Thần Tứ. Tức là nhân tâm có thể đột phá sự giới hạn của cảnh vật ở trước mắt mà vượt đến một cảnh giới xa xôi hơn; nên ở trong ý tứ của văn, cái thần của nó rất cao xa ( văn chi tứ dã, kỳ thần viễn hỉ). Nói chung, trong việc cấu tứ để sáng tạo nghệ thuật, tác gia nghệ thuật gia không phải nô lệ với cảnh vật ở trước mắt, đó là Thần tứ, chúng ta hảy đọc thêm một đoạn trong VTĐL cho rõ hơn ; …cố tư lý vi diệu, thần dữ vật du.
Phù thần tứ phương viễn, vạn đồ cánh minh, quy cũ hư vị, khắc lũ vô hình, đăng sơn tắc tình mãn ư sơn, quán hải tắc ý dật vu hải, ngã tài chi đa thiểu tương dữ phong vân nhi tịnh ngự hỉ. Nghĩa là: nguyên lý của sự tưởng tượng trở thành vi diệu, vì tinh thần như cùng với sự vật rong chơi. Khi mà trí tưởng tượng hoạt động, hàng vạn cảnh tượng xô đẩy nhau hiện ra trước mắt ta. Lúc bấy giờ những quy tắc hướng dẫn trở thành vô vị, tác gia thả mình trôi theo đà lôi kéo của trí tưởng tượng; nên khi ngao du ở núi thì tình cảm tràn ngập hình ảnh của núi non, nếu đến biển thì ý tưởng tràn đầy cảnh biển nước bao la. Tài năng của ta có được bao nhiêu thì cứ theo mây gió mà du nhập vào cảnh trí đó.
Theo ý chúng tôi, toàn thiên giảng về Thần tứ, chỉ có mấy câu vừa nêu là tinh xác và thích đáng nhất. Cái gọi là Thần tứ, thông thường người ta hay giảng giải đó là nghệ thuật tưởng tượng. Nhưng giữa sự tưởng tượng nghệ thuật với tưởng tượng thông thường khác nhau; sự tưởng tượng thông thường mỗi khi phát huy ra hình thành một thứ “liên tưởng”, là từ sự vật này nghĩ đến sự vật khác. Thứ liên tưởng ấy chung quy vẫn dừng lại ở sự vật cụ thể, vốn là từ vật này đạt đến vật kia, trong liên tưởng không có cái gì là thần cả. Cái Thần tứ trong VTĐL là một khái niệm chuẩn xác tạo thành sự khác biệt giữa một nghệ thuật gia và người thợ. Người thợ trước khi làm một đồ vật cũng cấu tứ, nhưng cái hướng  cấu tứ của người thợ không giống như cách cấu tứ của nghệ thuật gia. Người thợ muốn chế tạo một sản phẩm công nghệ, thì sản phẩm ấy tất phải có một công dụng, do đó nó thuộc về một khái niệm, nên nói người thợ cấu tứ, thực ra đó là một thứ hình tượng của khái niệm. Nghệ thuật sáng tác không phải là một thứ hình tượng của khái niệm; nó là hình tượng của một thứ ngoại vật được tình cảm sinh tồn ngưng tụ lại và tái thể hiện (tình cảm sinh tồn  là biểu thị ý nghĩa tồn tại của tình cảm con người); cho nên mới gọi là “tư lý vi diệu, thần dữ vật du”. Đó là cách cấu tứ khác biệt  giữa nghệ thuật gia và người thợ. Vậy Thần ở đây là gì? Chính là sự tái thể nghiệm tình cảm sinh tồn. Tình cảm sinh tồn xuất phát từ tình cảnh thực tế, rồi tình cảnh thực tế đó lại siêu việt; nên nói là hình hài ở một nơi tâm hồn ở một ngả (hình tại giang hải, tâm tồn ngụy khuyết) tức là chỉ cái tâm đạt đến tính tồn tại siêu việt. Nhưng cái tính tồn tại siêu việt ấy không sao nắm bắt được, vì nó không phải là sự vật thực tế, tuy nhiên trong tác phẩm nghệ thuật lại cần phải nắm bắt cho được sự vật tồn tại đó. Như vậy nơi vật tính tồn tại làm sao xử lý cho tình cảm sinh tồn tái thể hiện được? Hoặc làm sao sai sử cái Thần đây? Đó chính là chỗ hướng về của Thần Tứ.
Trước tiên chúng ta phải phân biệt khu vực thị giác nội tại của khái niệm khác với khu vực thị giác ngoại tại của tác phẩm. Bình thường  tác phẩm nghê thuật đều mở ra cảnh giới thị giác nội tại, cảnh giới thị giác ngoại tại của tác phẩm đều là hữu hình, như vẽ cảnh sơn thủy là vẽ những vật hữu hình. Nhưng khi thần tứ xuất phát nhân trạng thái “dữ vật du” tự nhiên thành vấn đề “cánh minh”, các thứ hình tượng sự vật theo với trí tưởng tượng mà ùa đến, khiến nghệ thuật gia lần đầu tiên không biết xoay xở ra sao. Nhưng vì thần tứ là sự tưởng tượng nghệ thuật, về phương hướng của nó không phải là vật tượng hữu hình mà là sự thu xếp của Thần, cho nên nghệ thuật gia mới đem các vật tượng hữu hình “biến nó thành hư vị” hay “thả hồn trôi theo trí tưởng tượng vô hình”. Nhưng vô hình và hư vị là cái gì? Nó là sự vật không hư huyển mà như hư huyển, đúng là nó thuộc lãnh vực thị giác nội tại, nó là chỗ cư trú của Thần. do đó chúng ta có thể thấy tư tưởng văn nghệ cổ đại của Trung Quốc đối với việc cấu tạo lãnh vực thị giác nội tại trong tác phẩm không những biết sớm, mà còn đặt nặng cái thuyết “vô hình” và “hư vị”.
Văn Tâm Điêu Long biểu hiện cái cảnh giới kinh nghiệm thẩm mỹ của dân tộc, nội dung và khái niệm của nó không thể đơn giản đem so sánh với khái niệm lý luận mỹ học cận đại của Tây phương . Khi nó dùng thần tứ để chi cho bản chất sáng tác nghệ thuật thành ra “hư vị”, “vô hình”; hiển nhiên không nói sáng tác nghệ thuật là đem các lý niệm thu hoạch được đặt vào quá trình của hình tượng cảm tính.
Nếu chúng ta lại truy vấn thêm nữa: cái động lực của Thần tứ từ đâu mà có? VTĐL vẫn có cách giải thích trong lời “Tán” là “ Thần dụng tượng thông, tình biến sở dụng” Nghĩa là: tinh thần và hình tượng vật giới thông với nhau, cho nên tình cảm có sự biến hóa.  Chúng ta thường kinh ngạc và ca tụng tính độc sáng của tác phẩm nghệ thuật, sức tưởng tượng của nghệ thuật gia là tuyệt vời. nhưng với Lưu Hiệp thì đó là kết quả  của “ Thần dụng tượng thông”, mà thần dụng tượng thông là “ tình biến”, do tác giả tích lủy thai nghén mà thành. Nhưng sao lại gọi là
”Tình biến”? Theo sự lý giải của học giả Vương Đức Phong là chỉ cho tình cảm thăng hoa; tức là từ tình cảm hằng ngày mà đạt đến tính siêu việt của tình cảm sinh tồn. Tác phẩm nghệ thuật vĩ đại không phải là mô phỏng theo tác phẩm đã có từ trước mà phải là mang tính độc sáng có sức gây cảm cho mọi người. Chúng ta vừa ca tụng tính độc sáng của sức tưởng tượng nghệ thuật, nhưng động lực của sức tưởng tượng ấy là cái gì? Lưu Hiệp nói: “ Đăng sơn tắc tình mãn vu sơn,  quá hải  tắc ý dật  vu hải”. Nghệ thuật gia nhìn thế giới như vậy, họ cũng không sao thoát khỏi tình cảm khi nhìn sự vật, sức tưởng tượng của tính sáng tạo vốn bắt nguồn từ tình cảm thâm trầm, bồng bột sôi nổi, chứ không phải do kỷ xảo cao minh. Thi nhân đời Đường là Sầm Tham có bài thơ tả cảnh phong tuyết ở biên tái :
                            Bắc phong quyển địa bạch thảo chiết
                            Hồ thiên bát nguyệt tức phi tuyết
                            Hốt như nhất dạ xuân phong lai
                            Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai
Tạm dịch:     Gió  Bắc đưa về cỏ xác xơ,
                     Đất Hồ tháng tám tuyết phăng tơ.
                     Một đêm chợt gió xuân mang lại,
                     Ngàn vạn cây đầy hoa trắng phô.
Sức  tưởng tượng trong bài thơ quá tuyệt, vậy do đâu mà Sấm Tham viết được những câu thơ đó? Phải chăng cuộc sống ở biên tái đã khiến cho nhà thơ thể nghiệm được những tình cảm cực kỳ sâu sắc. Cuộc đời binh nghiệp ở biên tái miền Bắc đầy kham khổ cô đơn, đã khiến nhà thơ bao lần tưởng nhớ đến quê nhà ở phương nam, nỗi nhớ thương tích lủy thành một thứ tình cảm thâm trầm, đến nổi nhìn tuyết bay bám vào cây cối mà tưởng là hoa lê nở đầy. Hai câu cuối như lời ở miệng thốt ra thật tự nhiên, thật ra nếu không có tình cảm thâm sâu thì không sao có được ý thơ thanh thoát nhẹ nhàng như vậy. Nghệ thuật cấu tứ xảo diệu không phải do tâm thức đầy kỷ xảo, mà chính là tình cảm thâm hậu của nghệ thuật gia. Cho nên trong khái niệm “thiên tài nghệ thuật” có nội hàm chủ yếu là Thần  tứ. Tình cảm sinh tồn của nghệ thuật gia là sự lãnh hội đối với tính tồn tại siêu việt, cho nên cái tứ của họ có thần. Bình thường chúng ta có lẻ cũng đa sầu thiện cảm; nhưng nếu thứ đa sầu thiện cảm ấy chỉ câu nệ vào nôi dung tính đối tượng của bản thân tình cảm ,thì nỗi sầu cảm ấy không thể nào thành tư liệu của nghệ thuật, cơ sở của thần tứ. Một nhà văn có thể  tả  những bộ mặt của cuộc sống con người, có thể tả được cuộc sống của những con người thuộc các giai tằng xã hội khác nhau. Nhưng văn học gia không thể nào tự thân mình thể nghiệm được sự sinh hoạt của các sắc dân trong xã hội. Thế mà trong Hồng Lâu Mộng mô tả hơn 500 nhân vật, thân phận của họ thuộc các giai tằng xã hội khác nhau, cảnh ngộ khác nhau…Nhưng tất cả đều do một cây bút của Tào Tuyết Cần mô tả. Ông không thể nào từng trải qua nhiều phương diện sinh sống như thế, từng gặp nhiều cảnh ngộ… Cuộc sống của một con người vốn hữu hạn, phạm vi sinh hoạt cũng có giới hạn…Nhưng sự hạn hẹp đó không thể cản trở sự hiểu biết, sự lãnh hội rộng rãi về cuộc sống của con người; chỉ cần người ấy (tác gia) thực sự đặt mình trong sự sinh hoạt đó, đồng thời cùng với sự sinh hoạt có liên quan, có yêu thương, kết hôn, sinh con cái nuôi dưỡng, đặt kế họach mưu sinh, hoặc trải qua những biến cố cùng thông, quí tiện, mà tính linh nó bị xúc động, rồi dựa vào sức tưởng tượng của tính linh, (tính linh là năng lực tâm trí tối cao của con người), tất có thể suy kỷ cập nhân, cảm như đồng thân chịu đựng, thậm chí như nhập vào những cảnh ngộ chi tiết càng thâm thiết…Số là vì lòng người vốn dễ thông cảm với nhau. Trong tình cảm của con người vốn có yếu tố siêu việt tính phổ biến, yếu tố ấy là nơi phát sinh ra chân lý, mà thần tứ của thiên tài nghệ thuật lại là khí quan thích hợp đóng vai cảm ngộ và biểu hiện chân lý nguyên thủy. Điều đó khiến cho chúng thành sự sinh hoạt của con  người cùng là dụng cụ cảm thụ rất mẫn nhuệ của thời đại; do đó trong tình cảm sinh tồn của con người vốn có tính tồn tại siêu việt, cùng lấy đó để hiểu  được lai lịch của thần tứ.
                                                                         Khổng Đức


Không có nhận xét nào: