Để rồi mỗi đứa trong chúng tôi có một chọn lựa khác nhau. Chúng tôi chia xa tưởng như không còn thấy nhau nghìn trùng hay vùi thân giữa một chiến trường ý thức hệ. Bửu Chỉ không còn nghe, thấy, biết về tôi. Ngược lại; tôi nghe trong những họa phẩm của anh nói những gì về hoài vọng từ một phương trời viễn mộng trong tôi. Vậy anh đang sống mà tôi giãy chết. Nhưng;tôi không thể phủ nhận tài hoa và ý chí cương trường của anh, đặc biệt bộ môn hội họa mà anh làm vũ khí để hành trang. Tôi khâm phục; dẫu anh không còn giữa thế gian này. Hôm nay dựng lên khung cảnh này như một tưởng niệm người bạn ấu thời một thời đã sống và một thời đã chết như muôn người. Với Bửu Chỉ là ‘strangeness’ riêng và lạ!
Sau khi Việtnam về một mối là thời điểm cho anh đổi mới tư duy, bình yên để có cơ hội phát tiết mãnh liệt trong vòng hơn 10 năm (1975/1989) anh chuyển hướng trong một tinh thần nghệ thuật hơn là đấu tranh; tư chất Bửu Chỉ khác hẳn hơn xưa, tình cảm dạt dào giữa người và vật, anh không tạo hiện tượng để đi vào đời như những kẻ khác; mà đây là hiện tượng sáng tạo. Tôi tìm thấy Bửu Chỉ, bạn tôi; trên truyền thông báo chí, tranh ảnh đã cho tôi suy nghĩ lớn về anh. Không phải thấy anh qua nghệ thuật tạo hình hay sơn cọ; chất liệu đó đã tiềm tàn trong huyết thống của anh, di truyền là thừa kế bồi đắp để anh trở thành thiên bẩm (ông, cha vốn là nghệ nhân văn học tăm tiếng đời xưa) Cái không tưởng ở đây là một con người đam mê, lấy đam mê nghệ thuật để chinh phục vũ trụ nhân sinh là cả hiện tượng biệt tài mà ít ai nghĩ tới phương cách đó để thực hiện. Bửu làm nên sự kiện chớ không phải sự kiện lịch sử làm nên hiện tượng cho Bửu. Có nhiều lý do làm nên hiện tượng: người ta đấu tranh bằng mọi hình thức nhưng tất cả những thứ ấy là vô hiệu hóa, ngược lại; với đường hướng riêng biệt anh biết vận dụng trí tuệ để chinh phục mà không gây một thương đau nào hơn cả. Đó là cái ‘ Tại sao tôi lại quá khôn / Why I am so wise’ (Nietzsche) Họa sĩ cuộn vào túi khôn đó để thành hình những tranh vẽ đầy màu sắc, chất liệu và bố cục; sáng tạo cho mình một sắc thái riêng, độc đáo ở lãnh vực hội họa trong và ngoài nước, vẽ lên hình ảnh con rối (juggler) giễu đời, buồn cười của một ‘sạt-lô’ (Charles Chaplin) là cười ra nước mắt của cái thời hiện đại (modern times). Bửu Chỉ có giọng điệu của thứ ngôn ngữ mỹ thuật (art-language). Tranh của anh là đường cắt, xẻn là tiếng nói (pared-language) riêng tư dành cho một con tim đau nhói (poignant-heart). Nhắc tới đây tôi nhớ câu thơ của Nietzsche:
Tiếng khóc lũ quạ đen
vi vu bay về nơi phố thị
chốc chốc trời đổ tuyết
thương cho những kẻ không nhà (vcl. chuyển ngữ)
They cry the crows
in buzzing flight towards the town
soon it will snow
pity all those without a home (F. Niezsche)
Bài thơ không ăn nhập cho luận đề này, nhưng có hơi hướng tinh thần của họa sĩ; như tôi đã biết khi sinh tiền… Thơ của Niezsche và tranh của Bửu Chỉ có thời gian tính để đi vào miên viễn.
(‘THỜI GIAN Và TÔI / TIME And ME’ Dầu trên
vải. 80X100.1997)
Tranh của Bửu Chỉ không phải là trường phái ấn tượng, siêu hình hay trừu tượng mà là thực thể (realistic), gần như là trừu-tượng-biến-thể (metamorphic abstraction) một trường phái riêng anh có, bởi; anh phơi mở toàn diện cái hóa thân của Frank Kafka; cho nên đứng trước tranh Bửu Chỉ là hình ảnh của một triết lý nhân sinh, đượm chất huyền thoại siêu hình. Chẳng hạn bức ‘Trứng và Đá’ là biểu tượng về hình ảnh của một Sisyphus đầy tham vọng đội đá vá trời (rolling rock up the hill) được diễn tả rõ nét qua bức ‘Lăn Một Đời’. Ở đây Bửu Chỉ đã làm thông khí cuộc đời ’aération’; đó là thể cách trong chính cuộc đời đang sống –in life itself ; một tư duy của người họa sĩ . Chính cái nhìn sâu hoáy cuộc đời ở Bửu Chỉ là cái nhìn đả thông cùng với Camus như đã nhìn thấy. Bửu phái đã búng mình vào vô tận, một dự phóng của cuộc đời ‘tremplin d’éternité’ mà anh muốn diễn đạt hầu hết trong tác phẩm của anh để lại. Xem tranh Bửu Chỉ đòi hỏi một tri thức nhận biết, chớ không thể xem qua loa hay dễ nhận ra và dễ định nghĩa một cách khoẻ khoắn như một số họa sĩ đã vẽ; muốn định nghĩa tranh Bửu Chỉ là phải có con mắt của người nghệ thuật, có một trí tuệ trong sáng thì mới nhận ra cái đẹp tuyệt đối của nó; còn bình thường như muôn ngàn bình thường khác thì không có chi để luận bàn hay ‘dialogic’ cả; cho nên nghe tranh cần thiết hơn xem tranh là vậy. Việc này có thể đánh giá một cái gì phi lý, ngu xuẩn dưới nhãn quang ngờ vực của cá thể -the absurd person-, nhưng cần cảm thông cho tác giả đã đưa vào tác phẩm bằng một lối bí truyền khác, một lối nói khác từ một nội tại phản kháng có tính siêu hình -it is rebellion only metaphorical-. Đi lần vào vũ trụ hội họa của Bửu Chỉ sẽ cho chúng ta từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một yêu cầu chung là cảm thông và tri nhận cho tình huống giữa người xem và người vẽ với một ‘indulgence and understanding’ thời mới đạt cái mức thâm hậu trong tranh; bức ‘Ăn Nằm với Đất’ cũng là một phản kháng nội tại, một thứ dục tính bị đè nén, gào than để được ‘giải thoát’. Đấy là thời kỳ họa sĩ ‘mệ’ nhìn qua nét đẹp thiên nhiên trên thân thể phụ nữ, không một họa sĩ nào dại dột trốn cái thẩm mỹ mà hội họa đòi hỏi phải có; huống hồ dân ‘hoàng phái’ thì khác gì ‘bourgeois’ vốn đã có trong máu (Khỏa Thân và Trăng Xanh). Nhìn toàn diện họa phẩm của Bửu Chỉ, trước sau là một thực thể biến động nội tại để biến hình (metabolism) trong cơ-thể-tranh (body-art) cho nên nhìn được một vũ trụ quan ở cõi ngoài, một cõi siêu lý của siêu hình, vì vậy; vẽ trăng đậm màu lục, nâu, vẽ mặt trời đen hoặc nghiêng đảo là chứng cớ nói lên vực thẳm giữa người và vũ trụ, tất thảy là hoài nghi nhân thế. Xem tranh Bửu Chỉ không còn là vai trò ‘khán giả’ đi xem tranh mà toàn thể là giới tính (full of sex) giễu đời cười cợt (humour) siêu-nhiên (super-nature) và có một cái gì sợ hải giữa con người và vũ trụ đưa tới giận dỗi (fear and anger). Trong cái có của Bửu Chỉ vừa là phản kháng vừa là chấp nhận (revolt and acceptance). Điều này không riêng Bửu Chỉ có mà ngay cả Joan Miró cũng có cái nhìn như Bửu Chỉ, bên cạnh đó chúng ta tìm thấy Tĩnh Vật của Bửu Chỉ có chất tĩnh vật của Picasso. Tranh của Bửu Chỉ là một tổng thể của Hội họa Thế kỷ 20. Một trường phái tân chủ nghĩa hiện đại (new-modernism) vô hình chung đưa ta về lại thời thịnh hiện đại hội họa Âu châu. Có lẽ; Bửu Chỉ là đại diện cái thời chúng ta đang sống và làm nên tân hình thức hội họa (new-formalism painting). Tranh Bửu Chỉ có hai bề mặt đậm nét, một là tàn ẩn dấu tích siêu hình nhân thế, hai là chất liệu của màu sắc; ở mặt này anh nhuần nhuyễn như một tiết tấu để đồng hành với thể điệu, đúng ‘mô-típ’ cho một tiên liệu lên tranh. Về kỹ thuật chơi màu; Bửu Chỉ rất cẩn trọng mỗi khi cho lên pa-lét với động tác trộn cho màu dậy, tránh nặng tay bay, dao (trowel) mà để dấu lằn lên tranh , anh xử dụng màu sắc như hoà âm điền dã của Paul Klee và của Mark Rothko nghĩa là kiểm soát được màu sắc ở chính mình, đó là điểm then chốt xây dựng một bố cục trọn vẹn bên trong lẫn bên ngoài, thời lúc đó mới đạt tới hiện hữu tối thượng –after all; becoming is superior to being. Nhờ vậy mà tranh anh không ‘chết’ tươi mãi với thời gian nghĩa là để lại một ấn tượng sâu lắng trong tư duy của người xem tranh. Thừa nhận được như thế là đạt tới chân tâm của hội họa. Bửu Chỉ khởi nghiệp vẽ trên một dặm trường không có quá trình dài, anh không học vẽ như người ta nhưng anh vẽ coi bộ có chiều hướng hơn người có trường lớp. Vẽ là gì? là có con mắt, có bàn tay + với tài năng bẩm sinh + nhập hồn trong tư thế chủ động thì đó là vẽ. Dù rằng nghệ thuật không cần giải thích nhưng cần một bày tỏ trong ý và lời mới nói lên vẽ là gì. Ngần ấy cũng đủ thấy trọn vẹn nhân tính của tác giả. Đó cũng là một phần cuộc đời và sự nghiệp của hoạ sĩ Bửu Chỉ như tôi đã biết. Không còn một lý giải nào hơn cho một con người tài hoa như thế. Anh nằm xuống nhưng tranh anh không nằm xuống.Tôi biết; bạn chẳng muốn gì ngoài một tâm như nhiên và rồi một ngày nào đó bạn sẽ hiểu / tu le sauvas peut-être un jour (J.P. Sartre) những gì bạn đã làm.Tôi nghĩ; bạn đã hiểu và thấy rõ điều gì ở cõi ngoài kia (!). Tiếc thay; bọn chúng ta chưa sống trọn cuộc đời thì bạn đã ra đi sớm, tiếc thay; tôi không có đó để thấy cái chết ‘gọi về’ của anh, để vẽ hay viết cái dung nhan thoát tục của anh thay lời điếu văn, nhưng cái chết của anh -với tôi; không lấy làm tiếc, mà tiếc tài năng cực sáng đó vội vụt tắt. Chính cái vụt tắt là một chọn lựa mầu nhiệm để đưa anh vào vị trí của huyền thoại nhân gian. Nếu để anh sống mòn cho tới hôm nay thì anh và tác phẩm của anh chỉ đứng chung trong viện bảo tàn mỹ thuật; có thể ít ai chăm sóc chu đáo và để tâm tận tình. Khó mà tìm thấy cái độc đáo riêng anh. Tôi nghĩ vậy. Giờ đây; tôi muốn có những bước đi như anh là cả một dùi mài mà vẫn không tới nơi, vẫn không thoát ra khỏi cuộc đời, vẫn còn què quặt, khập khểnh giữa rừng, biển mênh mông của một sát-na vô tận số thời gian; thời làm sao đạt tới con đường nghệ thuật phi nghệ thuật như anh. Tôi thử thách tôi để rồi đi tới tuyệt vọng, bởi; lần mò vào thế giới này càng thấy mình yếu trước hang cọp và gò đống ngổn ngang, bụi rậm không thấy đâu là chân trời hội họa mà chỉ hiển lộ ở đó một cái ‘ta’ trong nghệ thuật không trường phái, một thứ lập ngôn của ‘tai biến mạch máu não’. Có lẽ; tôi nằm trong tai biến đó.Và; ở anh là một hạnh phúc lớn!
Thay vì thắp một nén hương trước cửa mộ anh với bi thảm nỗi sầu. Tôi lên khung bài này như vẽ lại chân dung người bạn cũ của một thời sống trên đất văn vật muôn màu tuyệt cú: văn thơ họa nhạc…
(‘LĂN MỘT ĐỜI / ROLLING THROUGHOUT ONE’S LIFE. Dầu trên
vải. 80X100.1997)
Năm 2000 dịp tôi về thăm quê. Vào một chiều mưa lâm râm, tôi biến mình hoàn toàn một ‘metamorphosis’ từ tinh thần đến thể xác, rách bươm, bởi; tôi không muốn bạn tôi nhận ra tôi, tôi muốn cho bạn tôi thấy tôi là một thân tàn ma dại hiện hồn trong sân nhà anh. Bửu Chỉ nhận ra tôi; tức khắc nở nụ cười chào đón trước ban-cơ-ni nhà cũ của anh mà thuở đó tôi thường ghé lại. Bửu Chỉ không có dấu hiệu gì nơi tôi, duy chỉ có điều chị của Chỉ đẹp làm tôi chú ý nhiều hơn là chú ý Chỉ. Cái hân hoan của Bửu Chỉ làm tôi trở-về trong tư thế hồn nhiên của Kiều. Bửu đem rượu ra uống, lấy vố ra ngậm và kéo những tấm bố tranh dầu cở lớn ra khoe tôi. Anh tưởng tôi chưa biết về ngón tuyệt chiêu của anh. Tôi sung sướng chiêm ngưỡng và sờ mó vào tranh anh vẽ. Hạnh phúc là được sờ bằng tay năm ngón, sờ vào những tác phẩm hội họa trước mặt tác giả là cả một cảm xúc sâu xa giữa ý và tình, giữa chất liệu và kỹ thuật, giữa người với người; tự nhiên cho tôi một thèm khát và một tự kỷ ám thị. Cái hài hòa đó là tinh thần của người nghệ sĩ. Bạn tôi không đặc một câu hỏi nào khác hơn khi xem và sờ vào tranh, mà chỉ cúi đầu phì phào với khói điếu. Bửu Chỉ không lấy làm tự đắc cái việc mình làm mà thỏa mãn đạt tới độ của người yêu, mê, say vẽ. Chừng đó cũng đủ để cho tôi thấy thái độ của người nghệ sĩ chân chính; nghĩa là không pha trộn cái hào khí tiểu tư sản như tôi thường bắt gặp qua người khác. Anh không nói nhiều về những tác phẩm của anh. Mà quay về cá nhân tôi, vì; Bửu Chỉ mừng gặp lại tôi, tưởng như không còn có nhau trên cõi đời này. Từ xưa cho tới giờ này anh thấy nơi tôi là kẻ ‘ngoại đạo’ phóng đảng, nhưng ít nhiều anh thấy được thực chất trong tôi. Tôi nghĩ vậy. Bửu Chỉ sanh sau tôi 5 năm, nhưng thông minh, học hành tới nơi tới chốn, nhiều cái trời cho, anh đâu học trường vẽ nhưng anh có năng khiếu, thiên bẩm có mắt, có tay bắt chụp kịp thời, cọng một trí tuệ vượt hẳn thành ra vẽ đối với Bửu Chỉ không phải là việc khó. Những tích lũy đó dồn vào anh như một khát vọng, làm cho cuộc đời thêm một liên hệ tương giao, một vũ trụ của khát vọng con người. Mà đó là một giải thoát.Vừa xem tranh vừa kể chuyện, anh kể đủ thứ chuyện như chưa bao giờ được kể. Tôi lắng nghe lời tâm sự của một người đi xa trở về.
Trước khi giả từ, Bửu Chỉ ký tặng tôi tập tranh vẽ: ‘Bửu Chỉ và Hoàng Đăng Nhuận’. Cả hai họa nhân là bạn cùng quê tôi. Họ là những người bạn chân tình với một tâm hồn bao la rộng mở. Với tôi; khó quên !
Đây là lần gặp cuối cùng của tôi với Bửu Chỉ; nơi chúng tôi sanh ra và lớn lên để rồi mãi mãi không còn thấy nhau mà chỉ thấy nhau qua tranh vẽ. Tính đến nay tròn một giáp bạn tôi đã ra đi. Một người tài hoa, mẫn tuệ, nhiệt tình với đời và nghệ thuật. Bửu Chỉ là kỷ niệm lớn trong tôi ./.
(ĂN NẰM Với MẶT ĐẤT / WEDDING With The EARTH’. Dầu trên
giấy 80X100.1997)
(‘BÚT TÍCH TÁC GIẢ KÝ TẶNG / BUU CHI ’S
AUTOGRAPH )
VÕ CÔNG LIÊM
(ca.ab.yyc. cuối 5/2014)
(tác giả gởi)
Bửu Chỉ (1948-2002) sanh và chết tại Vỹ dạ, Huế. Cử nhân
Luật./Đh. Huế. Tự học vẽ. Đã triển lãm nhiều lần trong và ngoài nước.
Danh nhân nêu trong bài: *Friedrich Nietzsche(1844-1900)Triết
gia Đức *Franz Kafka(1883-1924)Nhà văn Tiệp *Joan Miró (1893-1983)Họa sĩ Tây
Ban Nha*Pablo Picasso (1881-1973)Họa sĩTây Ban Nha*Paul Klee (1879-1940)Họa sĩ
Thụy sỉ*Mark Rothko ( 1903-1970)Họa sĩ Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét