Huyền Trân công chúa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất
trong lịch sử Việt Nam, được đời sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm
chất trữ tình của một cuộc hôn nhân ngoại giao và mối quan hệ ly kỳ,
trái khoáy với Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của chúng
tôi, xuất phát từ việc phân tích các nguồn sử liệu và kế thừa các ý kiến
của người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm không logic trong những
sự kiện được ghi lại về nhân vật lịch sử này.
Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ
chức hằng năm vào ngày mồng chín tháng Giêng, tại Trung tâm Văn hóa
Huyền Trân, phường An Tây, thành phố Huế.
Bài
viết vì vậy khởi đầu bằng việc trích dẫn nguyên văn những gì mà Đại
Việt sử ký toàn thư (từ dưới đây gọi tắt là Toàn thư) đã chép1.
(...) [1305], tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
(...) [1306], (...). Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
(...) [1307], (...). Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết. (Tháng 9) Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.
Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh2.
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, hàng loạt các sử thần trung đại cho đến các sử gia hiện đại đã mặc nhiên coi những ghi chép trên là không còn điều gì phải bàn cãi. Các nhà văn, nhà thơ nhiều đời cũng dựa vào đó để sáng tác thơ ca, và viết nên những pho tiểu thuyết lịch sử về mối tình oan trái mang tính tay ba của Huyền Trân - Chế Mân - Trần Khắc Chung. Cho đến năm 2013, giáo sư Keith W. Taylor vẫn nhắc lại câu chuyện trên mà không có chút nghi vấn gì về tính chất sử liệu và những điểm khúc khuất đằng sau chuyện này3.
Những sử liệu về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân ở trên có thể thấy là đã được nhìn qua lăng kính của người đời sau, cụ thể là qua lăng kính của Ngô Sĩ Liên với lối sử bình đậm đà tinh thần Nho giáo. Nếu tính từ thời điểm năm 1306 đến năm Ngô Sĩ Liên soạn Toàn thư (nửa cuối thế kỷ XV), quãng cách thời gian khoảng 150 năm, chúng ta không biết Ngô Sĩ Liên đã biên soạn đoạn này trên cơ sở những nguồn sử liệu nào. Nhưng như những gì chúng tôi đã từng chứng minh, có một nguồn tiếp thu khá quan trọng của Toàn thư, đó là truyền thuyết dân gian, như trường hợp “chú bé mồ côi- cờ lau dựng nước” của Đinh Bộ Lĩnh chẳng hạn4.
Có hay không chuyện Huyền Trân bị hỏa táng?
Như sử liệu trong Toàn thư thì lúc Chế Mân chết có khả năng Huyền Trân đang mang thai. Vì sao chúng tôi suy luận như vậy? Bởi theo Toàn thư, đến tháng chín, Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần mang voi trắng đến tiến cống. Nhiều người nghĩ rằng, lúc này Chế Đa Da “sai sứ” thật, hoặc như Ngô Thì Sĩ lại đồng nhất Chế Đa Da là Chế Chí (sic, con của Chế Mân, anh của Chế Đà A Bà Niêm, Chế Chí là vua nối ngôi sau Chế Mân). Nhưng thực ra, đây là một nghi lễ ngoại giao với hàm nghĩa báo tin cháu ngoại của Trần Nhân Tông (tức Chế Đa Da) chào đời. Bởi ngay đoạn sau đó, Toàn thư ghi rằng đoàn Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân và thế tử Chế Đa Da về. Như vậy, Chế Đa Da có khả năng sinh vào tháng Tám năm đó. Tức là khi Chế Mân mất, Huyền Trân mới mang thai Đa Da khoảng bốn tháng. Không có lý gì lại đưa một sản phụ cùng đứa con trong bụng lên giàn hỏa thiêu?
Mặt khác, theo Po Dharma, những ghi chép về tục lệ hỏa thiêu của Chiêm Thành (trong Toàn thư) là không chính xác. Thứ nhất, nếu theo truyền thống Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép huỷ thân trên giàn hỏa với đức vua quá cố. Chữ “chính thức” ở đây nghĩa là “một người có dòng máu hoàng gia Champa” - một hoàng gia với chế độ mẫu hệ (chứ không phải là mẫu quyền)5. Trong khi đó, Huyền Trân (được phong làm hoàng hậu Paramecvari) chỉ là vợ thứ ba của Chế Mân, hoàng hậu cả là người Chăm, bà hai là người gốc Jawa. Thứ hai, theo Dominique Nguyen (tức Nguyễn Ðố), tục lên giàn hỏa là một vinh dự lớn lao chỉ dành riêng cho bà hoàng hậu nhằm bày tỏ lòng thủy chung của mình đối với chồng, với điều kiện phải được hội đồng hoàng gia chấp thuận. Ông cũng cho biết, trong suốt 18 thế kỷ của tiến trình lịch sử ở Champa, người ta đã ghi nhận chỉ có vài bà hoàng hậu được nhận ân huệ của hội đồng hoàng gia để lên hỏa đàn chết theo chồng. Thứ ba, theo luật Champa, lễ hỏa táng vua mới mất được thực hiện trong ngày đẹp nhất trong vòng một tháng sau khi vua băng hà. Như vậy, lễ hỏa thiêu đó có lẽ phải được thực hiện trong tháng Năm hoặc đầu tháng Sáu năm 1307, trong khi đó, sứ đoàn Trần Khắc Chung khởi hành vào tháng 106.
Từ những lý do như trên, chúng tôi cho rằng, không có chuyện Huyền Trân bị hỏa thiêu, vì thế cũng không có chuyện giải cứu Huyền Trân như Toàn thư đã viết.
Có hay không chuyện Huyền Trân ám sát Chế Mân?
Với những lý lẽ đưa ra về nghi thức và thể chế tùy táng trong Hoàng gia Champa, Dominique Nguyen có đưa ra giả thuyết khá thú vị rằng Huyền Trân đã thực hiện âm mưu ám sát Chế Mân. Ông viết như sau: “Chúng tôi không nói là Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có chăng Huyền Trân đã làm một việc phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái chết của Chế Mân thành ra mới tìm cách chạy trốn. Chính đây mới là chìa khóa quan trọng trong vụ tình sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và Huyền Trân.”7
Dominique Nguyen cũng dùng các chữ “dùng mưu gian trá” cướp công chúa về Thăng Long để liệt Ngô Sĩ Liên vào người cùng quan điểm. Nhưng dường như nhà nghiên cứu này đã đi quá xa với giả thuyết của mình, khi ông đưa ra kết luận rằng: “Một khi giải pháp quân sự không còn hiệu nghiệm để chinh phạt Champa nữa, vua chúa Ðại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê tiện hơn, đó là dùng mỹ nhân kế để phục vụ cho ý đồ chính trị. Vì quyền lợi chung của dân tộc, vua chúa Ðại Việt không cần nghĩ đến thế nào là danh dự của một quốc gia, dù là quốc gia hùng mạnh gấp bội so với lực lượng quân sự Champa thời đó. Năm 1306, vua Trần Nhân Tông tìm cách dâng hiến con gái của mình là Huyền Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương nước ngoài mà tuổi đã già, để đổi lấy hai châu Ô và Lý. Ngô Sĩ Liên, tác giả của ÐVSKTT là người đầu tiên đã lên án nhà Trần. Vì lòng tham lam một mảnh đất ở châu Ô và Lý, vua Trần Nhân Tôn không còn biết đâu là thể diện của vương quốc Ðại Việt để rồi bán đứng trinh tiết con gái của mình cho một người không cùng giống nòi.”8
Cứ cho rằng Huyền Trân ám sát Chế Mân, thì chúng ta buộc phải trả lời hàng loạt câu hỏi. Vì sao Huyền Trân phải giết chồng mình và cha đứa trẻ mà mình mang trong bụng? Nếu đã giết Chế Mân, thì làm sao có thể thoát được tội chết? Chế Mân chết thì Đại Việt được gì, Huyền Trân được gì? Hay là sau khi Chế Mân chết, cuộc đời Huyền Trân cũng sụp đổ để cuối cùng năm 1308, bà cắt tóc đi tu, còn Đại Việt và Champa lại rơi vào hai chiến tuyến với những cuộc chiến tranh liên tiếp kể từ năm 1311.
Thế nhưng, cũng chính theo Dominique Nguyen, “bà Tapasi, hoàng hậu gốc người Jawa cũng trở về nước sau ngày Chế Mân từ trần.”9 Như vậy thì việc các bà hoàng hậu người ngoại quốc trở về nước mình là một nghi thức mang tính chế định của triều đình Champa. Việc Huyền Trân cùng con trai Chế Đa Da trở về Đại Việt là theo thông lệ ngoại giao, có sự ủng hộ và thỏa thuận giữa hai nước. Theo sự kiện mà Toàn thư đã ghi về việc cống voi trắng của Chế Đa Da, thì rõ ràng đoàn cống sứ này ngoài việc báo tin “đản sự” (sinh hạ thế tử), còn mang thêm thông tin “gợi ý” cho triều đình Đại Việt sang Champa đón công chúa và thế tử trở về. Đó chính là lý do khiến đúng một tháng sau, đoàn Trần Khắc Chung đến Champa. Mặt khác, theo quan niệm của Hoàng gia Champa (một hoàng gia theo chế độ mẫu hệ), thì Chế Đa Da (dù là con trai, dù là thế tử) thì cũng chỉ là một kẻ “khác máu” - không có giá trị huyết thống và cũng không có tư cách để thừa kế bất kỳ thứ gì từ triều đình đó10. Việc trả Chế Đa Da về Đại Việt cùng với Huyền Trân là một việc không có gì đáng phải bàn cãi.
Như vậy, giả thuyết Huyền Trân ám sát Chế Mân của Dominique Nguyen chưa có cơ sở. Và vì thế cũng không có chuyện nhóm Trần Khắc Chung phải lập mưu cướp công chúa về Đại Việt. Toàn thư đã chép đoạn này trên một truyền bản tin đồn hoặc huyền thoại thất thiệt (fakelore) vào đời sau. Câu chuyện đó chỉ có ý nghĩa đối với những sáng tác văn học mà hầu như lại rất có hại đối với lịch sử và sử học.
Và mối tình huyền thoại
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, các nhà văn, nhà thơ thời hiện đại đã sáng tác rất nhiều câu chuyện văn học xung quanh cuộc tình giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung. Nhiều người đã dựng nên câu chuyện tình ngang trái giữa cặp trai tài gái sắc: hai người có tình cảm từ trước đó, nhưng do lệnh của hoàng đế Nhân Tông, nên đành “gác lại tình riêng vì việc nước”11.
Trước nhất là chuyện “trai tài gái sắc”. Các nhà biên soạn có thể viện dẫn rằng có thể hư cấu một số tình tiết trong các tác phẩm nghệ thuật lịch sử (tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử). Nhưng theo chúng tôi, những hư cấu nghệ thuật bao giờ cũng nên căn cứ trên logic lịch sử. Còn ở đây, chuyện “trai tài gái sắc” là cố gắng “gọt chân cho vừa giày” để biện minh cho “tính chính đáng” của mối quan hệ giữa hai người. Xét về tuổi thì Huyền Trân sinh năm 1287, trong khi vào thời điểm này, Trần Khắc Chung đã là một trụ cột của triều đình Đại Việt trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (lần hai và ba), năm 1288 vì có tài ngoại giao, Khắc Chung đã sang sứ nhà Nguyên. Như vậy, về tuổi tác, Khắc Chung hơn Huyền Trân quãng 20- 30 tuổi.
Mặt khác, như sử liệu đã dẫn trong Toàn thư, Trần Khắc Chung chính là người thuộc phe ủng hộ Trần Nhân Tông gả Huyền Chân sang Chiêm Thành. Cho nên, nhiệm vụ đi đón Huyền Trân được giao cho ông là điều dễ hiểu. Vì thế không có chuyện “mượn cớ viếng tang để cướp công chúa về nước”. Chúng tôi cũng nhắc lại một lần nữa rằng, đoạn chép trong Toàn thư từ “theo tục lệ Chiêm Thành,..” đến “Khắc Chung thường sợ hãi né tránh” là đoạn có thể được biên soạn thông qua một nguồn tin phi chính thống. Bởi đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở đoạn trên như đã phân tích. Với lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, đoạn này có khả năng đã xuất hiện muộn nhất từ giữa thế kỷ XV (cách thời điểm xảy ra sự kiện 150 năm).
Thêm nữa, như trên đã phân tích, khi lên thuyền về Đại Việt, Huyền Trân lúc ấy mới sinh con được vài tháng, tức là lúc đó có khả năng còn đang ở cữ12. Thuyền đưa Huyền Trân về nước cũng không phải là kiểu “thuyền nhẹ“ (như Toàn thư ghi) chỉ chở được một vài người để rồi mối tình nảy sinh trong quá trình lênh đênh sóng nước, mà thuyền ấy phải chở cả một đoàn gồm: Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung (trưởng đoàn), An phủ Đặng Văn (phó đoàn), cùng các tùy tòng, thủy thủ đoàn, thị nữ (để hầu hạ hoàng hậu),... tổng cộng cũng phải vài chục người.
Rồi như ta biết, Huyền Trân xuất gia năm 1308, sau khi về nước một năm. Còn Trần Khắc Chung có khả năng cao cũng là một người theo Phật, hiểu Phật, cho nên ông mới được vua Trần Anh Tông (1276 – 1320) sai viết lời bạt cho sách Thượng Sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291)13, thầy của đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Đến cuối đời, Trần Khắc Chung và vợ - Công chúa Bảo Hoàn - đã cúng ruộng trang Ma Liêu (Đông Triều) của mình làm của Tam Bảo để nghĩa đệ của mình là sư Hương Lâm trông coi14.
Dẫu biết rằng thời nhà Trần, quan hệ tình ái khá phóng khoáng. Nhiều người cũng có thể giữ quan điểm cho rằng trên đời có chuyện gì mà không xảy ra. Mối quan hệ Huyền Trân- Khắc Chung có thể có mà cũng có thể không. Thực tế lịch sử thế nào, không ai dám nói chắc chắn. Người nghiên cứu chỉ dựa trên sử liệu, còn sử liệu thì lại được tạo tác bởi nhiều động cơ và mục đích khác nhau. Trần Nhân Tông từng bị người đương thời đàm tiếu vì tội gả con gái cho loài man di mọi rợ, hay Trần Khắc Chung bị chửi rủa như loài “chó lợn” (chữ của Ngô Sĩ Liên) vì đã động đến công chúa. Nhưng đến thế kỷ XX, người thì được tung hô vì đem lại hai mảnh đất cho Việt Nam, người thì được ngợi ca bởi việc phá bỏ gông cùm phong kiến, mở đường cho luyến ái cá nhân. Sau nhiều thế kỷ, Huyền Trân công chúa đã đi vào thần điện Việt Nam, trở thành một vị nữ thần được thờ phụng. Để kết thúc bài viết này, xin trích lại lời của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch nước, khi viếng thăm đền thờ Huyền Trân công chúa: “Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những vấn đề của quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ”. Lịch sử không chỉ sống động bởi sự biến động của các nguồn sử liệu mà còn bởi những mục đích mà người đời sau sử dụng nó, một cách hữu thức và vô thức.
-------------------
1 Do độ dài hạn chế, chúng tôi chỉ lược dẫn. Các đoạn lược bỏ để trong (...). Một số thông tin đáng chú ý sẽ được in đậm.
2 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.90-92.
3Keith Weller Taylor. 2013. A History of the Vietnamese. Cambridge University Press. New York. pp.141.
4Trần Trọng Dương. 2013. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. Tạp chí Tia Sáng. Số tháng 7/2013.
5Po Dharma. 2007. Góp phần tìm hiểu lịch sử Champa. http://www.champaka.info
6Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.91.
7Dominique Nguyen. 2008. 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Champaka số 09/ 2008. tr.40-56. www.champaka.info
8Dominique Nguyen. 2008. bđd.
9Dominique Nguyen. 2008. bđd.
10“Như thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm chúa Chiêm Thành mà sự kiện cậu bé về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm dứt một giai đoạn hòa hoãn của hai nước vì tình thế bên ngoài trong khi các vấn đề bên trong giữa hai nước vẫn chưa giải quyết được. Xung đột trở lại là điều tất yếu”. [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam. Văn Mới. USA. Tr.257].
11Viết Linh. 2005. Chuyện tình Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử). NxbThanh niên. Hà Nội.
Trần Kim Bằng (s.t). 2008. Chèo cổ Trần Huyền Trân. - Nxb Hà Nội. Hoàng Giác. 1949. Huyền Trân (nhạc): - In lần thứ 1. – Nxb Thế giới. Hà Nội.
Hoàng Quốc Hải. 1993.Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử) - In lần 2 có bổ sung. Nxb Phụ nữ. Hà Nội.
Phạm Minh Thảo. 2007. Huyền Trân công chúa. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
Phạm Huy Thông. 1936. Huyền Trân công chúa. Impr. de Lê Cường. Hà Nội.
Sĩ Tiến. 1942. Huyền Trân công chúa. (Ca kịch lịch sử). Hương sơn. Hà Nội.
Bình An. 1988. Huyền Trân công chúa (Truyện tranh); Minh hoạ: Văn Hiếu. Nxb Tổng hợp Sông Bé. Sông Bé.
Ngọc Đức, Văn Án. 2008. Huyền Trân công chúa Trần triều. Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội.
12Xem thêm một số biện luận thú vị khác: “theo phong tục tập quán của người Việt Nam thời gian “Phong Long” là ba tháng mười ngày, người ta thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây có cây xương rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở cho người đàn ông biết chỉ được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!“ Lê Vy. Sự thật Huyền Trân công chúa “tư thông” với Trần Khắc Chung. (http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html)
13Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). 1988. Thơ văn Lý Trần (Tập II, Quyển Thượng). Nxb KHXH. H. tr. 593-596.
14Trần Quốc Cương (viết). 1348. Thiên Liêu sơn Tam Bảo địa. Đặt tại núi Thiên Liêu (núi Thung) xã Yên Đức, huyện Đông Triều. Quảng Ninh.
(...) [1305], tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.
(...) [1306], (...). Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.
(...) [1307], (...). Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết. (Tháng 9) Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.
Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội Hành khiển Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: “Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hãi né tránh2.
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, hàng loạt các sử thần trung đại cho đến các sử gia hiện đại đã mặc nhiên coi những ghi chép trên là không còn điều gì phải bàn cãi. Các nhà văn, nhà thơ nhiều đời cũng dựa vào đó để sáng tác thơ ca, và viết nên những pho tiểu thuyết lịch sử về mối tình oan trái mang tính tay ba của Huyền Trân - Chế Mân - Trần Khắc Chung. Cho đến năm 2013, giáo sư Keith W. Taylor vẫn nhắc lại câu chuyện trên mà không có chút nghi vấn gì về tính chất sử liệu và những điểm khúc khuất đằng sau chuyện này3.
Những sử liệu về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân ở trên có thể thấy là đã được nhìn qua lăng kính của người đời sau, cụ thể là qua lăng kính của Ngô Sĩ Liên với lối sử bình đậm đà tinh thần Nho giáo. Nếu tính từ thời điểm năm 1306 đến năm Ngô Sĩ Liên soạn Toàn thư (nửa cuối thế kỷ XV), quãng cách thời gian khoảng 150 năm, chúng ta không biết Ngô Sĩ Liên đã biên soạn đoạn này trên cơ sở những nguồn sử liệu nào. Nhưng như những gì chúng tôi đã từng chứng minh, có một nguồn tiếp thu khá quan trọng của Toàn thư, đó là truyền thuyết dân gian, như trường hợp “chú bé mồ côi- cờ lau dựng nước” của Đinh Bộ Lĩnh chẳng hạn4.
Có hay không chuyện Huyền Trân bị hỏa táng?
Như sử liệu trong Toàn thư thì lúc Chế Mân chết có khả năng Huyền Trân đang mang thai. Vì sao chúng tôi suy luận như vậy? Bởi theo Toàn thư, đến tháng chín, Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần mang voi trắng đến tiến cống. Nhiều người nghĩ rằng, lúc này Chế Đa Da “sai sứ” thật, hoặc như Ngô Thì Sĩ lại đồng nhất Chế Đa Da là Chế Chí (sic, con của Chế Mân, anh của Chế Đà A Bà Niêm, Chế Chí là vua nối ngôi sau Chế Mân). Nhưng thực ra, đây là một nghi lễ ngoại giao với hàm nghĩa báo tin cháu ngoại của Trần Nhân Tông (tức Chế Đa Da) chào đời. Bởi ngay đoạn sau đó, Toàn thư ghi rằng đoàn Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân và thế tử Chế Đa Da về. Như vậy, Chế Đa Da có khả năng sinh vào tháng Tám năm đó. Tức là khi Chế Mân mất, Huyền Trân mới mang thai Đa Da khoảng bốn tháng. Không có lý gì lại đưa một sản phụ cùng đứa con trong bụng lên giàn hỏa thiêu?
Mặt khác, theo Po Dharma, những ghi chép về tục lệ hỏa thiêu của Chiêm Thành (trong Toàn thư) là không chính xác. Thứ nhất, nếu theo truyền thống Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được phép huỷ thân trên giàn hỏa với đức vua quá cố. Chữ “chính thức” ở đây nghĩa là “một người có dòng máu hoàng gia Champa” - một hoàng gia với chế độ mẫu hệ (chứ không phải là mẫu quyền)5. Trong khi đó, Huyền Trân (được phong làm hoàng hậu Paramecvari) chỉ là vợ thứ ba của Chế Mân, hoàng hậu cả là người Chăm, bà hai là người gốc Jawa. Thứ hai, theo Dominique Nguyen (tức Nguyễn Ðố), tục lên giàn hỏa là một vinh dự lớn lao chỉ dành riêng cho bà hoàng hậu nhằm bày tỏ lòng thủy chung của mình đối với chồng, với điều kiện phải được hội đồng hoàng gia chấp thuận. Ông cũng cho biết, trong suốt 18 thế kỷ của tiến trình lịch sử ở Champa, người ta đã ghi nhận chỉ có vài bà hoàng hậu được nhận ân huệ của hội đồng hoàng gia để lên hỏa đàn chết theo chồng. Thứ ba, theo luật Champa, lễ hỏa táng vua mới mất được thực hiện trong ngày đẹp nhất trong vòng một tháng sau khi vua băng hà. Như vậy, lễ hỏa thiêu đó có lẽ phải được thực hiện trong tháng Năm hoặc đầu tháng Sáu năm 1307, trong khi đó, sứ đoàn Trần Khắc Chung khởi hành vào tháng 106.
Từ những lý do như trên, chúng tôi cho rằng, không có chuyện Huyền Trân bị hỏa thiêu, vì thế cũng không có chuyện giải cứu Huyền Trân như Toàn thư đã viết.
Có hay không chuyện Huyền Trân ám sát Chế Mân?
Với những lý lẽ đưa ra về nghi thức và thể chế tùy táng trong Hoàng gia Champa, Dominique Nguyen có đưa ra giả thuyết khá thú vị rằng Huyền Trân đã thực hiện âm mưu ám sát Chế Mân. Ông viết như sau: “Chúng tôi không nói là Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có chăng Huyền Trân đã làm một việc phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái chết của Chế Mân thành ra mới tìm cách chạy trốn. Chính đây mới là chìa khóa quan trọng trong vụ tình sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và Huyền Trân.”7
Dominique Nguyen cũng dùng các chữ “dùng mưu gian trá” cướp công chúa về Thăng Long để liệt Ngô Sĩ Liên vào người cùng quan điểm. Nhưng dường như nhà nghiên cứu này đã đi quá xa với giả thuyết của mình, khi ông đưa ra kết luận rằng: “Một khi giải pháp quân sự không còn hiệu nghiệm để chinh phạt Champa nữa, vua chúa Ðại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê tiện hơn, đó là dùng mỹ nhân kế để phục vụ cho ý đồ chính trị. Vì quyền lợi chung của dân tộc, vua chúa Ðại Việt không cần nghĩ đến thế nào là danh dự của một quốc gia, dù là quốc gia hùng mạnh gấp bội so với lực lượng quân sự Champa thời đó. Năm 1306, vua Trần Nhân Tông tìm cách dâng hiến con gái của mình là Huyền Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương nước ngoài mà tuổi đã già, để đổi lấy hai châu Ô và Lý. Ngô Sĩ Liên, tác giả của ÐVSKTT là người đầu tiên đã lên án nhà Trần. Vì lòng tham lam một mảnh đất ở châu Ô và Lý, vua Trần Nhân Tôn không còn biết đâu là thể diện của vương quốc Ðại Việt để rồi bán đứng trinh tiết con gái của mình cho một người không cùng giống nòi.”8
Cứ cho rằng Huyền Trân ám sát Chế Mân, thì chúng ta buộc phải trả lời hàng loạt câu hỏi. Vì sao Huyền Trân phải giết chồng mình và cha đứa trẻ mà mình mang trong bụng? Nếu đã giết Chế Mân, thì làm sao có thể thoát được tội chết? Chế Mân chết thì Đại Việt được gì, Huyền Trân được gì? Hay là sau khi Chế Mân chết, cuộc đời Huyền Trân cũng sụp đổ để cuối cùng năm 1308, bà cắt tóc đi tu, còn Đại Việt và Champa lại rơi vào hai chiến tuyến với những cuộc chiến tranh liên tiếp kể từ năm 1311.
Thế nhưng, cũng chính theo Dominique Nguyen, “bà Tapasi, hoàng hậu gốc người Jawa cũng trở về nước sau ngày Chế Mân từ trần.”9 Như vậy thì việc các bà hoàng hậu người ngoại quốc trở về nước mình là một nghi thức mang tính chế định của triều đình Champa. Việc Huyền Trân cùng con trai Chế Đa Da trở về Đại Việt là theo thông lệ ngoại giao, có sự ủng hộ và thỏa thuận giữa hai nước. Theo sự kiện mà Toàn thư đã ghi về việc cống voi trắng của Chế Đa Da, thì rõ ràng đoàn cống sứ này ngoài việc báo tin “đản sự” (sinh hạ thế tử), còn mang thêm thông tin “gợi ý” cho triều đình Đại Việt sang Champa đón công chúa và thế tử trở về. Đó chính là lý do khiến đúng một tháng sau, đoàn Trần Khắc Chung đến Champa. Mặt khác, theo quan niệm của Hoàng gia Champa (một hoàng gia theo chế độ mẫu hệ), thì Chế Đa Da (dù là con trai, dù là thế tử) thì cũng chỉ là một kẻ “khác máu” - không có giá trị huyết thống và cũng không có tư cách để thừa kế bất kỳ thứ gì từ triều đình đó10. Việc trả Chế Đa Da về Đại Việt cùng với Huyền Trân là một việc không có gì đáng phải bàn cãi.
Như vậy, giả thuyết Huyền Trân ám sát Chế Mân của Dominique Nguyen chưa có cơ sở. Và vì thế cũng không có chuyện nhóm Trần Khắc Chung phải lập mưu cướp công chúa về Đại Việt. Toàn thư đã chép đoạn này trên một truyền bản tin đồn hoặc huyền thoại thất thiệt (fakelore) vào đời sau. Câu chuyện đó chỉ có ý nghĩa đối với những sáng tác văn học mà hầu như lại rất có hại đối với lịch sử và sử học.
Và mối tình huyền thoại
Dựa trên những ghi chép trong Toàn thư, các nhà văn, nhà thơ thời hiện đại đã sáng tác rất nhiều câu chuyện văn học xung quanh cuộc tình giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung. Nhiều người đã dựng nên câu chuyện tình ngang trái giữa cặp trai tài gái sắc: hai người có tình cảm từ trước đó, nhưng do lệnh của hoàng đế Nhân Tông, nên đành “gác lại tình riêng vì việc nước”11.
Trước nhất là chuyện “trai tài gái sắc”. Các nhà biên soạn có thể viện dẫn rằng có thể hư cấu một số tình tiết trong các tác phẩm nghệ thuật lịch sử (tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử). Nhưng theo chúng tôi, những hư cấu nghệ thuật bao giờ cũng nên căn cứ trên logic lịch sử. Còn ở đây, chuyện “trai tài gái sắc” là cố gắng “gọt chân cho vừa giày” để biện minh cho “tính chính đáng” của mối quan hệ giữa hai người. Xét về tuổi thì Huyền Trân sinh năm 1287, trong khi vào thời điểm này, Trần Khắc Chung đã là một trụ cột của triều đình Đại Việt trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (lần hai và ba), năm 1288 vì có tài ngoại giao, Khắc Chung đã sang sứ nhà Nguyên. Như vậy, về tuổi tác, Khắc Chung hơn Huyền Trân quãng 20- 30 tuổi.
Mặt khác, như sử liệu đã dẫn trong Toàn thư, Trần Khắc Chung chính là người thuộc phe ủng hộ Trần Nhân Tông gả Huyền Chân sang Chiêm Thành. Cho nên, nhiệm vụ đi đón Huyền Trân được giao cho ông là điều dễ hiểu. Vì thế không có chuyện “mượn cớ viếng tang để cướp công chúa về nước”. Chúng tôi cũng nhắc lại một lần nữa rằng, đoạn chép trong Toàn thư từ “theo tục lệ Chiêm Thành,..” đến “Khắc Chung thường sợ hãi né tránh” là đoạn có thể được biên soạn thông qua một nguồn tin phi chính thống. Bởi đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở đoạn trên như đã phân tích. Với lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, đoạn này có khả năng đã xuất hiện muộn nhất từ giữa thế kỷ XV (cách thời điểm xảy ra sự kiện 150 năm).
Thêm nữa, như trên đã phân tích, khi lên thuyền về Đại Việt, Huyền Trân lúc ấy mới sinh con được vài tháng, tức là lúc đó có khả năng còn đang ở cữ12. Thuyền đưa Huyền Trân về nước cũng không phải là kiểu “thuyền nhẹ“ (như Toàn thư ghi) chỉ chở được một vài người để rồi mối tình nảy sinh trong quá trình lênh đênh sóng nước, mà thuyền ấy phải chở cả một đoàn gồm: Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung (trưởng đoàn), An phủ Đặng Văn (phó đoàn), cùng các tùy tòng, thủy thủ đoàn, thị nữ (để hầu hạ hoàng hậu),... tổng cộng cũng phải vài chục người.
Rồi như ta biết, Huyền Trân xuất gia năm 1308, sau khi về nước một năm. Còn Trần Khắc Chung có khả năng cao cũng là một người theo Phật, hiểu Phật, cho nên ông mới được vua Trần Anh Tông (1276 – 1320) sai viết lời bạt cho sách Thượng Sĩ ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291)13, thầy của đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Đến cuối đời, Trần Khắc Chung và vợ - Công chúa Bảo Hoàn - đã cúng ruộng trang Ma Liêu (Đông Triều) của mình làm của Tam Bảo để nghĩa đệ của mình là sư Hương Lâm trông coi14.
Dẫu biết rằng thời nhà Trần, quan hệ tình ái khá phóng khoáng. Nhiều người cũng có thể giữ quan điểm cho rằng trên đời có chuyện gì mà không xảy ra. Mối quan hệ Huyền Trân- Khắc Chung có thể có mà cũng có thể không. Thực tế lịch sử thế nào, không ai dám nói chắc chắn. Người nghiên cứu chỉ dựa trên sử liệu, còn sử liệu thì lại được tạo tác bởi nhiều động cơ và mục đích khác nhau. Trần Nhân Tông từng bị người đương thời đàm tiếu vì tội gả con gái cho loài man di mọi rợ, hay Trần Khắc Chung bị chửi rủa như loài “chó lợn” (chữ của Ngô Sĩ Liên) vì đã động đến công chúa. Nhưng đến thế kỷ XX, người thì được tung hô vì đem lại hai mảnh đất cho Việt Nam, người thì được ngợi ca bởi việc phá bỏ gông cùm phong kiến, mở đường cho luyến ái cá nhân. Sau nhiều thế kỷ, Huyền Trân công chúa đã đi vào thần điện Việt Nam, trở thành một vị nữ thần được thờ phụng. Để kết thúc bài viết này, xin trích lại lời của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch nước, khi viếng thăm đền thờ Huyền Trân công chúa: “Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những vấn đề của quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ”. Lịch sử không chỉ sống động bởi sự biến động của các nguồn sử liệu mà còn bởi những mục đích mà người đời sau sử dụng nó, một cách hữu thức và vô thức.
-------------------
1 Do độ dài hạn chế, chúng tôi chỉ lược dẫn. Các đoạn lược bỏ để trong (...). Một số thông tin đáng chú ý sẽ được in đậm.
2 Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.90-92.
3Keith Weller Taylor. 2013. A History of the Vietnamese. Cambridge University Press. New York. pp.141.
4Trần Trọng Dương. 2013. Đinh Bộ Lĩnh: huyền thoại và lịch sử. Tạp chí Tia Sáng. Số tháng 7/2013.
5Po Dharma. 2007. Góp phần tìm hiểu lịch sử Champa. http://www.champaka.info
6Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.91.
7Dominique Nguyen. 2008. 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Champaka số 09/ 2008. tr.40-56. www.champaka.info
8Dominique Nguyen. 2008. bđd.
9Dominique Nguyen. 2008. bđd.
10“Như thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm chúa Chiêm Thành mà sự kiện cậu bé về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm dứt một giai đoạn hòa hoãn của hai nước vì tình thế bên ngoài trong khi các vấn đề bên trong giữa hai nước vẫn chưa giải quyết được. Xung đột trở lại là điều tất yếu”. [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam. Văn Mới. USA. Tr.257].
11Viết Linh. 2005. Chuyện tình Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử). NxbThanh niên. Hà Nội.
Trần Kim Bằng (s.t). 2008. Chèo cổ Trần Huyền Trân. - Nxb Hà Nội. Hoàng Giác. 1949. Huyền Trân (nhạc): - In lần thứ 1. – Nxb Thế giới. Hà Nội.
Hoàng Quốc Hải. 1993.Huyền Trân công chúa (Tiểu thuyết lịch sử) - In lần 2 có bổ sung. Nxb Phụ nữ. Hà Nội.
Phạm Minh Thảo. 2007. Huyền Trân công chúa. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
Phạm Huy Thông. 1936. Huyền Trân công chúa. Impr. de Lê Cường. Hà Nội.
Sĩ Tiến. 1942. Huyền Trân công chúa. (Ca kịch lịch sử). Hương sơn. Hà Nội.
Bình An. 1988. Huyền Trân công chúa (Truyện tranh); Minh hoạ: Văn Hiếu. Nxb Tổng hợp Sông Bé. Sông Bé.
Ngọc Đức, Văn Án. 2008. Huyền Trân công chúa Trần triều. Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội.
12Xem thêm một số biện luận thú vị khác: “theo phong tục tập quán của người Việt Nam thời gian “Phong Long” là ba tháng mười ngày, người ta thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây có cây xương rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở cho người đàn ông biết chỉ được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!“ Lê Vy. Sự thật Huyền Trân công chúa “tư thông” với Trần Khắc Chung. (http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html)
13Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). 1988. Thơ văn Lý Trần (Tập II, Quyển Thượng). Nxb KHXH. H. tr. 593-596.
14Trần Quốc Cương (viết). 1348. Thiên Liêu sơn Tam Bảo địa. Đặt tại núi Thiên Liêu (núi Thung) xã Yên Đức, huyện Đông Triều. Quảng Ninh.
Chép lại từ tapchisonghuong.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét