BAVH
- là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề:
“Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô
Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san
này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại
Việt Nam và Pháp từ năm 1914 đến năm 1944. Thế là tròn 100 năm ra đời bộ tạp chí danh tiếng này.
Trang bìa một số tập của BAVH
Người sáng lập và là
Tổng biên tập của tạp chí này là Linh mục Léopold Michel Cadière (thường
gọi tên Việt là Cố Cả). Tạp chí lúc đầu có trên dưới 10 người gồm cả
người Việt và người Pháp đảm nhiệm, về sau thì đông hơn. Số cộng tác
viên [CTV] tham gia viết bài ngày càng gia tăng. Tính đến số cuối cùng
của bộ tạp chí này thì số CTV lên tới hơn 140 vị, gồm các nhà nghiên cứu
Pháp và Việt (trong đó Việt Nam hơn 30 người).
Toàn bộ của tạp chí BAVH này đã ấn hành được 121 tập và 1 tập danh mục. Thông thường thì mỗi năm tạp chí ra mắt bạn đọc được 4 số riêng biệt (3 tháng 1 số). Nhưng cũng có năm xuất bản ghép vài số thành một tập.
Về
hình thức của bộ tạp chí BAVH đơn giản, nhưng rất trang trọng, in ấn
rõ ràng. Tờ bìa mỗi tập đều được trang trí hoa văn, tranh ảnh cổ xưa
khác nhau. Bên trong tạp chí, các sơ đồ, bản đồ được ghi chú mạch lạc,
cẩn thận, các tranh ảnh khá điển hình, nổi bật. Tranh ảnh được trình bày
trong BAVH hầu hết đều do các tác giả, nghệ nhân, họa sĩ Việt Nam và
Pháp thực hiện.
Về
nội dung của BAVH thì rất phong phú, đa dạng các vấn đề về văn hóa nghệ
thuật, giáo dục, xã hội, nhân văn, lịch sử, địa lý, dân tộc học, thương
mại, môi trường, du lịch v.v…
Trong
toàn bộ BAVH có gần 500 bài viết gồm nhiều lĩnh vực và hơn 30 bài tiểu
dẫn, chú giải quan trọng. Phần đông các tác giả Pháp và Việt Nam đã dành
nhiều thời gian tham khảo, thu thập tư liệu, đi điền dã thực tế rồi
nghiên cứu viết bài cho tạp chí. Chẳng hạn như ông Cadière viết được
trên 50 bài; ông Orband -30 bài; Coserat -hơn 30 bài; Nguyễn Đình Hòe
-10 bài; Ưng Trình -trên 10 bài v.v… Cũng có những bài mà tác giả là cả
Pháp và Việt cùng nhau viết chung như bài: “Liệt kê các miếu thờ tự của Huế” của Sallet và Nguyễn Đình Hòe (số1/1914), như bài: “Việc ban hành những luật lệ mới…” của Orband và Hoàng Yến (số 4/1917), hoặc như bài: “Bia lăng Thiệu Trị” của Laborde và Nguyễn Đôn (số1/1918); v.v…
Đặc
biệt là ông Cadière là một người Pháp đã sống ở Việt Nam rất lâu (hơn
50 năm, mà chủ yếu là sống ở Huế và Quảng Trị). Cuối đời ông, ông muốn ở
lại Huế. Đến năm 1955, ông đã từ trần. Mộ của ông trong nghĩa trang của
Đại chủng viện Huế tại Kim Long.
Nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cho rằng những nguồn thông tin tư
liệu đã được đăng tải trong bộ BAVH này phần nhiều là rút ra từ những tư
liệu có sẵn trong các sách cổ xưa ở Việt Nam và ở Pháp cùng với những
vấn đề đã được khảo sát qua các cổ vật, chứng cứ thu thập được trên thực
tế đã làm tăng thêm độ tin cậy cho người đọc. Tuy vậy, cũng có một số
tư liệu còn mang tính phỏng đoán, suy luận nên cũng có những mặt hạn chế
về tính khách quan, chân thực của chúng. Và điều đó thì cũng là lẽ
thường gặp trong một số bài nghiên cứu trước đây cũng như hiện nay. Tất
nhiên qua quá trình sử dụng các tài liệu trong bộ BAVH, người ta sẽ tìm
thấy được những cái gì có hàm lượng lớn về tính khoa học thì có độ tin
cậy và giá trị của nó càng cao.
Chính
vì sự phong phú về nội dung của BAVH mà đã hấp dẫn các nhà nghiên cứu
ngày nay. Họ luôn luôn gắn bó một cách mật thiết và trân trọng. Thậm chí
có nhiều người coi BAVH như một kho tài liệu lớn để khai thác nhiều
loại “tài nguyên” của đất nước và con người Việt –Pháp, mặc dù chưa phải
là đầy đủ và toàn diện cho lắm.
Đặc
biệt, trong toàn bộ tập san này có hơn 50 công trình nghiên cứu về Việt
Nam của L.Cadière đã được đăng, trong đó có mấy chục bài nghiên cứu về
Huế. Ngoài ra, có một quyển riêng “L’Art a Huế” (nghệ thuật ở Huế).
Quyển này đã được tái bản mấy lần với hàng trăm bức ảnh có giá trị nghệ
thuật cổ xưa tại Cố đô Huế.
Nội
dung tài liệu trong bộ tạp chí này rất quý giá về nhiều lĩnh vực, nhất
là về dân tộc học, lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội… Đây là tạp chí khoa
học có giá trị nhất của toàn cõi Đông Dương hồi đó. Các thiên khảo cứu
vẫn còn mang tính thực tiễn sâu sắc đối với các nhà nghiên cứu ngày xưa
và cả ngày nay. Một phần nhỏ của bộ tập san BAVH này đã được dịch ra
bằng tiếng Việt (do nhóm dịch thuật tại Huế đã biên dịch) để tiện bề
tham khảo nghiên cứu đối với các nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngoài
ra, còn có nhiều tác phẩm của L.Cadière rất có giá trị cho việc tham
khảo nghiên cứu khoa học ngày nay. Chẳng hạn như:
1. Les irrigations en Annam (Những việc thủy lợi ở An Nam) - Léopold Cadière. - Hanoi : L'Avenir du Tonkin, [?]. 4 articles.
2.
Le Projet de réforme de l'Instruction en Indochine (Dự Án Cái Cách Học
chính tại Đông Dương ) Léopold Cadière. - Hanoi : L'Avenir du Tonkin,
[?]. 5 articles.
3. Sauvons nos pins (Hãy cứu lấy những cây thông của chúng ta ) BAVH p. 437-443;
4.
Monuments et souvenirs chams du Quang-Tri et du Thua-Thien (Các công
trình và kỷ niệm Chàm của Quảng-Trị và Thừa Thiên )- par L. Cadière. -
Hanoi: F. -H. Schneider, 1905. - [10] p.; 27 cm. Extr. de: BEFEO 5
(190(5) 185-195.
5.
Les Hautes vallées du Song-Gianh (Các thung lũng miền thượng của Sông
Gianh) - par L. Cadière, de la Société des Missions étrangères de Paris,
corespondant de l'Ecole française d'Extrême-Orient. - Hanoi: F. - H.
Schneider, 1905. - [19] p.; 27 cm. Extr. de: BEFEO 5 (1905) 349-367.
6.
Chansons populaires recueillies dans la province de Quang-Binh (Các bài
hát dân gian được thu thập trong tỉnh Quảng Bình ) par L. Cadière. -
Hanoi: IDEO, RI, 1905. - p. 1030-1034.
7.Plantes
alimentaires et médicinales du Quang-Binh et du Quang-Tri (Các loài cây
dùng làm thực phẩm và thuốc của Quảng Bình và Quảng Trị ) -L. Cdière. -
Hanoi: Bulletin des Etudes Indochinoises, 1905. - p. 894-896.
8.
Les tombeaux royaux de Hué (Các lăng mộ vua chúa ở Huế) -L. Cadière. -
Paris: Annales des Missions Étrangères, 1906.- p. 83-92.
9.
Le Mur de Dong-Hoi: étude sur l'établissement des Nguyên en Indochine
(Lũy thành Đồng Hới: nghiên cứu về sự thành lập của nhà Nguyễn tại Đông
Dương )- par L. Cadière. - Hanoi: BEFEO 6/1-2, 1906. - p. 87-254.
10.
Textes et documents relatifs à la réforme du quôc-ngu (Văn bản và công
trình liên quan đến việc cải cách quốc ngữ). par L. Cadière ; publ. par
la Direction générale de l'Instruction publique de l'Indo-Chine. - Hanoi
: F. H. Schneider, 1907. - 37 p. ; 28 cm. Tiré à part de l'Avenir du
Tonkin 1906.
11.
A la recherche des ruines chames (Đi tìm các tàn tích Chàm )-L.
Cadière. - Lyon: Les Missions Catholiques, 1906 p.1937-1941.
12.
Philosophie populaire annamite: Cosmologie (Triết lý dân gian An Nam:
Vũ Trụ Học )- L. Cadière. - St. Gabriel Mödling, Autriche: "Anthropos"
(Vienne) ; vol. II (1907) p. 116-127, 955-969, vol. III (1908) p.
248-271. – Hanoi 12: [réimpr. dans Revue Indochinoise] RI, 1909, p.
835-847, 974-989, 1189-1216.
13. Le Culte des Pierres en Annam =(Việc thờ tự đá ở An Nam) -L. Cadière. - Lyon : Les Missions Catholiques, 1911 p. 2209-2218.
14. La colonisation annamite des Terres Rouges du Gio-linh (Việc người Annam khai thác đất đỏ Gio Linh), BAVH, p. 207-210.
15.
De la nécessité d'établir en Indochine des réserves botaniques, avec
protection intégrale (Về sự cần thiết phải lập các khu rừng bảo vệ thực
vật ở Đông Dương), L. Cadière. -Hanoi: Taupin, INDO, 1942. - p. 8-9.
Theo khamphahue.com
Trích lại từ http://tapchisonghuong.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét