NHÀ VĂN MẠC NGÔN
Giải Nobel Văn chương 2012
ĐOÀN TỬ HUYẾN
NVTPHCM-
Mạc Ngôn được coi là một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của văn
học Trung Quốc và được Hiệp hội Nhà văn Châu Á bình chọn là một trong
những nhà văn có triển vọng nhất trong thế kỉ XXI. Sáng tác của ông là
sự kết hợp giữa những thủ pháp của chủ nghĩa hiện đại và bút pháp truyền
thống, giữa cái huyền ảo và cái hiện thực, làm thay đổi diện mạo nền
văn học đương đại Trung Hoa.
Mạc Ngôn (莫言 Mò Yán, nghĩa là “Kiệm lời”) tên thật là Quản Mạc Nghiệp (管谟业)
xuất thân từ một gia đình nông dân tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông.
Năm 12 tuổi, gặp Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976), ông phải bỏ dở tiểu
học và tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn, đi chăn dê, luôn bị đói
khát và cô đơn. Thời gian này, ông tự học và đọc sách rất nhiều, say mê
tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovski(1)
(Nga), Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba, Bài ca thanh xuân của Dương Mạt,
tiếp nhận các tác phẩm văn học Khai Sáng (thế kỉ XVIII) của Phương
Tây…. Năm 1976, Quản Mạc Nghiệp nhập ngũ, nhờ tự bồi dưỡng trở thành
giáo viên trong quân đội; năm 1984, ông trúng tuyển vào Khoa Văn thuộc
Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986, rồi chuyển
sang hoạt động trên lĩnh vực báo chí và viết văn chuyên nghiệp; từ năm
1988 – 1991 làm nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn,
trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Tuổi thơ chịu đựng đói nghèo, trải qua
những lo lắng tủi nhục về miếng cơm manh áo trong thời kì kinh tế bần
cùng, chính trị bất ổn khiến nhà văn tương lai có cái nhìn về cuộc đời
và con người một cách chân thực và sâu sắc, ảnh hưởng rõ nét đến tính
cách và sáng tác của ông.
Năm 1981: Bắt đầu sáng tác
Năm 1981, Quản Mạc Nghiệp bắt đầu công bố các tác phẩm đầu tay, trong đó có Sông khô (枯河 – Khô hà), Thu thủy (秋水), Âm nhạc dân gian (民间音乐 - Dân gian âm lạc); tiếp đó ông viết Sửu binh (丑兵 - Sửu binh, 1982), Vì con (为了孩子 - Vị liễu hài tử, 1982), Đường lớn nhặt bông (售棉大路 - Thu miên đại lộ, 1983), Gió thổi trên đảo (岛上的风 - Đảo thượng chi phong, 1984), Sông ở trong mưa (雨中的河- Vũ trung đích hà, 1984)… mô tả cảnh vật nông thôn cổ xưa qua lăng kính của tuổi thơ. Nhưng phải đến truyện dài Củ cải đỏ trong suốt (透明的红萝卜- Thâu minh đích hồng la bốc, 1985), được đăng tải trên tạp chí Trung Quốc tác gia
và in thành sách ở Nhà xuất bản Tác gia xuất bản xã ông mới gây được sự
chú ý trên văn đàn. Từ đây bắt đầu xuất hiện bút danh Mạc Ngôn do ông
tách chữ Mạc 谟 trong tên ông có nghĩa là “cơ mưu” thành hai chữ 莫 Mạc (không có) và 言 Ngôn (lời nói), ngụ ý là không nên nói nhiều, như lời cha mẹ dặn.
Năm 1986: Cao lương đỏ
Năm 1986, Mạc Ngôn cho ra mắt tiểu thuyết Cao lương đỏ (红高粱)
gây xôn xao dư luận, được độc giả bình chọn là “Tác phẩm tôi yêu thích
nhất năm 1986”. Đây là hồi ức của người xưng ''tôi'' kể về chuyện đời
oai hùng và chuyện tình kì lạ của ông bà nội mình - Từ Chiếm Ngao và Đái
Phượng Liên – trong bối cảnh của miền quê Cao Mật ở miền Nam Trung Hoa
vào những năm 1920 - 1930. Cô gái xinh đẹp Phượng Liên vừa tròn mười sáu
tuổi bị cha mẹ tham giàu gả cho con tài chủ họ Đơn bị bệnh hủi. Đoàn
đưa dâu trên đường về nhà chồng gặp bọn cướp chặn đường, anh phu kiệu Từ
Chiếm Ngao(2), vốn nguyên là thổ phỉ, đã dũng cảm chống trả;
từ đó cô có cảm tình với anh. Hai đêm tân hôn với chồng, nhờ có con dao
nhọn giấu sẵn trong người, cô vẫn giữ được mình trinh nguyên. Ba hôm
sau, Từ Chiếm Ngao chặn đường bắt cóc Phượng Liên khi cô về thăm bố mẹ,
và nghe tiếng gọi của tình yêu cuồng nhiệt, hai người ân ái giữa cánh
đồng cao lương. Khi quân Nhật xâm lược kéo đến tàn phá quê hương, Từ
Chiếm Ngao tập hợp nghĩa quân chống giặc, trở thành một Tư lệnh anh hùng
của quân du kích. Phương Liên cũng trở thành du kích cùng chiến đấu bên
cạnh Từ Chiếm Ngao, và một lần bà đã đón nhận cái chết thật nhẹ nhàng,
thanh thản… Các nhân vật trong Cao lương đỏ đầy khí phách, sống
ngang tàng và lạc quan như những ngọn cao lương vút thẳng tắp lên trên
bầu trời Cao Mật - một nét điển hình sẽ lặp lại trong nhiều tác phẩm của
Mạc Ngôn. Với họ, cao lương là cuộc sống, là khí trời, là tình yêu, là
tất cả. Cao lương là nơi họ trở thành kẻ cướp, thổ phỉ, cũng là nơi họ
trở thành anh hùng cứu quốc, là không gian để họ yêu, họ chết… Cao lương đỏ
là tác phẩm thuộc dòng văn học "phản tư" của Trung Quốc, nhìn lại chặng
đường lịch sử đã qua, nhìn lại cha ông và nhìn lại chính mình và là
cuốn sách mở đầu cho bộ tác phẩm Gia tộc Cao lương đỏ (红高粱家族
- Hồng cao lương gia tộc) gồm Cao lương đỏ, Rượu cao lương, Nhà quàn
cao lương, Cẩu đao, Da chó. Tác phẩm được giải thưởng văn học Mao Thuẫn
năm 1985 - 1986, giải thưởng văn học quốc tế của Italia năm 2005. Bộ
phim cùng tên do Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải
Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994.
Từ năm 1987: Giai đoạn sáng tác sung sức
Năm 1987, truyện dài Hoan lạc (欢乐) của Mạc Ngôn đăng tải trên tạp chí Nhân dân văn học,
kể về một thanh niên rời quê nhà ra thành phố, nơi diễn ra những niềm
hoan lạc điên cuồng của thời mở cửa và cả những suy ngẫm của thân phận
con người. Tác phẩm nhận được nhiều bình luận từ phía người đọc và nhà
phê bình. Mùa thu cùng năm, tiểu thuyết Châu chấu đỏ (红蝗 -
Hồng hoàng), một câu chuyện kì lạ và táo bạo về tính dục thể hiện một
phong cách viết dữ dội và tinh thần mãnh liệt của ngòi bút tác giả. Châu chấu đỏ cùng với Cao lương đỏ, Củ cải đỏ trong suốt tạo thành bộ ba tác phẩm Mạc Ngôn tam hồng làm nên “hiện tượng Mạc Ngôn”. Năm 1989, tiểu thuyết (tạm dịch) Hình chó trắng trời thu (白狗秋千架 - Bạch cẩu thu thiên giá) của ông được giải thưởng của báo Đài Loan. Mùa xuân năm 1991, ông sáng tác truyện vừa Hoa bông trắng (白棉花 - Bạch miên hoa) là thiên sử thi về cây bông và số phận những con người gắn bó với cây bông trên vùng đất quê hương nhà văn. Gặp lại chiến hữu (战友重逢 -
Chiến hữu trùng phùng)(3) là tiểu thuyết viết về số phận những người
lính trong cuộc chiến tranh nơi biên giới Trung - Việt. Năm 1993 là thời
điểm ra đời một trong những tác phẩm được đánh giá cao của Mạc Ngôn là Tửu quốc (酒国).
Năm 1995: Phong nhũ phì đồn
Tiểu thuyết Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀)(4)
ra đời vào tháng 9 năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng
cao nhất về truyện, nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học ở Trung
Quốc. Tác phẩm khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng
của đất nước Trung Hoa từ đầu thế kỉ XX tới những nãm mở cửa cuối thế
kỉ thông qua số phận các thế hệ một gia đình. Lỗ Toàn Nhi là một cô gái
nhà quê, 16 tuổi lấy chồng là Thượng Quan Thọ Hỉ; mẹ chồng khát cháu
trai nối dõi tông đường nhưng vì chồng bất lực nên Lỗ Toàn Nhi lấy giống
đàn ông thiên hạ sinh ra một đàn tám gái, một trai, với đủ mọi thành
phần xã hội, đủ mọi giống người. “Phong nhũ phì đồn” là chỉ sự sinh sôi
ấy; hình ảnh Lỗ thị là biểu tượng người phụ nữ Trung Quốc trong một xã
hội vừa nhiễu nhương vừa coi rẻ nữ giới. Chỉ riêng với sự “phong phì” ấy
Lỗ thị đã xứng đáng là một bà mẹ vĩ đại. Còn đám con, được sinh ra
trong lúc đất nước đang cơn biến thiên, chia rẽ, họ mỗi người chọn một
con đường, một cách sống, một cách chết, đồng lòng hoặc thù ghét nhau
theo sự chọn lựa chính kiến trên đường đời khổ ải, nhưng họ có một điểm
tựa chung là người mẹ Lỗ thị. Phong nhũ phì đồn ngợi ca thiên chức, ngợi
ca cái đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh những bầu vú hiện ra khi đứa con
trai Kim Ðồng nằm canh mộ mẹ ngước nhìn lên trời gợi nên suy ngẫm “Báu
vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là
vú to mông nẩy” – có thể nói, cả lịch sử đất nước được nhà văn tóm gọn
trong bốn chữ ấy - phong nhũ phì đồn! Trong tác phẩm này, Mạc Ngôn sử
dụng thủ pháp nghệ thuật hòa quyện giữa hiện thực và hư ảo với chằng
chịt những mối quan hệ giữa các nhân vật. Trong các năm giao thời giữa
hai thế kỉ, nhà văn xuất bản thêm nhiều tiểu thuyết như Trâu (牛 – Ngưu, 1998), Cuộc thi chạy dài ba mươi năm (三十年前的一场长跑比赛 - Tam thập niên tiền đích nhất trường trường bào bỉ tái, 1998), Khóa ngón tay cái (拇指铐 - Mẫu chỉ khảo, 1999), Chú Bảy của chúng tôi (我们的七叔 - Ngã môn đích thất thúc), Con trai kẻ thù (儿子的敌人 - Nhi tử đích địch nhân, 1999)...
Năm 2001: Đàn hương hình
Mạc Ngôn bắt đầu viết tiểu thuyết Đàn hương hình (檀香刑, hình phạt
bằng cọc gỗ đàn hương) vào năm 1996, xuất bản năm 2001, năm 2003 giành
được giải văn học Mao Thuẫn với 100% phiếu bầu. Toàn bộ tác phẩm gồm ba
phần, 18 chương, và mỗi chương đều dùng phương thức nhân vật tự thuật,
cấu tứ bắt nguồn từ hí kịch Miêu Xoang, một loại nhạc dân gian rất thịnh
hành ở vùng Đông Bắc Cao Mật. Cuốn tiểu thuyết kể về những sự kiện lịch
sử xảy ra trên mảnh đất Cao Mật dưới thời nhà Thanh, từ sự xâm lược của
các thế lực đế quốc bên ngoài đến sự phản động của quan lại triều đình,
tất cả tập trung vào trường hợp oan gia khốc liệt giữa người đàn bà Tôn
Mi Nương, một phụ nữ đẹp nổi tiếng, tràn đầy sức sống, và bốn người đàn
ông: Tôn Bính - cha đẻ của Mi Nương, trạng nguyên của nghệ thuật hát
Miêu Xoang; Triệu Giáp - bố chồng của Mi Nương, trạng nguyên của nghề
đao phủ (số đầu người lão đã chặt còn nhiều hơn số dưa hấu trong vùng
mỗi năm); Tiểu Giáp - chồng Mi Nương, một anh thợ giết mổ chó đang tập
sự để nối nghiệp đao phủ của cha; và Tiền Đình - người tình của Mi
Nương, tên quan huyện có tài nhưng bạc nhược. Thông qua thảm kịch trớ
trêu và oan nghiệt (cha đẻ của Mi Nương trở thành phạm nhân cuối cùng
dưới “nghệ thuật giết người” điêu luyện của bố chồng nàng), nhà văn lên
án sự tàn bạo, độc ác của các triều đại phong kiến đã gây nên biết bao
sự đau thương, thảm khốc cho mỗi con người và gia đình. Qua Đàn hương
hình, người đọc biết được cả lịch sử của các hình thức tra tấn tử hình ở
Trung Quốc.
Những năm đầu thế kỉ XXI
Bước sang thế kỉ mới, Mạc Ngôn tiếp tục tạo được dư luận trong giới phê bình văn chương. Trong cuốn tiểu thuyết Bốn mươi mốt phát đạn pháo (四十一炮
- Tứ thập nhất pháo, 2003), bằng góc nhìn của một đứa trẻ, nhà văn
thuật lại những thay đổi của nông thôn Trung Quốc trong thập kỉ cuối của
thế kỉ XX, vừa có ý nghĩa hiện thực vừa phản ánh ảo tưởng của trẻ thơ.
Tác phẩm được đánh giá nhiều sáng tạo về ngôn ngữ và mang đậm tính thời
đại. Năm 2006, ông xuất bản Sống thác đọa đày (生死疲劳
- Sinh tử bì lao) kể về lịch sử nông thôn Trung Quốc trong suốt 50 năm
cuối thế kỉ XX, đặc biệt xoay quanh đề tài quan hệ giữa nông dân với đất
đai. Người kể chuyện trong tiểu thuyết chính là Tây Môn Náo - một địa
chủ của làng Tây Môn - bị bắn chết trong đợt cải cách ruộng đất và liên
tục trải qua sáu kiếp luân hồi: Tây Môn Lừa, Tây Môn Trâu, Tây Môn Lợn,
Tây Môn Chó và Tây Môn Khỉ. Trong thân xác loài vật, linh hồn của Tây
Môn Náo đối thoại với trần gian, với những phận người buồn bã trong bối
cảnh xã hội trải dài từ thuở cải cách ruộng đất qua cách mạng văn hóa
đến năm đầu thế kỉ mới, tất cả đều lăn lóc trong sự tranh chấp giữa tình
yêu và quyền lực, danh lợi và lương tâm. Tiểu thuyết Ếch (蛙)
của ông được xuất bản vào những ngày cuối năm 2009 với cốt truyện xoay
quanh cuộc đời và công việc của nữ bác sĩ chuyên đỡ đẻ ở khắp nông thôn
Cao Mật phải chuyển sang nghề thắt ống dẫn tinh cho nam giới và nạo phá
thai. Ở tác phẩm này Mạc Ngôn lại có sự đổi mới phong cách viết và nhanh
chóng thu hút đông đảo độc giả Trung Quốc.
Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt và được đón nhận nồng nhiệt.
* Một số bản dịch tiếng Việt:
- Cao lương đỏ, Lê Huy Tiêu dịch, tái bản nhiều lần.
- Báu vật của đời, Trần Đình hiến dịch, tái bản nhiều lần.
- Đàn hương hình, Trần Đình Hiếu dịch, tái bản nhiều lần.
- Rừng xanh lá đỏ, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn Học, 2003.
- Truyện, Lê Bầu dịch, NXB Văn Học, 2004.
- Bốn mươi mốt chuyện tầm phào, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn Học, 2004.
- Tửu quốc, Trần Đình Hiến dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2004
- Tạp văn Mạc Ngôn, Võ Toán dịch, NXB Văn Học, 2005.
- Chuyện của cậu bé hay nói khoác, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao động, 2005.
- Chuyện văn và đời, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao động, 2005.
- Tổ tiên có màng chân, Thanh Huệ, Bùi Việt Dương dịch, NXB Văn Học, 2006.
- Sống đọa thác đày, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Phụ Nữ, 2007.
- Thập tam bộ, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
- Tứ thập nhất pháo, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
- Con đường nước mắt, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Ma chiến hữu, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Bạch miên hoa, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Hoan lạc, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
Chú thích:
(1)
Nicolai Ostrovski (Николай Островский): Nhà văn nổi tiếng Liên Xô, được
xem là biểu tượng của niềm tin và nghị lực vươn lên trong cuộc sống của
nhiều thế hệ thanh niên trên thế giới, tác giả của tiểu thuyết Thép đã
tôi thế đấy được thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ say mê.
(2) Tên nhân vật này có dịch giả phiên là Dư Chiêm Ngao.
(3)
Cuốn sách Chiến hữu trùng phùng được dịch sang tiếng Việt là Ma chiến
hữu (Nhà xuất bản Văn Học, 2008) với cách làm bìa và quảng cáo cẩu thả,
lệch lạc đã gây phản ứng gay gắt trong dư luận bạn đọc.
(4)
Phong nhũ phì đồn nghĩa là Vú to mông nẩy, khi dịch sang tiếng Việt do
yêu cầu của cơ quan quản lí văn hóa dịch giả phải đổi thành Báu vật của
đời.
(Trích từ tập sách 108 nhà văn thế kỉ XX-XXI, Đoàn Tử Huyến biên soạn,
Nxb Lao Động – TT VHNN Đông Tây, 2012)
http://nhavantphcm.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét