Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Đọc lại các bài tạp văn cũ về Tạp chí VĂN


Tạp chí VĂN, một thời tôi tới Cao Thoại Châu



Thơ tôi đăng trên báo khá muộn so với tuổi tôi. Bài thơ đầu tiên lại là một bài lấy cảm hứng từ nghề nghiệp, tâm trạng một thầy giáo thời chiến tranh đang leo thang lấp ló cửa ngõ các thành thị miền Nam. Năm 1963 Tạp chí VĂN đang bài "Chỗ ngồi của nhà giáo thời chiến" đồng thời cũng là VĂN đã bóc tem bút danh Cao Thoại Châu của tôi.
Khi chọn báo để gửi, tôi đã nghĩ tới tờ VĂN lúc đó vốn có tiếng là chọn bài nghiêm ngặt, chọn địa chỉ này tôi nghĩ mình có thể khẳng định được chỗ đứng nhanh chóng hơn nếu mình thật sự có tài và có duyên nợ với thi ca. Và những gì diễn ra sau đó cho thấy suy nghĩ của tôi là đúng. Tất nhiên cảm giác của tôi vào một buổi chiều trong thị xã miền biên giới là rất lâng lâng khi ghé mua tờ VĂN thấy có bài của mình. Cảm tưởng này còn được gia cố thêm khi vài ngày sau đó tôi nhận thư của toà soạn ký Trần Phong Giao. Trong thư, anh Giao tỏ ra chăm sóc tôi và tin tôi có thể đi xa hơn. Và cũng qua thư, tôi hiểu tờ báo này "trọng dụng" những cây bút trí thức và...lính!. Thư đó và những thư sau, Trần Phong Giao hay gọi tên thực của tôi, hình như đó là kiểu của anh.
Điều tôi lưu ý tiếp theo với VĂN lại là cách làm việc giao tiếp phát hiện và trân trọng với cộng tác viên của người thư ký toà soạn. Từ bài thứ hai của mình, tôi không còn nằm trong "Những bài mới nhận được" mà là một vài dòng nhắn riêng của anh Giao, làm cho tôi có cảm giác mình không còn xa lạ với tờ báo nữa. Từ năm 1963 đó cho đến khi miền Nam có chủ mới, bút danh của tôi trở thành quen thuộc của tờ VĂN và điều này có nghĩa một sự quen thuộc của những người viết lúc bấy giờ.
Một tờ báo làm được cây cầu cho một tác giả đi vào nghiệp viết như VĂN đã làm, theo tôi là một tờ báo có trách nhiệm với văn chương.
Có điều là, trong từng ấy năm tôi chỉ gặp anh Giao có 2 lần. Lần thứ nhất vào năm 1972 khi tôi chạy theo đoàn người di tản khỏi Pleiku trong mùa hè đỏ lửa về Sài Gòn. Trần Phong Giao nhắn tôi đến nói là có việc cần. Một người ngăm ngăm đen và to con lúc nào cũng thấy hít dầu gió, tiếp tôi. Là người ít nói không quen những giao tiếp văn nghệ nhưng tôi thấy Trần Phong Giao còn ít nói hơn. Vừa làm việc anh vừa nói dường như chỉ một câu thăm hỏi gia đình ra sao trên đường di tản. Trao cho tôi một phong bì, anh nói "Nhuận bút của cậu đó", tôi hiểu vì thời ấy thơ không có nhuận bao giờ. Có thói quen khi làm việc không chia sẻ nên tôi chào anh mà về sau chỉ khoảng 15 phút.
Lần thứ hai tôi gặp anh là sau 1975, lúc tôi tìm lại những bài thơ trên VĂN để chuẩn bị in "Bản Thảo Một Đời". Quả đúng là con người mẫn cán và ngăn nắp, anh cho tôi coi đủ những số báo mà tôi cần, còn nhắc tôi những bài tôi không nhớ ra. Anh nói "Hai bài Mời em uống rượu" và "Để nhớ lúc Trâm xa" là hai bài thơ hay", đó là lần duy nhất tôi được nghe Trần Phong Giao nói về thơ mình. Hôm ấy hai anh em nhìn nhau hơi có phần tâm trạng khi ngồi ở một cái quán nhỏ tại Đakao, anh đãi tôi thịt dê và lần đầu tiên tôi biết tới thịt của con vật đầy tai tiếng này.
Lúc nhìn tủ sách nhà anh thấy những tờ VĂN xếp thẳng thớm trong tủ tôi thấy lòng mình có một cái gì đó như là bùi ngùi nhận ra đã hết hẳn những ngày tháng cũ trước làn sóng mới trùm phủ lên những người viết gọi là của Sài Gòn cũ. Một tờ báo khẳng định được tôn chỉ của mình, khẳng định được báo cho ai và do những ai viết như tờ VĂN, theo tôi là một tờ báo làm một cách tròn trịa vai trò của nó. Tôi còn nhớ, những lần đi chấm thi ở các tỉnh miền Trung thấy giới trẻ ở đó dường như coi VĂN là một cái đích mà họ phải đến, họ nhìn những ai có bài đăng trên đó như là...người thành công! Những người viết thuở đó còn đến hôm nay chắc sẽ hài lòng khi tôi nói chúng ta hầu như đều đi qua cái "cửa" VĂN này.
Giờ thỉnh thoảng đi qua con đường cũ thấy không còn dấu tích vật chất nào của tờ VĂN, những lúc như vậy tôi tự nhiên nghĩ tới những dấu tích văn chương của nó để lại hết sức lớn lao. Và làm sao mà lòng tôi không khỏi ngậm ngùi! "Thiên niên cự thất thành quan đạo/ Nhất phiến tân thành một cố cung", và "Những người muôn năm trước/ Hồn ở đâu bây giờ". Người xưa viết chẳng có sai một chút nào!./.


Ngày đăng: 16.02.2011




Về tác giả 
Cao Thoại Châu

Tên thật    Cao Đình Vưu
Sinh năm   1939
Quê quán   Nam Định
Lớn lên từ  Sàigòn
Hiện trú tại  Long An
Dạy học và làm thơ từ năm 1963
Có thơ đăng trên các báo & tạp chí :Nghệ Thuật , Văn , Văn Học,
Khởi Hành ,Đất Nước , Kiến Thức Ngày Nay , Long An Cuối Tuần.
Đã xuất bản :
- Bản thảo một đời ( thơ , Nxb Long An , 1992 )   - Ngựa Hồng (thơ NXB Thanh Niên 2009)

Ghi chú: một đoạn viết ngắn nhằm bổ túc tư liệu về một giai đoạn văn học trước 1975 Hoàng Xuân Sơn



Ghi chú? một cái tựa đề không giống con giáp nào. Thật ra, đây chỉ là một đoạn viết ngắn nhằm bổ túc tư liệu về một giai đoạn văn học trong nước trước 1975 qua những bài viết của Nguyễn Xuân Hoàng trên trang blog này (Tủ Sách Của Trần Phong Giao 1&2) và của các tác giả khác như Trần Hoài Thư, Trần Doãn Nho v.v. trên mạng Da Màu.


Ngoài những tạp chí tiên phong như Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Hiện Đại (?), Tân Phong . . ., phải công nhận Trần Phong Giao rất có công trong việc xây dựng tờ Văn thành một mảnh đất văn học nghệ thuật uy tín với nhiều hạt giống tốt. Thập niên 60 là thời kỳ cực thịnh của các diễn đàn văn nghệ : Văn [ Nguyễn Đình Vượng - Trần Phong Giao; kế thừa là Mai Thảo - Nguyễn Xuân Hoàng ], Văn Học [ Phan Kim Thịnh và nhóm anh em miền Trung, Quảng Nam, Quảng Ngãi . . .], Bách Khoa [ Lê Ngộ Châu, Võ Phiến . . .] .
Tờ Bách Khoa có vẻ thiên về chính trị hơn là văn học, tuy nhiên cũng quy tụ đươc. nhiều khuôn mặt văn nghệ trẻ khá nổi bật : Trần Huiền Ân, Hoàng Đình Huy Quan, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác v.v. . Tờ Văn Học đứng đầu sào là Phan Kim Thịnh, quy tụ một số anh em gốc miền trung Huế , Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín v.v. như Luân Hoán, Thành Tôn, Khắc Minh, Hà Nguyên Thạch, Phan Nhự Thức, Đynh Hoàng Sa, Vĩnh Điện, Phùng Kim Chú, Viêm Tịnh  v.v. . Riêng tờ Văn với khẩu hiệu “ tập san của những người ham đọc, hiếu học, ưa suy nghĩ “đã gầy dựng nên một lực lượng hùng hậu người viết ở khắp ba miền - thời đó được mệnh danh là Những Cây Bút Trẻ hoặc Những Người Viết Mới – như Hạc Thành Hoa, Lương Thái Sỹ, Ngụy Ngữ, Phan Tấn Uẩn, Lưu Vân, Tần Vy, Từ Hoài Tấn v.v. đông đảo không sao kể xiết. Những tạp chí này đã góp sức làm nên bề dày của tác phẩm Văn Học Nghệ Thuật Miền Nam VN Toàn Thư đồ sộ.
Sau 1975 chủ xướng bởi những thành phần vô văn hóa, có nhìn lại mới thấy tiếc nuối công trình tim óc của hàng trăm cây bút tự do miền Nam. Sau hơn ba mươi năm cuộc đổi đời, đã có nhiều ngòi bút một thời tung hoành  bị cưỡng bách hoặc tự nguyện chôn vùi tên tuổi, chấp nhận thân phận lưu đày thân và tâm ngay trên phần đất quê nhà. May thay, mảng văn học khai phóng và nhân bản của miền nam VN trước 75 vẫn được tiếp nối và nuôi dưỡng ở nước ngoài bởi những người viết tự do khắp cùng năm châu bốn bể sau cuộc tan hàng rả ngũ bi thương. Viết đến đây xin mở một dấu ngoặc để hoan nghinh công trình tim óc của nhà văn Trần Hoài Thư và nhóm anh chị em Thư Quán Bản Thảo đã bỏ nhiều công sức, thì giờ và tiền bạc để sưu tập và in ấn một phần nào giá trị tinh thần của văn học miền nam trước 75 qua các tác phẩm Thơ Lục Bát Miền Nam (?), Thơ Miền Nam Thời Chiến . . .
Lúc còn cộng tác với tờ Thư Quán Bản Thảo, kẻ này có gợi ý cùng nhà văn Trần Hoài Thư về việc thực hiện một số kỷ niệm với bài vở của những cây bút đã từng cộng tác với tờ Văn, hiện đang sinh sống tại nước ngoài. Tiếc thay, sự việc này  chưa được thực hiện như lòng mong muốn. Giờ đây, nhân đoạn viết này, với trí nhớ cùn nhụt ( mà chắc đã thập phần tồi tệ ), thử ghi lại danh tính của những người có bài vở đăng trên Văn trước kia, nay vẫn còn tiếp tục sáng tác ở hải ngoại. Xin chư quân vui lòng bổ sung (nếu thiếu tên) và đính chính (nếu ghi nhầm) . Mong thay!

Tạp chí Văn, số cuối cùng.
Danh sách những cây bút  một thời của tờ Văn, nay đã vào hàng ông mệ mà vẫn còn múa . . . bút khắp nơi gồm :
-    Ở Pháp có Trần Thiện Đạo, Trần Công Sung, Kiệt Tấn, Đặng Tiến, Trần Đình Sơn Cước . .
-    Ở Úc Đại Lợi có Phạm Công Thiện, Phan Việt Thủy . . .
-    Ở Gia Nã Đại có Lâm Hảo Dũng, Đỗ Khánh Hoan, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn . . .
-    Ở Hoa Kỳ đông đảo nhất, có Nhã Ca, Lâm Chương, Đinh Cường, Hoài Ziang Duy, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Bạch Dương (đã khuất), Trùng Dương, Nghiêu Đề (đã khuất), Lê Tất Điều, Nguyễn Tịnh Đông (Trần Bang Thạch), Nguyễn Mộng Giác, Thái Tú Hạp, Nguyễn Xuân Hoàng, Túy Hồng, Khê Kinh Kha, Nguyễn Chí Kham, Du Tử Lê, Trần Vấn Lệ, Hoàng Ngọc Liên, Viên Linh, Bình Nguyên Lộc (đã khuất), Hoàng Lộc, Đào Mộng Nam, Thanh Nam (đã khuất), Nguyễn Văn Ngọc, Hoàng Ngọc Nguyên, Nguyễn Thiếu Nhẫn, Trần Doãn Nho, Nguyễn Minh Nữu, Võ Phiến, Hải Phương, Nguyễn Quỳnh, Nguyên Sa (đã khuất), Hà Thúc Sinh, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo (đã khuất), Trần Hoài Thư, Trần Mộng Tú (?), Hoàng Anh Tuấn (đã khuất), Thanh Tâm Tuyền (đã khuất), Nguyễn Tuyển, Trần Dạ Từ, Huỳnh Hữu Ủy, Ngô Thế Vinh, Kinh Dương Vương, Nguyễn Vũ Đan Vy (Đặng Tường Vy – đã khuất), Nguyễn Lương Vỵ, Phạm Ngũ Yên,  Phạm Cao Hoàng, Hoàng Ngọc Biên . . .
Xin nhắc lại : ai sót tên, thừa tên, vui lòng ới cho một tiếng .
Đa tạ,
décembre/2009
Tựa đề của tác giả chỉ có 2 từ Ghi chú, đọan thêm do tòa sọan, Riêng LVT chỉ ở VN nên không đưa vào ở Hoa Kỳ, và nếu được xin các bạn bổ sung. VCV sẽ cập nhật thêm.


Ngày đăng: 17.02.2011




Về Tác Giả Hoàng Xuân Sơn

Tên thật Hoàng Xuân Sơn, bút hiệu  Sử Mặc, Hoàng  Hà Tỉnh, Vô Ðịnh, sinh năm 1942 tại Vỹ Dạ Huế. Học tiểu học ở trường Lý Thường Kiệt,  trung học Bán Công và Quốc Học Huế, đại học Văn Khoa Sài Gòn (ban triết ),và Cao học Chính Trị Kinh Doanh. Làm việc ở bộ Giao Thông-Bưu điện, thuộc Tổng Cục bưu chính Việt Nam Cộng Hòa.

Sau 1975 làm bưu chính được 7 năm. Ðịnh cư tại Montreal, Canada từ tháng 12 năm 1981.

Bắt đầu viết từ năm 1970 trên các báo Văn, Chính Văn, Diễn  Ðàn, Khởi Hành, Nghiên Cứu Văn Học, Ðối Diện, Thân Hữu, Xây Dựng Nông Thôn, Ngưỡng Cửa, Nhà Văn... Tại hải ngoại, thơ đăng trên các báo Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ Ðề,  Sóng, Sóng Văn, Nắng Mới, Saigon Times, Hợp Lưu, Phố Văn,  Gío Văn , Canh Tân, Ði Tới, tạp chí Thơ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Viễn Phố (thơ, Việt Chiến xb 1988), Huế Buồn Chi (thơ,93), Lục Bát (thơ, 2005)

NGUỒN : VANCHUONGVIET.ORG








































Không có nhận xét nào: