I-
Điều kiện thưởng ngoạn
I-
1.Vai
trò chủ thể trong việc thưởng ngoạn văn học chính là độc giả, tất nhiên phải có
đầy đủ hai điều kiện: a/ Từ thái độ bình thường hằng ngày gia nhập vào thái độ
thẩm mỹ, khi bắt đầu tiến vào giai đoạn thưởng ngoạn độc giả phải thực hiện sự
biến đổi tâm lí, tức là phải vứt bỏ cái tâm thái tự ngã trong cuộc sống hiện thực
hằng ngày, vứt bỏ thái độ thực dụng của chủ nghĩa công lợi, chỉ vận dụng thái độ
thẩm mỹ đối với tác phẩm văn học, nhất là chớ có lẫn lộn sinh hoạt với nghệ thuật;
có như thế mới thưởng ngoạn được cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật một cách chính
xác. Ngược lại cứ ỷ lại vào kinh nghiệm của sinh hoạt ngày thường, lấy cái tâm
thái thực dụng hẹp hòi mà thưởng ngoạn văn học nghệ thuật thì không thể nào tiếp
thu được tính hư cấu phong phú của thi ý, càng không thể nào nói đến việc tiếp
thu tính ảo tưởng quái đản. Ở đây, chúng ta nhấn mạnh đến tác dụng sự biến đổi
tâm lí của độc giả chỉ là nhắm vào tính phi công lợi trong thưởng ngoạn văn học.
Sự thật là do cuộc sống của độc giả trước khi thưởng ngoạn tích lũy bao kinh
nghiệm cấu kết thành sự mong đợi thẩm mỹ, không những chỉ do sự đọc trong tác
phẩm mang lại mà còn đối với độc giả trong hoạt động thưởng ngoạn văn học nghệ
thuật có sự cộng minh và phát sinh ảnh hưởng tích cực sự sáng tạo hình tượng.
Chính vì nhằm vào thái độ công lợi thực dụng không liên
quan gì đến thẩm mỹ, nên đầu thế kỷ 20, nhà tâm lí người Thụy sĩ mới đề ra thuyết
“tâm lí cự li”. (Nên tìm xem thêm trong
Tâm lí văn nghệ của Chu Quang Tiềm- Khổng Đức dịch).
2.- Phải có năng lực cảm
thụ nghệ thuật. Biết đọc là chuyện đương nhiên, nhưng biết đọc không chưa đủ mà
còn cần phải có khả năng cảm thụ, năng lực và tu dưỡng để hiểu được cái đẹp của
nghệ thuật. Trong hoạt động thưởng ngoạn văn học, việc tu dưỡng nghệ thuật của
chủ thể rất là quan trọng. Để cho việc tiến hành thưởng ngoạn nghệ thuật văn học
được thuận lợi và thỏa mãn, độc giả cần phải liên tục đề cao năng lực cảm thụ
nghệ thuật của mình.
Năng lực cảm thụ nghệ
thuật của chủ thể thưởng ngoạn là bao quát các khái niệm văn học mà độc giả đã
xác định. Các nhà lí luận nghệ thuật đương đại của Tây phương đưa ra thuyết “thỏa
ước văn học” (convention). Gọi là thỏa ước là thói quen, tức là đối với hệ thống
của mỗi môn loại nghệ thuật tác phẩm trình hiện đều nắm vững được cái khung kết
cấu của nó. Như đối với thỏa ước văn học thì chúng ta hiểu được các thứ quy tắc
đặc trưng biểu hiện, các yếu tố truyền thống. Hiểu được các thỏa ước văn học
thì độc giả nắm vững được sự hình thành đối với tiểu thuyết, thi ca, tản văn
v…v…và các hình thức văn học khác.
Thỏa ước văn học là một
thứ loại hình trầm tích trường kỳ trong đại não của độc giả, từ đó đối với tác
phẩm văn học hình thành một thứ phản xạ có diều kiện, do đó mà thuyết thỏa ước
văn học làm cho bản thân tác phẩm có được những qui phạm và nguyên tắc; không bằng
nói rằng trong sự tiếp xúc lâu dài giữa độc giả và tác phẩm văn học hình thành
cái năng lực chủ thể.
II.-
Vai trò khách thể trong việc thưởng ngoạn-
Hoạt động thưởng ngoạn văn học đòi hỏi phải có khả năng, tức là nói về phương
diện khách thể tác phẩm, vẫn cần phải có đầy đủ đặc chất nội hàm thẫm mỹ. Tác
phẩm nghệ thuật phải hay đẹp mới có thể khiến cho người thưởng ngoạn cảm thụ được
cái hay cái đẹp của nghệ thuật. Tác phẩm văn học kể như là ý thức thẩm mỹ của
tác giả dùng ngôn ngữ biểu hiện và truyền đạt, cần sáng tạo hình tượng nghệ thuật có giá trị mỹ học cao độ để gây sự
xúc động nhận thức; như thế mới có thể ban cho người thưởng ngoạn cảm thấy vui
thích. Những hình thức đồ họa, khái niệm hóa, thú vị thấp kém, thậm chí là những
tác phẩm thuộc văn học du hí thuần
túy hoàn toàn không có sức sống nghê thuật.
Sự
thưởng ngoạn thành công không bao giờ ngoài những tác phẩm hấp dẫn; tác phẩm
càng ưu tú thì nghệ thuật miêu tả càng sống động, càng sâu sắc, hình tượng nghệ
thuật càng tươi sáng, càng điển hình, càng đưa người thưởng ngoạn vào sự thích
thú. Lực hấp dẫn nghệ thuật của tác phẩm văn học, đối với việc thưởng ngoạn có
hiệu quả sẽ sanh ra ảnh hưởng vô cùng quan trọng.
3.-
Chủ thể và khách thể thưởng ngoạn cùng
thích ứng – Hoạt động thưởng ngoạn văn học tiến hành thuận lợi vẫn phải dựa
vào tính thích ứng giữa chủ thể và khách thể. Và khi đề cập đến mối quan hệ thưởng
ngoạn giữa chủ và khách thì phải nói đế quan điểm quan trọng của phái tâm lí
toàn hình (cũng gọi là Cách thức tháp Gelstalt) của Rudolf Arnheim, là thuyết
“dị chất đồng cấu”. Arnheim cho rằng, trong việc thưởng ngoạn thẩm mỹ, hệ thống
thần kinh của người thưởng ngoạn không có đem cái nguyên bản dạng thức phức tạp
chủ yếu của tác phẩm nghệ thuật bày ra, mà chỉ khơi gợi một thứ “lực” giống như
lực kết cấu của tác phẩm, khoái cảm thẩm mỹ bắt nguồn từ đối tượng thẩm mỹ kết
cấu thành một lực nhất trí cùng với tầng lớp đại não bì, cái gọi là “vì dạng thức
lực của lá mùa thu cùng với cái tâm lí buồn bực của con người cấu kết nhau
thành một dạng nhất trí (bi lạc diệp vụ kinh thu). Thế giới ngoại tại kết hợp với
tâm linh nội tại, đạt đến sự hỗ tương đáp ứng, thành cảnh giới thẩm mỹ vật với
ngã đồng nhất. Thuyết “dị chất đồng cấu kết” trình bày mối liên hệ thẩm mỹ của
cơ chế sinh lí tâm lí; đem nó vận dụng vào hoạt động thưởng ngoạn văn học; tức
là coi tác phẩm văn học như là cuộc sống tồn tại đầy sinh khí.
Tác
phẩm là hình thức thể hiện cuộc sống, nó ám hợp một thứ khuynh hướng tình cảm
tương ứng với cơ năng sinh sống của con người, từ đó hình thành một thứ quan hệ
cùng cơ cấu, độc giả đối với việc thưởng ngoạn phẩm vị tác phẩm, tức là phóng
thích cái hoạt lực sống của chính mình.
II.- Quá trình thưởng ngoạn văn học- Thưởng
ngoạn văn học kể như là một thứ hoạt động
tinh thần đặc biệt, quá trình của nó là 10 phần sống động phức tạp; chúng ta có
thể phân chia việc thưởng ngoạn văn học
ra làm ba giai đoạn là: cảm tri, thể vị, và lãnh ngộ (lãnh hội giác ngộ).
1.-
Giai đoạn cảm tri cũng gọi là cảm thụ. Trong việc thưởng ngoạn văn học, giai đoạn
cảm thụ nghệ thuật, biêu hiện chủ yếu là cảm thụ được hình thức của tác phẩm và cảm thụ được hình tượng nghệ thuật của nó.
Tức là độc giả thông qua cảm giác của mình, khí quan tri giác đạt đến toàn bộ cảm
tính tồn tại của tác phẩm và nắm được cái trực quan, nó là cơ bản của việc thưởng
ngoạn nghệ thuật.
Văn
học là sự hiển hiện hóa của ngôn ngữ phù hiệu mà chủ thể thẩm mỹ ý thức được;
do đó điều mà độc giả tiếp xúc đầu tiên là ngôn ngữ của tác phẩm văn học. Ngôn
ngữ văn học là phù hiệu mang đầy ý nghĩa hàm súc, tình cảm, nó không chỉ là
hình thức mà đồng thời cũng là nội dung. Như Lưu Hiệp từng nói trong thiên Thần
tứ của Văn Tâm Điêu Long: Sự vật nhờ có tai mắt mà biết đến, từ lệnh là điều cơ
bản nằm ngay vị trí then chốt. Khi then chốt này thông suốt thì diện mạo sự vật
không thể che giấu. Ngôn ngữ văn học giống như đường nét và màu sắc trong nghệ
thuật tạo hình, có thể mang độc giả tiến đến cảnh giới nghệ thuật để cho họ trực
giác được lực cảm nhiễm của tác phẩm và công lực nghệ thuật của tác giả. Như
Vương Mông trong bài “Xuân chi thanh” dùng hình thức mở đầu để dẫn độc giả vào
thưởng ngoạn:
“Một tiếng vang to, đêm tối đến rồi. Cảnh tượng
hoàng hôn, ánh trăng xuất hiện nơi góc tường đối diện vuông vuông, cái tâm của
đỉnh núi Ngũ Nhạc như co lại rồi trương
ra, thân xe quá nhỏ khiến người trong xe cùng
lắc lư. Như cái nôi của con trẻ
ngọt ngào biết bao”.
Đó
là một đoạn văn dùng chữ mới tươi mát, như tiếng vang to, màn đêm đến bao trùm,
ánh trăng vuông vuông đầy vẻ tối tăm; lại thêm hình ảnh cái xe, cả một hệ thống
ý tượng thâm nhập vào ý thức chủ nhân ông tạo
thành một sự khẩn trương trong tâm tư độc giả. Giai đoạn cảm thụ nghệ
thuật cần phải thông qua ý thức của phù hiệu ngôn ngữ tác phẩm mới trực tiếp cảm
thụ được hình tướng và hình thức đối với tac phẩm. Điều đó đối với tác phẩm
khác nhau mà nói, sự cảm thông thưởng ngoạn nghệ thuật cũng có sự bất dông.
Đối
với các tác phẩm mang tính trử tình mà nói, chủ yếu cảm thụ đối với tác phẩm là
ý cảnh thẩm mỹ. Thí dụ như thưởng thức bài “Thu tứ” theo điệu Thiên tình sa của
Mã trí Viễn:
“Khô đằng lão thụ hôn nha Tiểu kiều lưu thủy nhân gia
Cổ đại tây
phong sấu mã Tịch dương tây hạ,
Đoạn trường nhân tại
thiên nhai.
Tạm
dịch: Cây khô dây héo quạ kêu - Dưới cầu
nước chảy bên lều vắng tanh. Đường xưa gió thổi ngựa trành – Vầng dương tây lặn
xa xanh, Chân trời lữ khách ngậm vành đắng cay…
Trong khi độc giả đọc bài thơ ấy, trước tiên
là cảm xúc với cảnh vật thiên nhiên, như cây khô dây héo quạ kêu, ngựa ốm, cầu
nhỏ, nhà vắng vẻ, gió thổi… khách giang hồ cô đơn nơi chân trời… Chúng ta nhìn
thấy gió thu hiu hắt, trời chiều đã ngã hoàng hôn, dây leo khô héo, cây già tàn
tạ, quạ bay về tổ trong cảnh trời u ám với tiếng kêu não nùng, nước chảy réo rắt
dưới cầu, túp lều đơn côi vắng vẻ…Trong cảnh hoang dã thê lương, một gã lãng du
ngồi trên lưng con ngựa gầy đang cất bước trên nẻo đường gập ghềnh, lòng đòi đoạn.
Đối
với tác phẩm mang tính tự sự, giai đoạn chủ yếu cảm thụ nghệ thuật là cảm thu
nhân vật trong tác phẩm với tình tiết và khung cảnh sinh hoạt.
Trong
giai đoạn thưởng ngoạn tác phẩm, sự cảm tri của độc giả tiến hành theo sự tổng
hợp tri giác toàn hình; khách thể luôn luôn hướng về chủ thể truyền đạt tin tức
thẩm mỹ, chủ thể cũng luôn luôn tuân theo theo khách thể thông qua cảm giác lí
giải biểu tượng, tình cảm đạt đến khách thể, tức nắm được toàn thể trực quan,
thể hệ hình tượng trong tác phẩm.
2.- Giai đoạn thẩm mỹ phán đoán – Thẩm
mỹ phán đoán tại cơ sở cảm thụ nghệ thuật,
phải trải qua từ biểu đến lý (tức là từ hình thức biểu hiện đến nội dung bên
trong tác phẩm), từ cạn cợt đến thâm sâu, từ cảm tính đến tư khảo lí tính và hiểu
biết. Trong giai đoạn này độc giả phải thông qua sự tìm tòi và phân tích tiến đến
sự lãnh hội ý nghĩa sâu xa của tác phẩm,
thấu sát tính chất nghệ thuật của tác phẩm
là sự thành công hay thiếu sót, hoặc là phô diễn tài hoa đáng thán phục, hoặc
là tư tưởng rất thâm thúy, tình cảm thâm nhập những yếu tố lí tính linh hoạt.
Như Tào Tuyết Cần nói về tác phẩm Hồng Lâu Mộng chỉ là ý tưởng, lời lẽ hoang đường,
thế nhưng đầy nước mắt cay đắng, mọi người đều cho đó là si mê của tác giả, nội
dung là không ai nắm được ý nghĩa tiềm tàng ở bên trong. Thẩm mỹ phán đoán là
phải giải mã cái ý nghĩa bên trong đó. Dĩ nhiên sự thẩm mỹ phán đoán không phải
là lí tính khái quát hay kết luận đầy trừu tượng, mà là một thứ lí giải tình cảm
không tách rời khỏi hình ảnh cụ thể. Trước sau vẫn duy trì được tính chất nghệ
thuật xúc động quán chiếu tình cảm, liên tưởng tượng trưng đặc điểm là tái sáng
tạo. Vì thẩm mỹ phán đoán không phải là phán đoán theo logic, mà là mang tính
tình cảm chủ quan.
3.- Giai đoạn thể nghiệm – Thẩm mỹ thể vị,
tức là tìm tòi ý nghĩa sâu xa và dư
vận dư vị của tác phẩm đó. Sự thể
nghiệm thẩm mỹ đối với tác phẩm đòi hỏi độc giả “dĩ thân thể chi, dĩ tâm nghiệm
chi”, tức là phải đem hết thân tâm tìm hiểu chiêm nghiệm tác phẩm. Nói một cách
khác là đem thân tâm thâm nhập vào tác phẩm, lãnh hội, thể hội đến những chỗ
lay động thể xác con người, những điểm xúc cảm tình tự con người. Như một từ
nhân cận đại từng nói: đem những ý cảnh kết cấu vào trong ý tưởng, sau đó trầm
tư, đem cả nhân thân cùng chân tay cạy cục cũng như cả tính linh thâm nhập và
biến hóa, như ôm trọn vào lòng; sau khi hình ảnh trong tác phẩm gây xúc động rồi
suy đoán thấu được ý nghĩa sâu xa của tác phẩm; nói chung là chúng ta nắm được
ý ngoài lời. Như Khổng Tử nghe nhạc thiều ở Tề, ba tháng không biết đến mùi thịt.
Đó là cảm giác, chúng ta căn cứ vào thực tiễn, chúng ta có thể nói rằng, cái mà
chúng ta cảm giác được, khng thể nào hiểu được ngay, mà phải hiểu được sự việc
rồi mới có thể có cảm giác sâu xa về nó. Nhưng trong việc thưởng ngoạn một tác
phẩm, thường thường độc giả phải như say đắm lặn ngụp vào trong tác phẩm, nghĩa
là phải từ trong thẩm mỹ thể nghiệm mà vượt ra, đi sâu vào việc lãnh hội hình
tượng bao hàm tính chất ý nghĩa, phải liên hệ đến việc tìm hiểu lịch sử nhân
sinh, mới tìm hiểu được ý nghĩa ở ngoài lời của tác phẩm, vận ngoại chi chỉ (điểm
nhắm đến ở ngoài vần điệu, vị ngoại
chi vị (nghĩa là vị ở ngoài mùi vị) vv…
Hoàng
Dược Miên nói: “Đọc xong một bài thơ hay chúng ta thường từ cảm giác hữu hạn đến
vô hạn, giống như trong thơ Trung Quốc có câu:
‘Thiên trường địa cữu hữu thời tận,
thữ hận miên miên vô tuyệt kỳ”. nghĩa là: Trời đất tuy
có dài lâu đến mấy cũng có ngày chấm dứt, nhưng mối hận này thì mãi mãi không
bao giờ hết. Đối với việc thưởng ngoạn văn học, độc giả cũng phải kéo dài bất tận, để đạt sự siêu việt thẩm
mỹ và thăng hoa.
Ba
giai đoạn: cảm thụ nghệ thuật, thẩm mỹ phán đoán, thể nghiệm ngoạn vị; nhưng
thường là một quá trình thưởng ngoạn thâm nhập và tương hỗ liên hệ, tương hỗ
tác dụng. Có cảm thụ mới có thể có phán đoán chính xác, có cảm thụ phán đoán mới
có thể có thể nghiệm ngoạn vị. Và trong khi thể nghiệm ngoạn vị lại có thể tăng
thêm nghệ thuật cảm thụ, hiệu chính thẩm mỹ phán đoán. Người
thưởng ngoạn phải chú ý đến ba giai đoạn khác nhau và liên hệ trong khi thưởng
ngoạn tự giác hoàn thành toàn thể quá trình.
Dich từ văn học lí luận của Đại học Bắc
Kinh Khổng Đức (4-2014)
Bài viết do tác giả gởi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét