Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

Nơi cư trú của nhà thơ



KHỔNG ĐỨC dịch






Trong Eupalinos, Paul Valery thay lời Socrate nói rằng: con người sống đời đều có một cái nhà và một tổ ong. Hình ảnh ấy thoạt nhìn rất đơn giản. Cuộc sống con người được thiết lập bằng những động tác và yên tĩnh., định vị và lưu thông. Chúng ta đi và đến, giữa cái bên trong và bên ngoài. Dục vọng xua chúng ta ra ánh sáng như bầy ong trong đồng cỏ xanh để thu thập đủ thứ; tư tưởng lại đòi hỏi chúng ta hãy bám trụ vững chắc. Chúng ta ở trong một cơ chế, một thời kỳ có lịch sử, chúng ta tích lũy những kỷ niệm, bảo tồn những kiến thức, chúng ta tạo một hình ảnh, một tiểu sử, một thân phận,; nhưng rồi thời gian mang chúng ta đi và thường là xóa nhòa chúng ta. Trên thực tế, mối liên hệ giữa con ong và cái nhà rất phức tạp. Nó không phải chỉ là hai khía cạnh, hai định đề đối nghịch như bên trong với bên ngoài, hay phút chốc thoáng qua và sự bền bĩ kéo dài.
Nếu còn khát khao nơi cư trú, sự xây dựng và thiết lập, chính là vì nó có ý thức sự tạm nợ.Và nó không yên tâm ở trong một căn phòng, đó là vì cơn sốt của di động, nó là sự phản ứng và phản bác lại mối lo âu chết chóc. Hãy cho rằng hai khía cạnh chỉ là một, và ở yên là điều kiện của chết chóc, với chúng ta cũng giống như đi và ở. Mỗi người tự mang trong người ngôi nhà tự động, nó là giấc mơ hay là tư tưởng. Mỗi người luôn luôn quanh theo hướng từ ngoài vào trong, hay phóng chiếu về hướng nội tại của bản chất thế giới. Trên mặt đất con người không được chấp nhận như cây cỏ, cũng không được bay lượn như côn trùng hay chim chóc. Nó không phải là con vật cũng không phải là Thương Đế, nó chiếm tất cả sự vật trong môi trường. Nó cư trú trong thế giới với sự diễn xuất và biến đổi, và nó muốn để lại dấu hiệu vết tích của nó trước khi tan biến, chính vì vậy mà nó có ý định cư trú ở đó.

Cuối cùng thì thi nhân cũng chỉ là một con người như những kẻ khác, có thể sành sõi lão luyện. Có thể nói là sành sõi lão luyện trong bước đi khập khễnh giữa bên ngoài và bên trong, sử dụng ngôn ngữ như cái nhà tự động, ở đó vừa di chuyển vừa cư trú. Tả tác là giải pháp đặc biệt để gia nhập thật chắc chắn vào hoàn cảnh chia xẻ của chúng ta. Tả tác là cử động cũng như tự cố định. Ngôn ngữ nhặt lượm những dấu vết, những kiến thức trầm tích, duy trì những cảm giác thoáng qua. Nó mở những căn phòng ký ức, thậm chí cho tiếp cận với những bảo tàng, những thư viện, nó là những tác phẩm khác xuyên qua đó mỗi người tự xem lại cuộc đời của chính mình. Vậy ngôn ngữ là nơi cư trú của số phận chúng ta. Nhưng cũng trở thành sự lưu thông, sự náo động ở trong thơ, những phù hiệu ấn ký thành nhịp điệu và để lại những hoạt động của tất cả sự hiểu biết và thời gian đặt để trong chúng ta.
Platon từng định nghĩa “nhà thơ giống như sự vật nhẹ nhàng, có cánh, có tài, cảm hứng có khả năng nói được đủ thứ. Có thể nói như một con ong, bằng mọi thứ tạo ra mật. Giống như con ong cũng di động chăm chỉ, nhà thơ ra ngoài ánh sáng. Lui tới trên những đối tượng trong những sinh vật, rồi lại quay về trong cái tổ tối tăm là phòng văn của nó, ở đó nó cặm cụi với bình mực, với sự tối tăm, biến những phấn hoa tình cảm thành một thứ mật người đời gọi là Thơ.
Mallarme đã viết trong bài Divagations ( lời vớ vẩn) những câu:
Bình mực thủy tinh như một ý thức
Tùng giọt , trong câu ca, chỗ tối tăm tương đối
Có cái gì như là: múc ra, nó tránh ánh đèn
Những câu thơ tạo ra là những ngôn từ mỏng manh, với những bức tường mái nhà, những cửa sổ mở toạc ra cho chúng ta ở xa. Nó cũng là những mái nhà, những con ong. Nó có phận sự tạo ra những khu vực, những bộ phận thành hình cho chúng ta.

Thi nhân thường thay đổi tư thế. Trước tiên là người đi bộ, như Orphee chạy nhảy ở đồng quê, như những người hát rong, hay những nhà thơ phương Bắc đi khắp các nẻo đường, như J. J. Rousseau từng xuyên qua núi Alpes, hay lê lết như Rimbaud đau thương với đôi giày mòn vẹt trên đường…Tiếp theo là con người giam mình trong phòng căm cúi như Mallarme truớc trang giấy trắng trong , hay tự giam mình như Baudelaire, một giờ vào buổi sáng để viết đôi vần đầy cảm xúc hầu chuộc lại một ngày qua đi.
Xuyên qua hai hình ảnh, con người đi bộ và con người trong phòng , đó là hai quan điểm thơ đối nghịch nhau, một bên ưu đải và cảm hứng từ thiên nhiên; một bên ưa chượng sự kham khổ từ công việc và ngôn ngữ. một bên khoáng đảng tưởng tượng, một bên ẩn náu trong thâm cung định mệnh.
Nhưng sự tương phản như thế rất là đơn giản. Nó không hiểu rằng tất cả thực tại nằm trong sự cà thọt chân thiết giữa bên trong và bên ngoài, giữa sự gần gũi và xa xôi, đó là chữ viết (văn tự). Trước khi chạy khắp đồng quê khóc lóc, Orphee đến với người chết, trong những nơi nghĩa địa tối tăm. Vể những kẻ hát rong thời trung cổ, họ sáng tạo những bản trử tình tao nhã, chính là gắn liền với sự phục vụ triều đình. Cuối cùng Rimbaud, một chân chống đở với con tim, ghi khắc bên lề đường là nơi cư trú, hay thiết lập những trà đình xanh để viết những vần thơ dài dòng. Tất cả thơ có thể nói là một cuộc hành trình hay chốn dừng chân, một mảnh ngôn ngữ xao động nhịp điệu nhưng cố định trong một hình thức, một mẫu người lay động , một mẫu người căm cúi.
Khí nào có thơ và thơ ở đâu? Nơi cư trú được thiết lập như thế nào, ở đó có sự quân bình cuối cùng là gần và xa.
Nhìn kỷ hơn thì không có gì là khác giữa cách thế cư trú quen thân giữa nhà văn với hình thức những bản văn của ông ta. Những thơ của Mallarme giống như phòng khách của ông (salon) ở đường Rome, cũng với những bức rèm, những tấm gương, những chén bát, những giá đèn, trò biểu diễn của những tấm kiến với vô số những phản ánh, những đỉa tàn thuốc của mỗi thứ ba… Đó là môt vũ trụ kín đáo và đồng phản xạ.. Thơ của Verlaine thì lẩn trốn bệnh viện bằng các quán cafe hạ cấp, từ đó nó không ngừng hé mở ra một khu vườn nhỏ. Tự giao phó số mệnh trong dòng không khí luân lưu, nó đi đây đi đó giống như chiếc lá nổi trôi, không cố định nơi nào.
Trong hình ảnh mà chúng ta tìm thấy trong các bài thơ, chúng ta có thể đồng hóa chúng với những ưa thích đặc biệt như phòng đọc nhỏ của Du Bellay, cảnh vuờn của Ronsard, Charmettes của Rousseau, hồ của Lamartine, cầu Mirabeau của Apollinaire, v..v…Mỗi nơi trong những địa điểm kết tinh thành một tư thế tình cảm hay tinh thần, thiết lập điểm xuất phát hay nơi dẫn đến một ngọn suối, một tài nguyên, nơi tập tành thể dục, một ngả tư, nơi bìa rừng, chốn ngưỡng cửa… Bởi vì bài thơ luôn luôn hỏi han và tái tạo hình dáng, ý nghĩa của số phần, nó không thể đi qua những nơi chốn ở đó định mệnh hoàn thành. Như địa chấn ký, nó ghi chú những rung động trong đầu hay trong tim, nó lay chuyển nơi cư trú mà chúng ta cố gắng lâp lại để chúng ta vạch giới hạn. Nhà thơ là người đương đầu trực tiếp trong ngôn ngữ với ẩn ngữ của thân phận chúng ta. Con người thường bao quanh những sách vở thành một phòng văn hay phòng nghề nghiệp, gần nhất là cái giường để ngủ, cái bàn để ăn uống. với toilette để rửa tay rửa mặt…Phòng văn cũng là nơi của tình yêu và ngủ nghê; ở đó sự ham muốn làm trong bóng tối, và ở đó sự cảnh giác chăm chú theo dỏi nhường chỗ cho vị trí tưởng tượng. Chính ở đó tất cả sự thân mật đổ vào, bên trong cái cơ thể ấy là sự bùng nổ ra ngôn từ, có khi nó lia bình mực ra xa, có khi lại kéo về với nó.
Trong cơ thể ấy là ngôi nhà, nó có quả tim là phòng, và trong phòng ốc có một cơ thể nữa là thi nhân, nó cũng có tâm tạo nên tư tưởng, tình cảm, và mộng mị...Văn tự là sự hàn gắn tâm hồn với cơ thể, sự hiện hữu nhiều con cái. Ở đó cái bên trong và bên ngoài tự khắn khít với nhau. Ở đó cái ngã và cái khác gặp nhau, trên một nấc thềm, và ở đó sự thân thiết dấu kín trong sự bao la, trong gần gũi nhất mà cũng xa xôi nhất.
Bài thơ đến lượt nó phác họa những vẻ mặt và những cơ thể trong cái cơ ngơi của ngôn ngữ. Nó phóng chiếu và vẽ trên bề mặt của trang giấy trắng công trình kiến trúc phức tạp ấy. Cư trú nó là sự đo lường căn cứ theo ký ức. Với nó cái gì thoáng qua trong đời là thiết lập ngay mà không cố định. Những xúc động, những tri thức, những cảm giác đều tìm thấy được khép vào trong một khuôn khổ để chuyển đi, càng hay, nó tạo nên nhịp điệu, hình thành ngay âm thanh và ý nghũa đưa vào tác phẩm, làm dội lại những cảm xúc, nó đã gợi ra. Đó là một thứ ký ức nhưng như một sự kích động cố định.và tái sinh, ký ức của thứ vũ khí làm gạch nối với tâm hồn ban cho vẻ đẹp thoáng qua. Và bài thơ là sự đo lưởng. vì ở đó cảm xúc và trừu tượng tỉ lệ với nhau, như phần của ý niệm và chất liệu. Tất cả đối tượng thực tại dính liền với phi thực. Điểm quân bình tình cờ giữa cái khả năng và không khả năng. Tất cả hình ảnh trong thơ là trạng huống treo lơ lửng giữa ảo tưởng và thực tại. Như thế cái tôi có được phép cư trú trong cái tự ngã mà nó không duy trì được không.Từ cái mê cung ấy mà chế tạo ra đồ bản. Điều chính kích thước của ngôn ngữ nó lãng quên chủ đề, và đối với những hiện tượng mà nó phải xây dựng lại liên tục, nó cố gắng điều chỉnh trạng huống hiện hữu..

Nếu bài thơ là nơi cư trú, thì cũng chính là nơi nó đóng góp thêm vào ngôn ngữ với cách thức như ngôi nhà thêm vào trong phong cảnh. Nó là sự kiện ngôn từ hiện hữu ở ngoài nó, nhưng lại bố trí theo cách khác.. Vật liệu ấy là những từ ngữ, nó kết nối chúng lại tùy theo sự tưởng tượng và nhịp điệu của nó. Một cách ẩn dụ, nó đập vào cửa, vẽ những hành lang, đào những giếng và hầm, mở những cửa sổ, thêm diềm màn, và đồ đạt bàn ghế. Ở đây còn có lắm đề tài, có thể nêu ra tính cách quan trọng, không chỉ có liên hệ đến thi ca, đến vị trí cư trú mà con người tra hỏi, đo đạt xác định, mà là những công trình cấu tạo thực tại hay thuộc tinh thần, nới đó con người hiện hữu đang cư trú. Ở đây còn có đôi người trong số những nhà thơ hiện đại như : Edmond Jabes với đề tài “ tôi dựng nơi cư trú của tôi”; Yves Bonnefoy với bài “ Leurre du seuil ( dẫn dụ của ngưỡng cửa); và Jacques Dupin với bài “ Une apparence de soupirail” ( một cửa nhỏ thông gió)…
Và nếu bài thơ là nơi cư trú cho ý nghĩa, nó cũng là chỗ ở của ngôn ngữ. Một hồi ký và một kinh nghiệm của con người chống lại sự lãng quên. Một ngôn ngữ phải tồn tại mải và mới mẻ, phải đặt vào trò chơi của công việc hình ảnh những kết hợp mới…Chính trong kiến trúc mà Paul Valery mới phúng dụ cho thi nhân trong Eupalinos. Không có tính chất nào mà ông ca tụng về người xây dựng là sai lầm đối với nhà thơ lý tưởng như ông quan niệm : ý nghĩa chính xác về chất liệu. đặc biệt lưu tâm đến những điểm nhạy cảm của xây dựng, biết thấu đáo những bản chất, những tảng khối, có khả năng phác họa phong phú hóa từ viên đá thô thiển của các chất liệu khác nhau. Nhưng hơn cả những chi tiết kỹ thuật – nó hiểu được cả những khái niệm tân cổ điển theo Valery chủ trương- chính là thi pháp hiệu lực của sản phẩm, thừa hưởng của Poe và Mallarme mà Valery áp dụng kiến trúc vào thi ca. Nó thực hiện sự chế biến từ việc này đến việc khác, những xúc động và rung cảm tâm hồn của những người thưởng ngoạn tương lai những tác phẩm của ông. Làm một bài thơ cũng như làm một tòa nhà, phải biết cách phối hợp một cách bác học, và khéo léo theo qui luật và phi qui luật, hầu đặt khán giả, độc giả và người quan sát một sự xúc đông không kiềm chế được.
Nó bày ra trong ánh sáng môt công cụ không thể nào so sánh được, nó dàn trải ra, những hình thể tràn đầy tình cảm, trí tuệ và đầy âm điệu, trong một không gian ở đó tử thần tự di chuyển (trich trong Eupalinos).
Như là nơi cư trú cố định trong thỏi đá hình học, cái đối tượng ngôn ngữ hiện ra như bất động, đó là bài thơ., trồng vững chải trong hình thức mỹ miều có khả năng làm xúc động:
Phải nói như con người của Megare, rằng đền đài của tôi lay động những con người, như lay động những đối tượng yêu thương.
Người ta nhận thấy rằng nhà thơ là khách cư trú luôn luôn biến đổi. Khi nó không còn sức định cư, thì nó đi đến chỗ ở khác, như nó không thừa nhận chỗ ở thực tại, thì tạo một nơi ở ngoài và luôn luôn tìm kiếm một chỗ ở tốt hơn.. Theo Mallarme, bài thơ là nơi cư trú, ở đó có thể tìm thấy vị thế chung là bên ngoài và bên trong, từ xa xôi cũng như gần gũi.. Vì vậy mà Rilke mới viết: với nhà thơ không có nơi nào là chỗ cư trú, nếu không phải chính là ngôn ngữ. Tất cả những chỗ ở khác chì là thuận tiện. Vì ngôn ngữ là khoảng giữa của âm thanh, nó có thể đi qua lại lui tới. Nó tạo những ngôi nhà trong ngôn ngữ, mà không đến được trong thế giới. Nó không như họa sĩ hay kiến trúc gia trực tiếp gắn liền với công việc trong xưởng Vì thế mà Rilke ham muốn sự vững chắc và tập trung của Rodin, nhà điêu khắc:
Nó có cả có ngơi của bóng tối, chỗ ẩn núp yên tĩnh của căn nhà, nó có cả bầu trời ở trên, xung quanh là khu rừng khoảng khoát trước mặt nhà là con sông.
Rilke không có nhà, hành trình đơn giản là luôn luôn gặp gỡ nội tại. Ông mơ màng đến lượt ông trở thành con người của nghề nghiệp. Ông tìm kiếm một trung tâm, một công việc. Ông muốn tự tập hợp lại nơi tự ngã để khám phá cái điều gì là chính xác và phải hoàn thành. Tuy nhiên, Baudelaire lại khẳng định: sự phân tán cũng như sự tập hợp, sự bốc hơi và hội tụ của tự ngã, tất cả là ở đó. Không có cái gì vọt ra ngoài mà không gây tai họa cho nhịp điệu, sự thay đổi, nhịp đập giống hệt như hoạt động của quả tim con người.
Và rồi Rilke cũng viết trong Elegie: “Ở đâu, nhưng vậy vị trí nó là ở đâu- tôi mang nó trong tim tôi”. Nơi cư trú chính của thi nhân là sự cô đơn. Ở đó đặt để những phấn hoa của mỗi ấn tượng, mỗi mầm mống của tình cảm” ở đó cái hiển linh chuyển hóa thành vô hình. Nhà thơ là con ong chính, vì vậy nó tự phóng ra ánh sáng cho đến khi biến thành lý tưởng, lấp lành ánh vàng thiên nhiên, điếu mà Rimnaud hằng mơ tưởng ,muôn dùng hết năng lực của mình áp đảo tất cả ở bên ngoài vào trung tâm tích lũy rồi phân tán. Thậm chí đưa từng găm bản chất từ bên ngoài vào trong guồng máy phức tạp của ngôn ngữ hầu phát ra ánh sáng. Cái điều chính yếu là thi nhân khám phà, nâng cao lên, nó đạt đến rồi lại lánh xa. Cái qủi đạo nghịch lý ấy cuối cùng là đưa ra kế hoạch và được phép dựng lên những búc tường thành nơi cư trú đầy cung kính, mở rộng dành cho tất cả, gọi là THƠ.

Trích từ Thơ và Nhà thơ của J.M. Maulpoix
Khổng Đức dịch (5-2011)

Không có nhận xét nào: