- Nguyễn Thị Trang
1. Dẫn luận
1.1.
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất
trên thế giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ và số
lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá
vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành
một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người
Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên chúa.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư
tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò
chủ đạo, có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người
Việt, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX,
học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay,
những học thuyết này không giữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo khác, tác động vào đời sống xã hội.
1.2.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận soi đường cho
chúng ta. Nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ
vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu
vào tư tưởng, tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá
bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể, nên chúng ta cần vận dụng
một cách phù hợp
để góp phần đạt được mục tiêu của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Do
đó, việc tìm hiểu nghiên cứu Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh
quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh
giá những mặt tiến bộ cũng như hạn chế, Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý
người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho
con người một cách chân chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện,
tránh cái ác.
Hơn
nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì
vậy, khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không
đề cập đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm
lại, nghiên cứu Phật giáo và nhìn nhận, đánh giá nó là một nội dung
quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển
nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
2.Vài nét về tư tưởng Phật giáo
Đạo
Phật mang tên người sáng lập là Tất đạt đa - con trai Trịnh Phạn Vương
vua nước Trịnh Phạn - một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ ngày nay. Đạo phật
chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng.
Tư
tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển
rất lớn, tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm: tạng luật,
tạng kinh và tạng luận.
2.1.
Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện: Bản thể
luận và nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng
chất phác.
Phật
giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến
đổi liên tục (vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật
cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ)
gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp
sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật,
hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối
liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
Tác
phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh Phật viết rằng: “Có người cố chấp
là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng
thường định ra chu pháp”(1)
đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi phối bởi luật nhân quả, biến
hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể,
không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân
quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn (vĩnh
viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại
nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có
duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả
mới... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài,
cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như
vậy, ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản
của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai
trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng
bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng
tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ
trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong
vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn
trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do
qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt
vong). Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương
thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
2.2. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng nền thuyết “nhân duyên”.
Trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên. Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân. Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. Duyên:
là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là
một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp
cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví
dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện
và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những
yếu tố đó chính là Duyên.
Trong
thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường
của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lai. Phật giáo đã
trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân
duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một
cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
Vô minh: là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ.
Hành:
là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái
nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh
và là nhân cho Thức.
Thức: là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và làm nhân cho Danh sắc.
Danh sắc:
là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta.
Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho
Lục xứ.
Lục xứ hay lục nhập:
là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã có
hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà
có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho
Xúc.
Xúc:
là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng
xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân
cho Thụ.
Thụ:
là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do
thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho Ái.
Ái: là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.
Thủ: là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.
Hữu:
là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do
Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
Sinh
(Hiện hữu): là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc
sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử.
Lão tử:
là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang
cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi (khổ não
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không
bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại
mà sinh mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho
đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân
Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.
Mối
quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời
gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không
tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt
cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ
trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la.
Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh
hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt,
Vạn
vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra.
Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô
thường, vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô
thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do
vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ
là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là
không thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có
không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái
chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là
đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, cõi niết bàn.
2.3.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong ) tức là cái cảm giác được.
Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.
Trong
“Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn thấy
được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc”
như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn. Bốn yếu tố do nhân
duyên tạo thành phần tâm lý (tinh thần) của con người là:
Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội thân hay tâm.
Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai
thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ
thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn
thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
Các
yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá không
ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không
có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức
cũng đều như thế”.
Như
vậy, thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con
người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì
cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và
hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu
gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
2.4. Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả.
Vì thế mà ta không thấy được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân
thực). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu
nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không
dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp
chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm
của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “thân nghiệp”, còn
hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg
“khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tuệ của ta gây nên
được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây
nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng
như vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh
viễn cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp
báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại
cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay
tốt, thiện hay ác.
Luân
hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho
rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra
khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác
(có thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả,
quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải
căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
2.5. Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do
“ thập nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật
đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không
những đòi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải
thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
Khổ
đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ,
chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải
chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ.... Những nỗi khổ
ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
Tập đế: Tập hợp, tụ tập lại mà thành, tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh.
Đó
là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ), si (si mê, cuồng mê, mê
muội) và dục vọng. Con người bị lòng tham và dục vọng xâu xé là do không
nắm được nhân duyên vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ.
Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái
tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền
miên, từ đời này qua đời khác.
Diệt
đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn
nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực
chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Đạo
đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong
thế giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là
thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận
là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân như
và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức là
đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực
hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8
nguyên tắc (Bát chính đạo) buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái
Chính tư duy: Suy nghĩ phải chính, phải đúng đắn.
Chính nghiệp: Hành động phải chân chính.
Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối
Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà.
Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên.
Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính.
Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chân chính.
Muốn
thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người
làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương
pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép
tu).
“Ngũ giới” gồm:
Bất sát: Không sát sinh
Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
Bất dâm: Không dâm dục.
Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan cho người khác.
“Lục độ” gồm:
Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng.
Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, không để cho cái xấu che lấp.
Bát nhã: Trí tuệ hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm
lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành
đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã
hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người,
chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những
nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể
khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải
cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng
vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện
chứng (vô thường, lý thuyết Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo
cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo
giả và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
3. Ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội Việt Nam
3.1.Phật giáo là một tôn giáo gần gũi và dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian người Việt.
Ở miền bắc đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam là
sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Phật hay quan âm
cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong tâm thức dân gian Việt cổ, Phật
hay quan âm không phải là người “ngoại quốc, người khác tộc). Nếu đặc
điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên) mà con
người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì Phật hay quan âm cũng trở
thành một vị thần, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn
Độ nhường bước cho tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam
nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.
Chính
vì gần gũi và dễ hòa hợp nên tín ngưỡng đạo phật và tín ngưỡng thờ thần
của người Việt có nhiều nét giống nhau song không phải là một.
Bụt giống Phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp
bức bóc lột. Nhưng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai
nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để
cứu vớt. Còn Phật gần gũi, công bằng với tất cả chúng sinh
vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân
bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Với phật, không ai tiểu
nhân,cũng chẳng có ai quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia
cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm
từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, thù hận. Đó cũng là điều phù
hợp với nếp nghĩ của người Việt.
Phật kêu gọi sự tự giác không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế .
Chăc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm
hiểu thế nào là bản ngã, người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo
lớn lao. Phải chăng, đây là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn
bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai.
Cô Tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng
hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền
phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của
đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Tâm lý người Việt Nam ta
phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì
do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có một sự
gắn bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân
gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ
chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình
độ tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã “lộ” cái ý đồng hay
không đồng. Có thể nói rằng, văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là phật hoá.
Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này
bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín ngưỡng bản địa. để
biến Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà không cần phải tạo
ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè.
Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ
truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ
Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng
có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá làng. Có thể
nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho
giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có
phần làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng
là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được
giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không
bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà
vẫn được phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu câu chuyện tình
duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề
nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống
hồn nhiên của làng xã.
Do
Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn
định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng
đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở
vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng
khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật
giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có thể mất
đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo
đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
Trong
mấy chục năm lại đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện
các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân
trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền
định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói
quen không thể thiếu của người theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn
sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả
những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành
động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
3.2.Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo
có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các
trường phổ thông, tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân
đạo như “ Lá lành đùm lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ
viên gạch hồng”… Ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng
nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư
tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người
Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có
những hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn
chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức,
sức lực của mình. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số
phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp những
học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm
huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực
như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá
cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo... Hình ảnh hàng
đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ
quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng
xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên
ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà
còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi
người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không
thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp
ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay
ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh
viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước
thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn
tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán
bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những
thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma
tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn
những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ
ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những
thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết
việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một
trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như
tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết
cần làm ngay.
3.3. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết với sự xâm nhập của
nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài
ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng
sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền
đề xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách
mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho
quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ
tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày
nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm
việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận
thức được về cơ bản giữa mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ
nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục
triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, một bên
thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động
với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu
chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn
một mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái
như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia
khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu
cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn
gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn
thiện cả xã hội.
3.4. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,
mọi lĩnh vực trong đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn
cầu hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải
hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi
đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến
thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu
tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như
vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của
xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo
thế giới. Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng
chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương
trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ
để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác
ái, hỉ xả, nhẫn nhục... Đạo đức nhà Phật mất dần giá trị cũng chính thái
độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể xác thì bị coi là
trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con
người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng không thể
chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
3.5. Chúng ta cũng nhận thấy rằng,
ngày nay trong số những người đi chùa, nhiều người không có đủ tri thức
về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác,
tích cực trong xã hội và gia đình. Người dân lên chùa thường quá chú
trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục
đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo
thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật,
Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những
mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất...
hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn
bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng.
Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi
chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội
tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa
để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm
người, về thiện - ác. Như vậy, mục đích đến chùa của nột số người dân đã
sai lầm so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
3.6.Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển.
Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống
dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu rất đến
sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh
tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ
trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục
tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc quan, tin tưởng,
dũng cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định
rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế
nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân,
làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
4. Kết luận
Qua
việc tìm hiểu vấn đề chúng ta phần nào hiểu thêm được tư tưởng của Phật
giáo. Phật giáo là để độ sinh chứ không phải độ tử, giúp cho chúng ta
thức tỉnh, bỏ ác làm lành, vượt qua mọi khổ đau phiền muộn ngay ở trong
hiện tại để có một cuộc sống hạnh phúc , an lạc cho dù còn nhiều thiếu
thốn về vật chất hay bất cứ một yếu tố khách quan nào đưa lại qua đó cho
chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hình
thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam.
Dù
còn những hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo
đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo
giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình
để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống
thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân
cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang thế kỷ
XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn
thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả
thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có
thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức
nhân văn toàn thiện
hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu
của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể
sẽ nổ ra dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo
hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy
cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải
có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ
tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Như
vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn
tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt
nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự
kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân
cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại.
Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về
thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác
phong trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị
nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn
định, phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Cần (1997), Tinh hoa Phật giáo, NXB Tp.HCM.
2. Thích Nữ Trí Hải dịch (2000), Đức Phật đã dạy những gì (con đường thoát khổ), NXB Tôn giáo.
3. Đoàn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học, NXB Lý luận Chính trị.
4. Thích Minh Thuận (2008), Phật học căn bản, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
5. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. P.V.Bapat (2002), 2005 Năm Phật giáo, người dịch Nguyễn Đức Tư, Nữu Song, NXB VHTT.
8. Thích thiện Siêu dịch(2000), Lời Phật dạy, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
9. Phương Kỳ Sơn (1999), Lịch sử Triết học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
10. Lý Khôi Việt, Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.
11. Viện Triết học (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét