Khổng Đức biên dịch
Vấn
đề đặt ra, làm thế nào tác phẩm được tồn tại? Có
nhiều cách giải đáp.
Ở
đây chúng ta chỉ nêu ra các điểm khái
quát như sau:
1.- Căn cứ theo quan điểm tính chất linh hóa
của vật, chúng ta bài xích tính vật chất của tác phẩm nghệ thuật, do đó chúng
ta coi thường cái đẹp của hình thức.
2.- Tác phẩm thực
sự tồn tại – Chúng ta hãy thảo luận tính song trùng ngữ cảnh của tác phẩm. Tác
phẩm mà chỉ nhắm biêu hiện lại sự hiện thực thì không phải là tác phẩm nghệ thuật
chân chính tồn tại. Phương diện biểu hiện hiện thực ấy chỉ có tác dụng là tài
liệu trong tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm phải thông qua “tính trần thuật tổng hợp”,
trong tài liệu cơ cấu có liên quan đến tính tưởng tượng hình thành “tượng ý”.
Tượng ý là biểu hiện tính chất đặc biệt của sự vật do sự thể nghiệm sinh tồn của
con người thành ra “vật tượng được hiển linh hóa”.
3.- Trong tác phẩm
từ sự tiến hành “ngữ điệu song trùng”, tức là thực hiện hai giọng điệu đi đôi:
là ngữ điệu của đối tượng và ngữ điệu của giá trị tình cảm. hai ngữ điệu ấy
liên hệ hỗ trợ cấu tạo cho tác phẩm “ hoàn thành hình thức ngữ cảnh”; sự hoàn
thành hình thức ngữ cảnh là tạo điều kiện cho sự tồn tại của toàn thể tác phẩm.
Nhưng vấn đề tồn tại tác phẩm vẫn chưa kết thúc, chúng ta còn phải đưa vấn đề
đó ra và hướng đến phương diện căn bản, tức nghệ thuật trong tác phẩm phải làm
sao phát sinh được “chân lý nguyên thủy”; có thông qua được sự giải đáp vấn đề
đó mới có thể xác nhận sự tồn tại của tác phẩm.
Như đã nêu ra ở
trên, tượng ý là hình tượng sự vật được linh hóa, ban cho hình ảnh sự vật lạ, ý
thích thú, nhưng nó cũng chỉ mới là trình hiện từng mảnh những thể nghiệm sinh
tồn. Và cho dù cả nhóm, cả tổ hình ảnh cũng chưa đủ yếu tố để coi đó là sự tồn
tại của toàn thể tác phẩm, mà phải triển
khai cảnh trí vượt lên trên “tượng ý”. Vậy thế nào là “siêu việt tượng ý”, tức
là có một lực lượng cao hơn tượng ý, chính lực lượng đó khiến cho tượng ý có khả
năng, bảo trì được tượng ý và tạo thành sự tồn tại của tác phẩm. Nhưng lực lượng
đó là cái gì, không sao nói ra được; tạm thời hãy dùng bài từ của Mã Trí Viễn
làm thí dụ, bài từ như sau :
Khô
đằng lão thụ hôn nha
Tiểu kiều lưu thủy nhân gia
Cổ đạo tây phong sấu mả
Tịch dương tây hạ
Đoạn trường nhân tại thiên nhai
Tạm dịch: Cây khô dây héo quạ kêu
Dưới cầu nước chảy bên lểu vắng tanh
Đường xưa gió thổi
ngựa trành
Vầng dương tây lặn
xa xanh
Chân trời lữ khách
ngậm vành đắng cay…
Bài từ từng được
Vương Quốc Duy ca tụng : sơ sài chỉ có mấy câu mà đã đạt được
cái đẹp của tuyệt
cú đời Đường. Thi nhân đã đưa ra những hình ảnh sự vật, mục đích không phải chỉ
ra đối tượng tồn tại ở bên ngoài sự vật, mà chính là nêu ra những ý tượng, đọc
qua bài từ, chúng ta cảm động như đứng trước cảnh trí, do các hình ảnh sự vật
có tính hấp dẫn đưa chúng ta đến trạng thái thích thú đặc biệt. Từ đó sinh tình
cảm thảm sầu sâu xa sống động; cho nên tiến đến sự suy tư trạng thái cảnh vực
cô tịch của con người’ Tất cả đều qui về
câu cuối cùng của bài thơ.
Nếu
bỏ đi câu cuối mà chỉ mô tả cảnh và cảnh thì như không có gì cả; cái gọi là vật gây nên ý thú đặc biệt là nhắm vào sức sống,
nỗi thảm sầu sâu xa… Do đó câu cuối cùng bao hàm một thứ lực lượng, mà lực lượng
ấy đến từ “tịch dương tây hạ”(mặt trời đã
lặn về tây) và “đoạn trường nhân”(con
người như đứt từng đoạn ruột) có tác dụng liên hệ bao trùm. Bên chữ “tịch
dương tây hạ” thống nhiếp hình tượng cảnh vật ở trước, và sự bao trùm ấy lại
liên hệ đến ”đoạn trường nhân”. Nương theo sự thống nhiếp cai quản bao trùm và
sự liên hệ, vật tượng ở trước đều hòa nhập vào cảnh trí chân trời mênh mông bao la, từ đó mà tạo ra sự thành
công của tác phẩm là toàn thể tồn tại; khiến cho sự thể nghiệm nhân sinh thành
ra sự biểu hiện một thế giới. Thứ thống nhiếp và liên hệ ấy là một thứ lực lượng
biểu hiện sự thể nghiệm sinh tồn, nhờ lực lượng ấy cuối cùng thực hiện được sự
tồn tại của tác phẩm. Lực lượng ấy biểu hiện tính linh tối cao của con người,
nó là nghệ thuật tối cao của nghệ thuật tưởng tượng. Nó đem lại một thứ gì đó,
mà thứ đó dường như không có danh vị, nhưng rất chân thực, nó tạo thành sự tồn
tại tác phẩm; chính vì nó không có danh vị nên chúng ta mới gọi nó là “tính thần
bí trong nghệ thuật”. Hiện thời chúng ta muốn nói lên điều thần bí không thể nói
ra được, tạm thời chúng ta cấp cho nó một cái tên gọi là “thị vức nội tại” Anh
ngữ gọi là internal vision. Trên kia
tác dụng của câu cuối cùng trong bài thơ cai quản là một sự liên hệ khiến cho
“đoạn trường nhân” thành đại biểu cho một phần thể nghiệm sinh tồn, hóa nhập
vào vật tượng đề ra làm thí dụ, khiến cho vật tượng đoạn trường nhân như hiện
ra trước mắt. Cho nên gọi cái thị vức ấy là “nội tại”, vì thật ra chúng ta
không có cách gì thông qua hình thức cảm tính của tác phẩm mà xác định được sự
nhận thức ra nó – nên gọi là “hóa cảnh”. Tỉ như một tác phẩm hội họa thì tự nó
có hình thể trọn vẹn, như một bức phong cảnh do núi sông hay hạ lưu tạo nên,
nhưng toàn thể hình tượng cấu tạo nên không phải là internal vision mà là
external vision (ngoại bộ thị vức), thị vức ngoại bộ có thể nhìn thấy được,
còn nội tại thị vức thì không sao thấy
được.
Nhưng
“thị vức nội tại” vẫn là thị vức, vì nó trước sau vẫn là lãnh vức do cảm tính nhận được, và nó không phải là khái
niệm hay là thuộc quan niệm phản tư. Đối với việc cầm nắm chân chính sự tồn tại
tác phẩm, tức ý nghĩa đã tiến nhập vào thị vức nội tại. Nhưng điều đó không thể
nói là thông qua hình thức cảm tính của tác phẩm mà tiến vào sự liên tưởng đạt đến quan niệm
biểu hiện và tư tưởng. Tuyệt đối không thể đem các loại thuộc tư tưởng quan niệm
mà coi như là thị vức nội tại của tác phẩm. Quan niệm và tư tưởng không ở trong
cảm tính, nhân đó không phải là thị vức. Đối với việc phê bình một tác
phẩm nghệ thuật là phải nêu ra những hình thức cảm tính cấu tạo thành một thứ
thị vức nội tại, và ý nghĩa thị vức nội tại là cái gì nằm ở đâu? Phải thông qua
những phân tích mới gọi là tiếp thụ chân tướng tác phẩm, mới có thể nhận được
chính xác giá trị nghệ thuật của tác phẩm, phải thông qua sự phê bình thị vức nội
tại của tác phẩm thì sự phê bình ấy mới
có giá trị. Cơ cấu tạo được lãnh vức thị giác nội tại, thì sự chế tác tính tồn
tại của tác phẩm mới thực sự hoàn thành. Sự tồn tại của một họa phẩm không phải
ở màu sắc, đường nét hay ánh sáng bóng tối tương phản mà là ở cách dùng phương
pháp thể hiện của nghệ sĩ hình thành được lãnh vức thị giác nội tại (tức ý
nghĩa ẩn trong bức tranh, như bức tranh đôi giày của Van Gogh).
Tính thần bí của lãnh vức thị giác
nội tại tuy không thể xác định bằng hình tượng cụ thể, nhưng nó vẫn là cảm
tính, vẫn là hình tượng. Thí dụ như ta xem một tác phẩm điêu khắc, nếu chúng ta
chỉ nhận thức hình tượng của sự vật đó, là chúng ta thưởng ngoạn không đúng
nghĩa của nó. Mà chúng ta phải xuyên qua hình tượng đó thấy được lãnh vức thị
giác nội tại của nó. Chỉ có thấy được lãnh vức thị giác nội tại đó, chúng ta mới
tiến vào thế giới thể nghiệm sinh tồn trình hiện trong tác phẩm. Tiếp thụ thẩm
mỹ đúng nghĩa là sự tiếp thụ xâm nhập được vào lãnh vức thị giác nôi tại của
tác phẩm, chứ không phải dừng lại ở hình thức cảm tính ( perception). Phê bình
tác phẩm nghệ thuật đừng có quan tâm đến việc chế tác, mà cần chỉ ra sự tồn tại
của tác phẩm. Đối tượng chính của nghệ thuật phê bình là lãnh vức thị giác nội
tại.
Hưởng
thụ nghệ thuật là gì”? Là chỉ trong sự thể nghiệm sinh tồn nơi thế giới ý tưởng,
con người chụp bắt được sự soi rọi tự ngã; chính đó mới có ý nghĩa là hưởng thụ
nghệ thuật. Tự ngã quan sát sự thể nghiệm sinh tồn, đó là tâm linh con người cá
thể có sự hưởng thụ tối cao. Ý nghĩa của sự hưởng thụ đó là tự do tĩnh lặng, nó
thống nhất với tính tối cao của tình cảm.
Nếu như sự thể nghiệm của chúng ta thực sự sâu
sắc tiến nhập vào trong lãnh vức thị giác nội tại một tác phẩm nào đó, bộ tác
phẩm ấy trở thành một thế giới có sự hấp dẫn. Cái thế giới ấy làm cho chúng ta
cảm động và cuốn hút chúng ta vào trong đó không muốn quay về; nói như thế là
chúng ta lãng quên như đắm đuối trong thế giới phi hiện thực. Sự lãng quên
không nên giải thích là một trường mộng ảo giống như đắm chìm trong cơn ma túy
tạm thời né tránh được sự phiền não hay khốn khó; ý nghĩa cảnh quan ấy là hưởng
thụ nghệ thuật mà vẫn thực hiện trong chủ nghĩa tâm lý.
Tác
phẩm vĩ đại làm ta lãng quên rằng đó là thế giới “phi hiện thực”, nhưng không
phải là một thế giới giả tạo; ngược lại cái thế giới đó là thế giới của “chân
lí nguyên thủy phát sinh”. Chân lý nguyên thủy phát sinh là cảm tính, do đó khi
nó phát sinh thì tính linh con người cảm động ngay; chúng ta từ ý nghĩa đó mà
luận bàn về cảnh giới tối cao của sự thưởng ngoạn nghệ thuật, nó đối với sự thỏa
mãn tình cảm và nguyện vọng giả tưởng không có liên hệ gì. Thỏa mãn của giả tưởng
là đến từ sự mê luyến bản thân hình thức của cảm tính trong tác phẩm. Trong sự
mê luyến ấy thậm chí có thể bao trùm cả
sự mến thích nhân tố tình dục trong tác phẩm. Và chúng ta làm sao có thể coi sự
mê luyến ấy là hưởng thụ nghệ thuật được? Đối với tác phẩm chúng ta trực tiếp
thu nhận, hiển nhiên đó là hình thức cảm tính, nhưng ý nghĩa chân thực của hình
thức cảm tính lại tạo ra lĩnh vực thị giác nội tại. Vì hình thức cảm tính trong tác phẩm có tính chất nước đôi
nó tạo ra rồi lại che đi lãnh vức nội tại. Làm sao đột phá sự che đậy của hình
thức cảm tính để đạt đến lãnh vức thị giác nội tại của tác phẩm. Điểm then chốt
là coi cái thị vức nội tại như là sự sáng chế nội tại của tác phẩm mà ra .
Chúng ta không thể đem cái thị vức nội tại đó mà hiểu là một thứ khách thể, giống
như như nó bắt được trực giác của chúng ta. Đó là điểm thường bị lảng quên, con
người thường có thói quen coi tác phẩm như là một thứ, một công cụ thuộc tính
thẩm mỹ, hay là một thứ khách thể cấp cho gía trị thẩm mỹ. Theo sự lí giải của
Heidegger, nếu cứ nhìn theo quan điểm thường tình đó thì tác phẩm không có cách
gì thành tác phẩm, vì điểm chính trong
tác phẩm là “chế tác ra sự tồn tại”. Ông
nói rằng tác phẩm được chế tác ra sự tồn tại thì trong đó mới biểu hiện sự hiện
thực tức là dùng tác phẩm làm phương thức, ông có đoạn văn như sau:
“Bất cứ một sản phẩm nào sinh ra, chỉ cần
được chế tác, được khẳng định là nó có thể ban cho những gì được sinh sản được
xác nhận có sự tồn tại. Nhưng trong tác phẩm nghệ thuật tính tồn tại được sáng
tác ở trong tác phẩm, tính tồn tại được sáng tác như vậy cũng là phương thức đặc
biệt, theo như cách thế đó thì những gì trong sản phẩm sinh ra đột nhiên xuất
hiện. Nếu đúng như vậy điều mà chúng ta
có thể phát hiện và thể nghiệm trong tác phẩm là sự tồn tại được chế tác.”
Điều được nói ra
ở đây nằm trong tác phẩm sáng chế là “ tồn tại sáng tác”. Cũng như những điếu
chúng ta nói trong tác phẩm là “ lãnh vức
thị giác nội tại”. Chỉ có tiến vào được lãnh vức đó, mới có thể gọi tác phảm là thành phẩm và tồn tại. Tuy nhiên hình thức
cảm tính của tác phẩm làm hoa mắt xúc động con người, và tính tồn tại được chế
tác lại thường trải qua bị tác phẩm che dấu đi; chúng ta sẽ đem cái hình thức
trực tiếp “ bản thân là mỹ” kể như là sự tồn tại của tác phẩm, từ đó quên đi
tinh tồn tại chân chính của tác phẩm.
Bây giờ chúng ta
lại bàn đến quan điểm của hình thức “bản thân của mỹ”, tại sao nó lại tách bản
chất của nghệ thuật. Trước tiên chúng ta hãy xem lại đoạn văn của J.P. Sartre -
triết gia của Pháp, trích dẫn từ trong tác phẩm “Tâm lý học của tưởng tượng”:“Chúng ta đề cập ngay vào vấn đề, sản phẩm nghệ thuật là một thứ “phi hiện
thực”. Tất nhiên chúng ta phải xem đến, chỉ có hiệu quả khi nét bút gây xúc động,
trên bức họa có điểm nhấn mạnh và hoa
văn cùng màu sắc rực sáng lên mới là nét hiện thực chân chính, Nhưng những sự vật
vừa nêu không phải là đối tượng của thẩm mỹ. Chúng ta không thể thông qua sự thể nghiệm tri giác cái mỹ của sự vật, bản
tính quyết định của nó là cái ở thế giới bên ngoài….Cái bí mật ở đây là nơi căn
bản họa sĩ không có đem cái ý tượng gói kín
bất động trong đầu bày ra nơi bức họa, mà họa sĩ chỉ sáng tạo theo ý tượng
mô phỏng tính chất của sự vật. Nhất đán con người xem đến vật mô phỏng đó thì
hiểu ngay hình ảnh ấy; nhưng mặc dù hình ảnh ấy biểu hiện hình dáng ở bên
ngoài, cuối cùng cũng chỉ là hình ảnh. Thứ hình ảnh ấy không có khả năng hiện
thực hóa mà cũng không phải là khách quan hóa. Mục đích mỗi nét bút trên bức họa
đều không phải là tự thân họa sĩ, thậm chí cũng không cấu tạo được một cái hiện
thực thống nhất toàn thể. Nó cùng đi đôi với cái phi hiện thực mà sinh ra thể tổng
hợp, mục đích của nghệ thuật gia là phải
dùng sắc thái hiện thực cấu tạo nên cái toàn thể, cái toàn thể ấy mới khiến cho
hình ảnh phi hiện thực hiển hiện. Do đó
chúng ta phải coi bức họa ây như một vật thể ( trong khi người thưởng ngoạn
phát huy sự tưởng tượng của nó) thì không khi nào nó lại tiếp thụ cái hình ảnh
phi hiện thực; cái thứ hình ảnh phi hiện thực ấy mới là khách thể của bức họa.
Nó khiến chúng ta khi ngắm vào sắc thái hiện
thực giả tạo của bức họa ấy lại thấy khoái trá. Hiện tượng khoái lạc thẩm mỹ là thực tại, nhưng mục đích
không phải là đi tìm cái sắc thái hiện thực như hiện thực mà tạo ra bản thân của
khoái lạc. Thẩm mỹ đúng đắn chính là chúng ta nhận thức cái phương thức của một
thứ đối tượng phi hiện thực, đối tượng ấy không phải là bức tranh hiện thực.”
Ở đây Sartre
hoàn toàn phủ định giá trị thẩm mỹ của bản thân hình thức cảm tính (chú ý: thực
tế ông đã phân chia “khoái lạc thẩm mỹ” với “giá trị thẩm mỹ”, phủ định hình thức
cảm tính cá biệt tạo thành sự khoan khoái cảm quan là không có giá trị thẩm mỹ,
đồng thời cũng phủ định hình thức tác phẩm được cấu tạo hoàn bị cũng không có giá trị thẩm mỹ. Nhưng hình
thức hiện thực ấy là sự vật có thể nhìn
thấy trực tiếp đều không có giá trị thẩm mỹ, tức nói giá trị thẩm mỹ là kí thác
ở thể tổng hợp phi hiện thực, bản thân của nó không thể thấy trực tiếp được;
nhưng nghệ thuật gia lại cần đòi hỏi phải truy tầm cái hình thức có thể vận dụng trực quan.
Rõ ràng cái thể “tổng hợp phi hiện thực” tức là điều
mà chúng tôi gọi là “lãnh vức thị giác nôi tại” của tác phẩm; cách dùng từ có
khác nhau, nhưng tư tưởng như nhau. Ông ta còn chỉ dẫn rõ cái tác dụng “thể tổng hợp của phi hiện thực “ là ở chỗ để cho hình ảnh
phi hiện thực được biểu hiện, vậy hình ảnh phi hiện thực là cái gì? Ông đáp: Nó
là “sự vật khách thể trong bức họa”, chỉ có cái khách thể đó mới là mỹ. Do đó
tác phẩm nghệ thuật được coi như là đối tượng thẩm mỹ, một mặt là mỹ còn một mặt là phi hiện thực; chúng ta có thể
gọi đó là “hình ảnh thẩm mỹ”.
Bản tính của
hình ảnh thẩm mỹ quyết định ở bên ngoài thế giới hiên thực; cho nên nói đến cội
nguồn muốn cảm nhận được nó không phải thông qua tri giác. Mà chỉ do tính chất
đặc biệt của sự vật cùng với hình thức cảm tính đưa đến hiện tượng khoái lạc thẩm
mỹ, nhưng không thể coi đó là sự tồn tại của tác phẩm, vì khoái lạc thẩm mỹ
không phải là sự hình thành của hình ảnh thẩm mỹ. Theo quan điểm của Sartre thực
tại khoái lạc thẩm mỹ trực tiếp không phải là bản thân mục đích của nghệ thuật,
mà chỉ là phong cách vận dụng của nghệ
thuật.
Có người thích
âm sắc của nhạc cụ tây phương có thể đạt đến trình độ, ngồi trong phòng biểu diễn, trong khi buổi diễn tấu âm
nhạc chưa bắt đầu mà người ta chỉ điều
chỉnh nhạc điệu, thanh âm phát ra vô cùng hổn tạp, thế mà khán giả ngồi đợi đã tự thấy thỏa mãn thích thú rồi. Sự khoái
thích ấy có thể hiểu được, nhưng không thể nói đó là sự khoai thích của thẩm mỹ.
Ví như có người nào từng hiểu biết về âm thanh thích âm sắc của một thứ nhạc
khí nào rồi, thì chăc chắn không thể nhận đó là sự biểu diễn của âm nhạc. Đúng
như Sartre nói:“ nếu chúng ta khảo sát về sự hưởng thụ đơn độc thì không hề có
tính chất thẩm mỹ, mà chỉ có sự khoái cảm đơn thuần mà thôi”.
Nếu như không cô
lập mà gia tăng sự khảo sát suy tư, thì phải thừa nhận sự hưởng thụ ầy xác thực
là tham dự vào sự tiếp thụ thẩm mỹ đối với tác phẩm, do đó có ý nghĩa thẩm mỹ,
vì trong việc thưởng ngoạn nghê thuật, tóm lại là có hàm ý tính chất thích thú đối với tính vật chất của
tác phẩm. Không thể cho rằng đối với âm sắc của nhạc Tây phương có thich thú và
yêu thích thì bị “tẩy sạch”, thực tế vẫn còn có thể thưởng thức nhạc giao hưởng
của tây phương. Không có khoái thích là không đúng; đối với tính hấp dẫn đặc biệt
của sự vật mà không cảm thụ là không đúng. Có khi đối với các sụ vật đặc biệt.
có thái độ cách xa hay cự tuyệt, tóm lại là chúng ta không ngớt tiến vào loại hình nghệ thuật.
Trong lãnh vức
âm nhạc, âm sắc đặc biệt của nhạc khí, như thang âm trầm lắng thấp, v…v… đều là
đặc tính của tác phẩm vật chất, do chúng đựợc đưa ra trong tác phẩm âm nhạc, đạt
đến tính “linh hóa của vật” cấu tạo thành tri giác cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ âm
nhạc của chúng ta. Do đó hình ảnh thẩm mỹ không phải thông qua tri giác cảm thức,
nhưng tri giác vốn phải thông qua hình ảnh thẩm mỹ. Tác phẩm đối với khán giả,
trước tiên là phải dùng hình thức cảm tính mà trực quan. Thực chất của vấn đề
là ở nơi phải trùng tân tri giác lí giải cái ý nghĩa trong việc tiếp thụ nghệ
thuật.
Cái tri giác
trong việc tiếp thụ nghệ thuật là thứ tri giác nào? Nó không phải đơn thuần là
thứ cảm tri bị động, mà cấu tạo thành một thứ năng động tham dự đối với tác phẩm
là thị vức nội tại. Chính trong sự năng động tham dự mới đưa vào trong tác phẩm
“ sự tồn tại sáng tạo”, mới có thể đối diện với khán giả đột ngột xuất hiện; từ
đó khiến cho tác phẩm chân chính thành “phương thức tác phẩm hiện trường”. Cũng
chỉ có sự tham dự của khán giả vào lãnh vực nội tại của tác phẩm, thì tác phẩm
mới hoàn thành.
Đối với phương
pháp hưởng thụ nghệ thuật chân chính Sartre cùng nhất trí với phương pháp của
Heidegger; cả hai đều coi việc hưởng thụ nghệ thuật thành ra sự lãnh hội chân lí phát sinh. Chỉ
có cách diễn đạt thì khác nhau, Heidegger nói rằng:”ở đây sự tồn tại phát
sinh không còn bị che đậy, và thứ phát
sinh ấy vẫn là lần thú nhất”. Trong khi Sartre thì cho rằng:”Sự vật thực tại
vĩnh viễn không phải là mỹ…Ý nghĩa mỹ đối
với thế giới hiện thực, cơ cấu thực tế bị phủ định. “Lời nói ở đây không phải
là giả định, chân lí xác thực phát sinh ở trong sự phủ định tính hiện thực trực
tiếp. Sartre cho rằng hoạt động thẩm mỹ là một phương thức nhận thức đối tượng phi
hiện thực. Sự phán đoán của ông rất đúng. Khi chúng ta cảm thụ một thứ sắc thái
đặc biệt hấp dẫn, hay âm sắc của một thứ nhac khí đặc biệt hấp dẫn. Sự hấp dẫn ấy
tồn tại, là vì chúng dắt dẫn đến việc trình hiện sự tồn tại mang tính siêu việt.
Chúng giống như sắp đặt thành một đường
thông suốt đến việc trình hiện thể nghiệm sinh tồn, dẫn đến trong sự trình hiện
phát sinh chân lí.
Sự phát sinh
chân lí, ý nghĩa là “trạng thái sự thực” hiện thực thành ra siêu việt, và nó
thông qua một thế giới phi hiện thực. Do đó phát sinh chân lí nguyên thủy, về bản
chât tức có ý nghĩa là do sự tưởng tượng kích động cao độ. Hưởng thụ nghệ thuật
đến cảnh giới tối cao cần phải hiểu rõ điểm căn bản đó,
Tác phẩm dựa vào
lãnh vức thị giác nội tại của nó, sức tưởng tượng tạo ra hiện thực siêu việt
cung cấp cho không gian. Ý nghĩa trong tác phẩm vĩ đại vĩnh viễn là đạo sư của con người, nó đề cao chúng ta như
là sự tồn tại luôn luôn khải phát sự bảo tồn của chúng ta và phát triển một thứ
tưởng tượng thành năng lực của một thế giới phi hiện thực. Nghệ thuật chân
chính nuôi dưỡng gia tăng tâm linh và bồi dưỡng
sức tưởng tượng của chúng ta. Sức tưởng tượng nghệ thuật nhất đán khô kiệt
thì lấy gì mà sáng tạo, thậm chí đến tính độc sáng trong lãnh vức khoa học
thiên nhiên cũng hết khả năng. Việc nghiên cứu sáng chế thành công trong lãnh vực
khoa học vẫn thuộc phạm vi tưởng tượng vĩ đại của tính tồn tại siêu việt chứ
không phải do suy luận logic.
Tác phẩm nghệ
thuật chân chính không phải cung cấp cho chúng ta một thứ khách thể thẩm mỹ thú
vị đầy đủ; tác phẩm tạo ra sự tồn tại là ở nơi lãnh vức thị giác nội tại, do sự
hình thành hình ảnh cung cấp một “không gian”, đó cũng là khả năng cung cấp cho
sự phát sinh chân lí. Sự phát sinh chân lí với sự thỏa mãn thích thú là đại biểu
cho hai quan điểm nghệ thuật khác nhau.
Con người không
phải cần đến nghệ thuật theo ý nghĩa như sau: cảm quan phảng phất như thỏa mãn
một nhu cấu, tức là hình thức cảm tính đối với sự vật ở bên ngoài có một thứ
đòi hỏi sự thẩm mỹ thích thú. Nhưng nếu đối đải với nghệ thuật theo cách nhìn
như vậy, thì nghệ thuật vĩnh viễn là một
thứ sản phẩm phụ thuộc trong sự sinh hoạt là một hiện tượng tùy thuộc, một thứ
sinh hoạt khô khan hay chỉ là một thứ trò chơi.
Tóm lại như vừa
nêu ở trên, Mỹ là thẩm mỹ hình ảnh và đúng như Heidegger từng nói:”Bản chất của tác phẩm nghệ thuật là
nơi phát sinh chân lý”; nên trong cuộc sống con người nguyên nhân căn bản là phải
cần đến nghệ thuật.
Khổng Đức (7-2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét