Con-đường-Trong
thi tập Lục-bát-ba-câu ①
Nguyễn
Tiên Yên
Tiếp
sau những thi tập của các tên tuổi thuộc nền thi ca miền Nam Việt Nam như
Quách
Tấn, Hoài Khanh, Viên Linh, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, thì mới đây, Tủ sách Triết
học và Văn học Phật Giáo của Thư quán Hương Tích vừa cho ấn hành tập di cảo Lục-bát-ba-câu
của thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan.
Trong
khoảng 20 năm nay, Nguyễn công xuất hiện đột ngột như một nhà nghiên
cứu
chuyên môn văn học cổ điển Trung Quốc. Những công trình đồ sộ của ông đã
đưa
tên tuổi Nguyễn Tôn Nhan trở thành một trong năm học giả Hán học tiêu biểu
nhất
của miền Nam có tên trong bộ Từ điển về các nhà Trung Quốc học trên thế giới do
Đại học Quốc gia Đài Loan chủ biên ②
. Nhưng kỳ thực, cốt cách bản lai của ông mãi mãi vẫn là một thi sĩ, dù cho đến
ngày vĩnh biệt trần gian này ông chưa từng chính thức cho ra đời một thi tập
nào. Có thể cảm nhận được điều đó qua lời tâm sự của thi sĩ Nguyễn Lương Vỵ,
“thơ Nguyễn Tôn Nhan, tuy tác phẩm chưa nhiều như phần biên khảo dịch thuật,
nhưng điều đáng quí là cốt cách Thi Sĩ, tâm thức Sáng Tạo, cõi Thơ của Nhan đã
có riêng một khoảng trời, trong vắt, thủy chung.”
Tôi
có duyên may được đọc thi tập Lục-bát-ba-câutừ khi ông mới viết xong bản
thảo
vào năm 1996. Mười mấy năm trôi qua cũng khôngít lần đọc lại trong nhiều
chiều
kích tư tưởng, nhưng sớm nay, có cơn gió nhẹ buổi tàn đông mà gây lạnh buốt suy
tư bằng mấy dòng khai thị của nhà thơ Bùi Nghi
Trang khi ông cho rằng
Lục-bát-ba-câu“đúng
là những bài thơ lời ngắn mà ý sâu, bàng bạchồn dân tộc hòa
triết
lý của Tam giáo Khổng–Lão–Phật. Đọc thơ anh,
nếu không có vốn hiểu biết tối thiểu về ba tôn giáo ấy thì e rằng khó cảm
nhận được cuộc rong chơi tư tưởng đầy tham vọngthu nhiếp mười phươngcủa một con
người siêu thực như anh.”
Vậy
là tôi lẫm chẫm quay lại trang đầu tiên với ba câu lục bát mở đầu thi tập.
một là vượt cửa tử sinh
hai là trụ được một mình ở đây
ba là không vơi không đầy.
Đề ▪ một là vượt cửa tử sinh
Là
bởi vì còn lênh đênh trong vòng cương tỏa của sinh tử, chúng ta còn chịu nhiều
khổ não buồn đau. Cho nên, giải thoát tử sinhvẫn luôn là ước vọng ngàn đời trải
suốt hai bờ Đông Tây.
2
Quan
niệm Giải thoát(mokṣa) luôn chiếm ý
nghĩa trọng tâm trong tư tưởng Ấn
Độ.
Có nghĩa là phải thoát khỏi Luân hồi đầy những
khổ, đạt tới trạng thái không
quay
lại thế giới sinh tồn lần nào nữa. Tiêu diệt mọi dục vọng cũng đồng nghĩa với
Niết-bàn
(= Giác ngộ) đã được giải phóng khỏi trói
buộc của phiền não. Tuy nhiên, cùng một chữ Giải thoátnhưng ở mỗi học
phái lại có nội dung khác nhau.
Đối
với Triết học Upaniṣad, Giải thoátlà khi
ngộ được bản chất của Brahman
(Phạm)
và Ātman (Ngã), trực quán chân lý Phạm Ngã Nhất Như(nguyên lý tối cao của vũ trụ–Brahman,
và, bản chất của cá ngã–Ātman, nguyên sơ là một), hợp nhất với Brahman. Phương
pháp đạt tới Giải thoátlà kiểm soát thân thể–cơ quan cảm giác–dục vọng, thống
nhất tâm thân bằng phép minh tưởng Yoga, tập trung hoàn toàn vào Brahman và
Ātman. Quan niệm Giải thoátkhỏi Nghiệp
đã được tinh luyện từ Cổ Upaniṣad (khoảng năm 600 tcn), và tiếp tục gây ảnh hưởng
sâu rộng trong tư tưởng Ấn Độ sau này. Trong
Pháp điển Manu(Manusmti, khoảng tkII tcn – tkII scn), và ở thời đại
thành lập Tự sự thi (khoảng tkIV), xã hội
bấy giờ đã có sự nhất trí về ba giá trị lớn của Thế tục đóng vai trò mục
đích đời ngườilà dharma(pháp 法)
– artha(lợi 利) – kāma(ái 愛),
và giá trị tối cao của Xuất gia là Giải thoát.
Với
Kỳ-na giáo, Giải thoát nghĩa là tất cả Nghiệp bị tiêu diệt bằng tu tập Khổhạnh.
Với
các phái Hindu giáo, đó là trở nên một với các vị thần tối cao mà họ đã dựng
lên như Śiva, Viṣṇu, …
Còn
trong Phật Giáo, tương tự các tôn giáo khác,
Giải thoátvẫn được coi là mục
tiêu
cứu cánh phải hướng đến. Lìa bỏ những khổ đau–ưu sầu–bệnh tật–già chết–hỉ
nộ
ai lạc của đời này, truy cầu và đạt tới một thế
giới an tĩnh, trạng thái như vậy
chính
là Giải thoát. Con người luôn bị câu
thúc bởi nhiều hạn định nhưsinh-tử, thì
Giải
thoátlà cảnh giới tự do đã lìa khỏi những hạn định đó.
Thực ▪ hai là trụ được một mình ở
đây
Vậy
ra nếu công phu tu tập chưa đủ đạt tới Giải thoát Vượt-cửa-Tử-sinhthì vẫn còn
một
lối đi đối trọng đó là Trụ-được-Một-mình. Một thực tại trụ tồn vĩnh viễn bất biến
bất diệt như vậy, các học giả của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ gọi tên nó bằng các
chữ như Tự tính/ Tự thể (svabhāva), hay
Tự tướng(svalakṣaṇa), hoặc Thực thể(dravya).
Triết
học Tây phương gọi khái niệm như vậy là Thực thểhoặc Bản chất. Đó là thứ
nằm
tận căn để của các tính chất, trạng thái, tác dụng gọi chung là hiện tượng sinh
thành
biến hóa và tri giác được, nó đồng nhất với Tự kỷ, tồn tại hằng thường, và vì
sự
tồn tại của bản thân mà không cần thiết một thứ
nào khác. Hiện tượng thì mang
tính
ngẫu nhiên, ngược lại, Thực thểmang tính
bản chất, và từng cá thể hiện tượng
nhờ
vào mối quan hệ với Thực thểhay Bản chấtcủa nó mà tồn tại.
Tóm
lại, Tồn tại Bản chất còn được gọi là Tồn tại cố hữu, Bản tính, Bản thể, hay
Thực
thể, nhưng ở đây tôi muốn giữ y nguyên dịch ngữ Tự tính 自性như
trong bản Hán dịch Trung LuậnChương 15 của ngài La-thập. Nguyên ngữ Sanskrit
tương ứng là svabhāva.
Cũng
trong Chương 15 nhan đề Khảo sát Tự
tính, ngài Long Thụ định nghĩa Tự
tínhmà
Hữu Bộ và các phái Thực Tại Luận khác đã suy nghĩ như sau. Tự tính không phải
là thứ được tạo ra bởi một thứ khác cho nên làTồn tại Tự lập. Nó tuyệt không biến
hóa, không sinh diệt cho nên là Tồn tại Thườnghằng. Tự tínhluôn duy trì Tự kỷ đồng
nhất tính, không có bộ phận nào khác cho nên là Tồn tại Đơn nhất. Như vậy, Tự
tínhmà Long Thụ nói, là một Thực tại có tính Tự lập – Thường hằng – Đơn nhất.
Luận ▪ ba là không vơi không đầy
Rõ
ràng hai hướng đi mà Nguyễn công nêu ra,
Giải thoát Sinh-tửhay Tồn tại
trên
cơ
sở Tự tính, cả thảy đều mưu cầu đạt tới cảnh giới an lạc tự do tự tại thoát khỏi
mọi ràng buộc của trần thế. Tuy nhiên, cho dù
Giải thoátlà có thật vì tối thiểu trong giới hạn văn hiến đã khẳng định
nhân vật đầu tiên trong lịch sử đạt được an lạc cứu cánh chính là Đức Phật Cồ-đàm,
và cho dù Giải thoátcó là mục đích tối chung của mọi tôn giáo Ấn Độ, thì đối với
người thi sĩ trót thênh thang trong cõi trần gian mộng ảo ly kỳ xương máu, Giải
thoátđơn giản chỉ là một chọn lựa – một cực đoan – một biên.
Còn
cái gọi là Tự tínhtồn tại thường hằng qua ba thời quá khứ–hiện tại–vị lai thì
sao?
Thật sự đó chỉ là Thực thể hóa của Khái niệm,
nó chẳng tồn tại ở bất cứ đâu
ngoài
thế giới của Tư duy và Ngôn từ. Điều mà
Kinh Bát-nhãhay Trung Luậnvẫn
luôn
nhấn mạnh chính là, nếu có thứ gì thực tại trên cơ sở Tự tínhthì sẽ không thể
nào
giải thích được thế giới của quan hệ nhân quả và sinh diệt biến hóa mà chúng ta
vẫn luôn kinh nghiệm. Cho nên, sự vật không có như là Tự tính. Sự vật là Không
trên cơ sở Tự tính. Nhưng cho dù Tự tínhvà Duyên khởicó mối quan hệ bất tương
dung đi nữa, vẫn không phải là vấn đề làm bận tâm thi sĩ vìđối với ông, Tự tínhcũng chỉ là một chọn lựa – một cực
đoan – một biênnữa mà thôi.
Ngang
đây, tôi nhớ ra trong thi tập Lục-bát-ba-câu có bài,
lỡ rong chơi với lão trang
nên chưa rời nổi cái làng rỗng
không
lòng như trời trống mênh mông.
Mấy
nét phác họa đã cho thấy Nguyễn công là người cả đời chìm đắm trong tư
tưởng
sâu kín mà bay bổng của Lão-Trang, và cũng chính chi tiết này bất ngờ gợi ý
cho
tôi chuyển hướng thuyên thích nội dung câu thơ
ba là không vơi không đầytừ góc nhìn của Lão Tử Đạo Đức Kinh. Cặp khái
niệm vơi–đầydẫn tôi về lại Chương 22 với
những câu tương tự nghĩa như Khúc tắc
Toàn 曲則全(Khuyết
thì Toàn vẹn), hayOa tắc Doanh 窪則盈(Trũng thì Đầy). Đạo Tự nhiên không đứng
về biên nào mà lìa khỏi hai biên,
vơihay đầy, thái quá hay bất cập
đều không hợp Đạo, cho nên Đạo luôn ở chỗ quân bình mà khiến cho cái khiếm khuyết thành toàn vẹn, chỗ trũng vơi thành tràn đầy.
Hoặc một câu khác rõ nghĩa hơn nữa nằm trong Chương 77 như sau, Thiên chi Đạo tổn
hữu dư nhi bổ bất túc 天之道損有餘而補不足.
Đạo Trời là bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu, chính vì vậy mà không có vơicũng chẳng
có đầy, sự vật đã quay về chỗ cân bằng nhập làm Một với Đạo. Chỉ một câu thơ đủ
làm an lạc mọi thao thức hoài nghi đời người, ấy là đạt tới chỗ diệu dụng vậy.
Tôi
nghĩ, thi ca phải là một cuộc trình diễn điêu luyện chữ nghĩa cô súc trau chuốt
đến mức tinh luyện thì mới thể hiện hết tài năng trác tuyệt cũng như vốn học
uyên bác của người thi sĩ. Một điều tất yếu cũng nên nhắc lại đó là, thi ca phải vấn biểu đạt được tư tưởng ý chí
của người sáng tạo ra nó, như Trang Tử từng
nói Thi dĩ đạo chí 詩以道志hay
quen thuộc hơn là câu Thi ngôn chí 詩言志(Thơ
dùng để nói chí) trong sách Thượng Thư.
Bấy nhiêu đó, tôi lại nghĩ, vẫn chưa đủ. Bởi vì đối với tôi,
Thơ –cuối cùng phải tới được Đạo.
Cặp
khái niệm đối lập vơi–đầyđã nhắc nhớ đến
tư tưởng Lão-Trang, nhưng khi
nó
đứng chung với phủ định từ khôngđể thành không vơi –không đầyvà nhất là ngay
trước đó thói quen suy nghĩ đã bị dồn về hai kiến giải cực đoan thì tôi nghĩ
ngay Nguyễn công sẽ vượt thoát nhị biên bằng Con-đường-Trong Trung Đạo.
Phật
Giáo, đặc biệt là những người tuyên dương tư tưởng Bát-nhã, đã đi đến kết
luận
rằng, trong thế giới được soi sáng bằng trí huệ bát-nhã thì mọi danh xưng tự
thân
nó không thành lập như là thứ chân thực. Kết luận này được tóm tắt tài tình qua
Bát bất Trung Đạo 八不中道(8 phủ định) mở đầu tác phẩm Trung Luậncủa Long Thụ, “không diệt không
sinh – không đoạn tuyệt không thường hằng – không đồng nhất không dị biệt –
không đến không đi.”
Sinh-Diệt
hay Đến-Đi, đó là những cặp khái niệm đốilập nhau. Không chỉ có tám
khái
niệm này mà toàn bộ danh xưng, tất cả đều mangtính đối lập. Là bởi vì, khi có
thể
gọi là A nghĩa là chắc chắn phi-A trở thành tiền đề. Chẳng hạn Tôi đối lập với
Tha
nhân, Trên đối lập với Dưới, Chân đối lập với Ngụy, Thiện đối lập với Ác, cho
đến vơiđối lập với đầy. Và trong tất cả khái niệm, thì khái niệm
mang tính cơ bản
nhất
chính là Sinh và Diệt mở đầu Bát bất Trung Đạo, hay nói cách khác là Hữu 有và
Vô 無.
Cũng trên hai khái niệm Hữu-Vô này mà chằng chịt bao nhiêu khái niệm khác thành
lập nên. Hữu-Vô chính là khái niệm cơ bản cấuthành phán định phân biệt(vikalpa) của chúng ta.
Tuy nhiên, trí huệ Bát-nhã thấy rằng, mọi
tồn tại (nhất thiết chư pháp 一切諸法)
không phải Hữu cũng không phải Vô, tức là phi-Hữuphi-Vô. Quan điểm phi-Hữu
phi-Vô gọi là Trung Đạo.
Trong
giới hạn cần thiết, tôi chỉ có thể nói ngắn gọn rằng tư tưởng Trung Đạo đã
luôn
là tư tưởng cốt cán của Phật Giáo trải từ thờiĐức Phật cho đến Bộ Phái Phật
Giáo
rồi Đại Thừa Phật Giáo qua hết mấy chặng đườngphi-Khổ phi-Lạc, phi-Thường
phi-Đoạn, phi-Hữu phi-Vô. Nhưng đặc biệt đối với Long Thụ, khái niệm Trung hay
Trung Đạo vừa được sử dụng làm tên học phái vừa chiếm một vị trí cực kỳ trọng yếu
như là dấu chỉ căn bản cho hệ thống tư tưởng Trung Quán phái. Hãy nghe Long Thụ
tuân thủ giáo thuyết Trung Đạo truyền thống của ĐứcPhật qua câu kệ thứ 7 Chương
15 Trung Luận.
“Trong
[Kinh] giáo huấn Kātyāyana, cả hai thứ Hữu
(asti) và Vô (nāsti) đều bị phủ định bởi Thế Tôn – là người thấu rõ về Tồn tại
(bhāva) và phi-Tồn tại (a-bhāva).” Như vậy cả hai chủ trương – thiên chấp Hữu
hay thiên chấp Vô – đều bị phủ định, có nghĩa là muốn nhấn mạnh đến Trung, và
đây chính là chủ đề của Trung Luận. Tuy nhiên, đối với tư tưởng Trung
Quán của Long Thụ thì Trung Đạo còn được triển khai quyết liệt hơn nữa bằng đẳng
thức Không 空= Giả 假= Trung 中xuất
hiện trong Trung Luận, Chương 24 Khảo sát Tứ thánh đế, kệ thứ 18.
“Bất
cứ thứ gì Duyên Khởi, chúng tôi gọi nó là Không Tính.
Nó
là Giả Thiết (= ngôn từ được sử dụng giả tạm để làm cho biết có thế giới hiện
tượng),
và là Trung Đạo.” Đây là câu kệ cực kỳ trọng yếu vì tuy Trung Đạo là đường lối của
Trung Luận nhưng trải suốt 27 chương 448 kệ của tác phẩm, chữ Trung Đạo
madhyamā pratipad chỉ xuất hiện đúng một lần nơi đây, cho nên có thể coi
kệ này là manh mối duy nhất để khảo sát Trung Đạo.
Thiên
Thai Tông cho rằng kệ này trình bày Tam đế(ba chân lý) Không–Giả–Trung,
và
gọi đó là Tam đế kệ. Đại khái ý nghĩa muốn nói, thứ được sinh ra do Nhân Duyên
thì là Không. Không cũng chỉ là Giả Danh chứ tuyệt đối không được coi Không là Thực Thể. Cho
nên, ở cảnh giới làm Không thành ra Không thì Trung Đạo xuất hiện.
Xưa
nay đây vẫn là kiểu giải thích theo truyền thống Trung Quốc, tuy nhiên các học
giả hiện đại như Th. Stcherbatsky, P. L. Vaidya, N.Dutt đã nghiên cứu Trung Luận theo cách không quan hệ gì đến
truyền thống đó. Họ cho rằng câu kệ này
có nghĩa đơn giản là, Duyên Khởi–Không Tính–Giả Danh–Trung Đạo, bốn khái niệm
đó đồng nhất, và không đề cập gì đến tư tưởng Tam đế. Chính vì đồng nhất cho
nên sẽ không thể nào lý giải được Không Tính–Duyên Khởi nếu lìa khỏi tư tưởng
Trung Đạo, và để lý giải không mắc sai lầm về Không Tính–Duyên khởi thì phải được
quy về Trung Đạo.
Kết ▪ cõi này là để chơi hoang
Mừng
quá khi cuối cùng tôi cũng đọc xong được bài đầu tiên trong thi tập. Chỉ có
3
câu lục bát vỏn vẹn 20 chữ mà phải tốn hết mấy trang giấy hý lộng đủ thứ triết
lý
trên
trời dưới đất, chẳng hiểu sao tôi vẫn hay sa đà vào mấy chuyện chấp chặt chữ
nghĩa
như vậy. Có lẽ đời này tôi không có cơ hội với tới cảnh giới bất lập văn tựcủa Thiền Tông rồi!
Tôi
nhớ triết gia Wittgenstein có nói, the limits of my language mean the limits of
my world– giới hạn ngôn ngữ của tôi chính là giới hạn thế giới của tôi, và chắc cũng không quá ngôn
chút nào khi tuyên bố rằng, bản chất của Phật Giáo xét cho cùng là Triết học
ngôn ngữ. Dĩ nhiên, tạm thời không xét đến Thiền Tông, còn lại tôi thấy mọi suy tư của Phật Giáo đều
xoay quanh ngôn ngữ. Trung luậncủa Long Thụ, rồi Duy Thức thuyết của Vô Trước
và Thế Thân, hay Luận lý học của Trần-na
và Pháp Xứng, hết thảy đều thực hiện những nghiên cứu mang tính triết học về
ngôn từ, giải quyết rốt ráo mối quan hệ giữa ngôn từ và chân lý cũng như giới hạn
của nó. Chính cái nhìn tỉnh táo về hoạt động của ngôn từ sẽ là chìa khóa quan
trọng mở toang cánh cửa giác ngộ thoát khỏi mê lầm kiếp nhân sinh.
Vẫn
còn lại 234 bài trong thi tập. Không bài nào cótựa đề đúng như tinh thần câu
thơ
của Viên Mai ③mà
Nguyễn công đã trích dẫn ở đầu thi tập. Thi đáo vô đề thị hóa công 詩到無題是化工–
thơ mà đến chỗ không đề, ấy là thơ trời. Viên Mai còn nói, “Thơ không có đề mục
là tiếng thiên nhiên, thơ có đề mục là tiếng của người, tiếng thiên nhiên dễ
hay, tiếng của người khó hay”. Thế nhưng tại sao “tiếng thiên nhiên” của Nguyễn
công lại giới hạn dứt khoát trong vòng ba câu lục bát? Đã có nhiều ý kiến cho rằng
ông cách tân lục bát, hay ông sáng tạo hài cú Việt, hoặc ông lấy hứng từ Tam
tàiThiên–Địa–Nhân, v.v… Tôi thì nghĩ Nguyễn công là người nhất dĩ quán chi, trước
sau ông mê nhất vẫn là tư tưởng Lão-Trang, cho nên tôi lại giở Đạo Đức Kinhra để
hiểu ông. Chương 42 có mấy câu như sau, Đạo sinh Nhất 道生一 Nhất sinh Nhị
一生二Nhị sinh Tam 二生三Tam
sinh Vạn vật 三生萬物, nghĩa là Đạo sinh ra Một (= Thái cực),
từ Một sinh ra Hai (= Âm-Dương), Hai sinh ra Ba (= giao hòa của Âm-Dương), rồi
từ Ba mà Vạn vật sinh thành. Đây chính là nguyên lý sáng tạo của Lão Tử, về sau
Trang Tử đã phát huy quá trình sáng tạo
này trong Nam Hoa Kinh chương Thiên Địa.
Khi
đã hiểu Đạo thì không có gì mới dưới ánh mặt trời. Nguyễn công là người học
phong nghiêm cách, thơ ông trước sau niêm luật chặt chẽ. Cho nên tôi nghĩ, ông
chưa
từng có ý định cách tân hời hợt hay đại loại diễn trò nhạt nhẽo tân-hình-thức
dù ông biết chắc ngưng ở câu-lụcdễ gây cảm giác khó chịu, thiếu thốn, muốn phá
bung trạng huống trì trệ để quay về với quán tính câu-bátcân bằng viên mãn.
Nhưng có đọc trọn vẹn thi tập Lục-bát-ba-câumới
thấy công phu hàm dưỡng thậm thâm khi ông đoạn diệt ngay câu-lục. Câu-lụctrong
lục-bát-ba-câu không phải là điểm dừng khơi gợi cho thiên hạ tự tiện điền thêm
một câu-bát-ngát thừa thãi nào nữa mà đó là câu–kết, câu–chấm hết, câu–tiếp cận
chân lý, câu–chân lý, câu–công án, câu–cắt đứt mọi vọng tưởng, câu–dồn vào ải lộ
buộc lòng phải đáo bỉ ngạn.
Trên
kia tôi vừa nói mình có tật hay sa đà, tới đâytôi mới biết mình còn rất hay
tưởng
tượng tri âm thuyết dữ tri âm thính. Có
nghĩa là những gì mà tôi dày công suy diễn nãy giờ có thể chỉ là áp đặt và khả
năng trật lất hoàn toàn rất cao. Nhưng chẳng may mà trúng thì sao? Thì rốt cuộc,
thơ Nguyễn Tôn Nhan đã đi vào Con-đường-Trong
Trung Đạo.
Đúng
rồi, khi ông hoàn thành thi tập Lục-bát-ba-câulà
tôi nhớ ngay tức khắc đến câu nói của Đức Phật
kataṃ karaṇīyaṃ– việc cần làm đã làm xong, hay Tử viết Toại sự bất gián 子曰遂事不諫– Khổng Tử nói, việc đã xong không can nữa.
Cuộc chơi thi ca của Nguyễn Tôn Nhan coi như kết thúc vào năm1996, là năm ông
viết thi tập trong cơn hứng khởi đột ngột hay dưới hào quang rạng rỡ, mà không
quá mười ngày là xong. Để rồi từ đó cho đến trước khi ông qua đời vài ngày, là 15 năm lác đác cảm xúc cũng chỉ
bấy nhiêu đó lần hệt như Giả Đảo nhị cú tam niên đắc– có hai câu thơ mà mất trọn
ba năm. Dĩ nhiên những bài thơ sau 1996 của ông vẫn giữ nguyên khí cốt độc đặc
như thủa mười tám đôi mươi xuất hiện lần đầu trên văn đàn miền Nam Việt Nam,
nhưng sẽ không bao giờ vượt qua được đỉnh cao
chót vót mà Lục-bát-ba-câu đã dựng
lên. Ông biết chứ, ông biết sẽ lập lại chính mình nếu có phút giây nào đó lơ đễnh
bỏ quên lòng tự trọng chữ nghĩa, cho nên về sốlượng, thơ ông rất ít so với các
thi sĩ cùng thời là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Sài
Gòn làm gì có mùa đông, may thay cái lạnh buổi
sớm mai vớt vát từ phương
bắc
thổi về cũng làm tôi liên tưởng đến cảnh tuyết phủ trắng xóa một nhà ga lạnh lẽo
của nước Nga xa xôi. Lev Tolstoy đang ngồi ở đó, ông đã yếu lắm qua những chuyến
đi dằng dặc vô định. Rồi ông qua đời tại nhà ga khivẫn còn bỏ ngỏ một câu hỏi lớn.
“Mình
sẽ nổi tiếng hơn cả Gogol, Pushkin, Shakespeare, Moliere, nổi tiếng hơn tất cả
nhà văn trên thế giới – rồi sao nữa?”. So what– sao nghe chừng tuyệt vọng và bất
lực như nhịp rơi tan mau của một bông tuyết. Tôi cũng không biết trả lời làm
sao đây nhưng Nguyễn Tôn Nhan thì có. Ông viết,
cõi này là để chơi hoang
mai kia cõi ấy dịu dàng lặng câm
rỗng rang chẳng một vọng âm.
Lời
đáp cho tất cả những danh xưng thi sĩ, triết gia, học giả, thậm chí Khổng–Lão–Phật
cũng chỉ là một vọng âm rỗng rang. Sẽ chẳng
là gì hết khi một mai ở cõi ấytất cả đều
lặng câm. Thôi thì ở cõi này hãy vin vào câu thơ Lý Bạch mà nghêu
ngao nhân sinh đắc ý tu tận hoan 人生得意須盡歡–
đời người khi đắc ý thì nên tận hưởng hoan lạc.
Sài
Gòn không có mùa đông nhưng Sài Gòn sắp Tết. Còn dăm bữa nữa là đến ngày giỗ lần
thứ hai của ông. Vậy mà cũng đã hai năm trôi qua, nhưng có lẽ cho đến cuối cuộc
đời này, trong đầu tôi vẫn vang rền mãi câu hỏi.
BỐ,
TẠI SAO BỐ MẤT.
________________________________________________________________
①Nhà xuất bản Văn hóa
Văn nghệ, Thư quán Hương Tích ấn hành cuối
tháng 12 năm 2012. Phát hành tại nhà sách 308/12 Nguyễn Thượng Hiền, Phú Nhuận,
Sài Gòn.
②Bốn vị còn lại là giáo
sư Bửu Cầm, nhà nghiên cứu Nguyễn Khuê, nhà nghiên cứu Phạm Thị Hảo, và nhà
nghiên cứu Cao Tự Thanh.
③Viên Mai 袁枚(1716–1797) là nhà thơ đồng thời cũng là
nhà lý luận phê bình nổi tiếng đời Thanh của Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét