Bản thào bài ĐẾ HỆ THI của Đinh Các học sĩ Đinh Hồng Phiên được vua Minh Mạng sửa và phê chuẩn (chữ màu đỏ)
Sau
khi lên ngôi, vua Minh Mạng có cho soạn bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên
hệ thi để đặt chữ lót trước tên cho con cháu trực hệ vua (đế hệ) cùng
con cháu của mười hoàng tử anh em (phiên hệ). Đế hệ thi được soạn theo
thể thức thơ tứ tuyệt có nội dung một bài thơ hoàn chỉnh. Bài thơ 4 câu,
mỗi câu 5 chữ, thành 20 chữ:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh.
Bảo Quý Định Long Trường.
Hiền Năng Kham Kế Thuật.
Thế Thuỵ Quốc Gia Xương
(Từng
chữ có nghĩa như sau : HƯỜNG: Oai hùng ; ƯNG: Nên danh; BỬU: Bối báu;
VĨNH: Bền chí; BẢO: Ôm lòng; QUÝ: Cao sang; ĐỊNH: Tiên quyết; LONG: rồng
tiên; TRƯỜNG: Vĩnh cửu; HIỀN: Tài đức, phúc; NĂNG: Gương; KHAM: Đảm
đương; KẾ: Kế sách; THUẬT: ghi chép; THẾ: trường thọ; THỤY: Ngọc quý;
QUỐC: giang san; GIA: Muôn nhà; XƯƠNG: Phồn thịnh.
Mười
bài phiên hệ thi mỗi bài cũng 4 câu, mỗi câu 5 chữ, thành 200 chữ. Sau
khi đế hệ thi và phiên hệ thi được vua ban, các con cháu đời này qua đời
khác của triều Nguyễn cứ thế mà đặt chữ lót trước tên cho thống nhất.
Theo
đế hệ thi, thì tên của các vua Nguyễn từ Minh Mạng trở về sau là:
Nguyễn Phúc + chữ lót trong Đế hệ thi + tên: vua Thiệu Trị là Nguyễn
Phúc Miên Tông, Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm; Dục Đức là Nguyễn Phúc
Ưng Chân; Hiệp Hòa là Nguyễn Phước Hường Dật; Kiến Phúc là Nguyễn Phước
Ưng Ðăng; Hàm Nghi là Nguyễn Phước Ưng Lịch ; Đồng Khánh tên là Nguyễn
Phước Ưng Đường; Thành Thái là Nguyễn Phước Bửu Lân; Duy Tân là Nguyễn
Phước Vĩnh San; Khải Định là Nguyễn Phước Bửu Đảo; Bảo Đại là Nguyễn
Phước Vĩnh Thụy.
Nhưng người cùng thế hệ Miên, Hường… dù không làm vua cũng có chữ lót như nhau.
Triều
Nguyễn chấm dứt từ tháng 8-1945, thời vua Bảo Đại. Từ năm 1945 đến nay,
nhà Nguyễn không còn, nhưng con cháu của họ vẫn theo Đế hệ thi và phiên
hệ thi mà đặt chữ lót cho con cháu từ đời này sang đời khác. Chứng tỏ
bài Đế hệ thi là vô cùng quan trọng để nhận ra người trong Hoàng tộc
Nguyễn.
Lâu
nay các học giả, nhà báo trên các sách vở, báo chí, thường cho rằng bài
thơ Đế hệ thi là do vua Minh Mạng sáng tác. Vua Minh Mạng là một ông
Vua trí tuệ uyên bác.Nhà Vua cho đúc Cửu Đỉnh để khẳng định chủ quyền
quốc gia, vua Minh Mạng là thi sĩ chính hiệu, làm rất nhiều thơ ca ngợi
cảnh sản xuất nông thôn. Vua Minh Mạng chính là kiến trúc sư của quần
thể di tích Cô Đô Huế được cộng nhận là Di sản thế giới. Nên nói vua
soạn Đế hệ thi ai cũng cho là có lý. Không ai biết vua đã sai người soạn
11 bài thơ cốt tử này. May sao , sách “ Nghiên cứu Huế” do nhà nghiên
cứu Nguyễn Hữu Châu Phan chủ biên, tập 8, ấn hành tại Huế quý I/2012, do
NXB Thuận Hóa và Trung Tâm nghiên cứu Huế xuất bản, đã cung cấp cho độc
giả một tư liệu rất quý, làm sáng tỏ việc ai là tác giả của Đế hệ thi.
Anh Nguyễn Hữu Châu Phan điện cho Ngô Minh biết, cách đây 5 năm, một
người tên là Đinh Văn Niêm gửi cho Nghiên Cứu Huế một bài viết về tác
giả khởi thảo Đế hệ thi và Phiên hệ thi chính là Đông các học sĩ Đinh
Hồng Phiên, quê ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tư liệu thật quý , nhưng
bài viết đơn giản, nên phải kiểm tra xác minh suốt năm năm ròng. Phải
nhờ người lục tìm, tham khảo và chụp ảnh tài liệu Châu bản triều Nguyễn ở
Trung tâm lưu trữ Quốc gia. Khi có đủ tàu liệu chính xác, Nghiên cứu
Huế mới công bố bài viết của anh Đinh Văn Niên vào đầu năm 2012.
Chúng tôi xin cung cấp vài tình tiết trong Nghiên Cứu Huế để bạn đọc rõ hơn tư liệu lịch sử thú vị này.
Ở
Hà Nội hiện nay có ông Đinh Văn Niêm, hậu duệ của Đinh Các học sĩ Đinh
Hồng Phiên (gọi ông Phiên là cụ tổ) đã gửi cho Ban biên tập Nghiên cứu
Huế bài viết về việc năm 1820, Đông các học sĩ Đinh Hồng Phiên được vua
giao làm Ngọc phả. Vua phán:” hoàng khảo ta lập pháp luật, định chế độ,
rất lưu tâm đến việc kế thuật. Các khanh làm Ngọc phả nên xét kỹ thế thứ
trong sách vở cũ, liệt kê đầy đủ để dâng trình, đợi chỉ sử định” (Đại
Nam thực lục, tập 2). Trong gia phả họ Đinh Văn, Kim Khê, Nghi Long,
Nghi Lộc có ghi: ”Đông các học sĩ Đinh Phiên nhậm chức soạn định thể
thức cáo văn, sắc văn, tu soạn Liệt Thánh Thực lục, đồng thời được giao
việc hệ trọng là sáng tác đế hệ thi và phiên hệ thi” (Đinh Văn tộc gia
phả). Ban biên tập sách Nghiên cứu Huế đã tìm trong “Mục lục Châu bản
triều Nguyễn” của Viện Đại học Huế xuất bản năm 1962, ở tập 2 triều Minh
Mạng một bản tâu có nội dung liên quan: “Đông các học sĩ Đinh Nguyễn
Phiên tâu chỉ soạn các chữ Ngọc phổ, tất cả 11 bài, mỗi bài 4 câu 20
chữ, tổng cộng 220 chữ”, đề ngày 29/11, năm Minh Mạng thứ nhất (1820).
Ông Đinh Văn Niêm đã đến Trung tâm Lưu trữ quốc gia I ở Hà Nội, xin được
bản sao in màu Châu bản quý giá đó.
Theo
tác giả Đinh Văn Niêm, Đinh Hồng Phiên sinh năm 1764 tại làng Ông La
Giáp, tổng Kim Nguyên, huyện Chân Lộc, phủ Đức quang (nay là xã Nghi
Long, huyện Nghi Lộc, Nghệ An). Ông đậu Hương Cống thứ hai, khoa thi Quý
Mão, Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783) đời vua Lê Hiển Tông. Khoa này Nguyễn
Du Tiên Điền đậu sinh đồ. Năm 1787, đi thi Hội ông Phiên đậu Tam trường
trúng cách (ngang Phó bảng thời Nguyễn). Ông được bổ Toản tu Quốc sử
quán triều Lê. Thời Nguyễn, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã vời ông ra
làm quan với triều Nguyễn.
Năm
Gia Long thứ 14 (1815) ông được vua bổ Đốc học Quảng Nam, Năm Kỷ Mão,
Gia Long thứ 18 ( 1819) ông được bổ Đông các học sĩ, sung vào đoàn đi sứ
nhà Thanh, Trung Quốc. Ông có tập thơ Hán Cao Tổ và một số câu đối
truyền lại đến nay. Đi sứ Trung Hoa, ông có một số bài thơ được in vào
các loại đồ sứ Trung Hoa. Như câu Nghêu ngao vui thú sơn hà / Mai là bạn
cũ hạc là người thân, được in nguyên chữ Nôm vào đồ gốm, mà người đời
sau cho là của Nguyễn Du. Vì Đinh Hồng Phiên và Nguyễn Du là bạn đồng
hương, đồng khoa thi. Con trai Đinh Hồng Phiên là tiến sĩ Đinh Văn Phác,
lấy Nguyễn Thị Tiềm là con gái Nguyễn Du. Đến thời vua Minh Mạng, ông
giữ nhiều chức vụ quan trọng ở triều đình. Nhiều năm làm giám thị các kỳ
thi Hương Trường thi Quảng Đức, Sơn Nam của Triều Nguyễn. Đinh Hồng
Phiên có con trai là Đinh Văn Phác đã đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ tại kỳ
thi Hội năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3 (1822). Nhưng quan trọng nhất là
chức “soạn định thể thức cáo văn, sắc văn”- chức này đã giúp cho Đinh
Hồng Phiên có điều kiện để soạn cho vua Minh Mạng Ngọc Phổ bài đế hệ thi
và 10 bài phiên hệ thi, được vua “châu phê” Năm Minh Mệnh thứ nhất,
ngày 20 tháng 11 năm 1820, Nguyễn Đình Phiên đã tâu lên vua Minh Mạng:
“Bề tôi Đông các học sĩ Nguyễn Đình Phiên cứu đầu, rập đầu trăm lạy kính
tâu về việc: Nay kính vâng chủ kiếm soạn các chữ trong Ngọc Phổ. Hãy
kính đấy. Kinh cẩn xếp thành 11 bài 4 câu 20 chữ, cộng 220 chữ kính cẩn
trình bày theo thứ tự. Kính chờ Thánh thượng xét đoán” (bản dịch từ chữ
Hán, Châu bản triều Nguyễn, tở 223 đến 235). 11 bài trong Ngọc Phổ ấy,
bài đầu là Đế hệ thi và 10 bài sau là Phiên hệ thi.
Bài Đế hệ thi, Đinh Hồng Phiên viết:
Miên hồng khai bửu tộ /
Bảo định ứng trinh tường /
Toản tự di nhân viễn /
Gia hy tích dận trường.
Đọc
bài thảo, “vua Minh Minh Mạng ban đầu sửa chữ Khai thành chữ Ưng. Câu
thứ hai vua sửa lại là Long quý định bảo trường. Câu ba, Toản tự di nhân
viễn, vua sửa lại là Hiền năng kham kế thuật. Câu bốn: các chữ hy tích
dận trường vua sửa thành Thụy Quốc gia xương. Rồi vua lại sửa câu bốn
một lần nữa, thành Thọ Thế Quốc Gia Xương, sau đó vua lại lấy lại Thế
Thụy. Rồi vua tham khảo ý kiến anh em mình và các trí thức trong triều,
một lần sửa nữa mới chính thức thành:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh /
Bảo Quý Định Long Trường /
Hiền Năng Kham Kế Thuật /
Thế Thụy Quốc Gia Xương.
Bài Đế hệ thi không chỉ để đặt tên, mà còn là một bài thơ hoàn chỉnh.Tạm dịch nghĩa theo vần lục bát như sau:
Huân nghiệp lớn Tổ Tiên gầy dựng.
Gắng giữ gìn cho xứng ân sau:
Phồn vinh thịnh đạt dài lâu,
Anh tài, hiền đức cùng nhau bảo toàn.
Đời đời nối nghiệp tiền nhân,
Nước nhà hưng vượng muôn phần phát huy.
Về
10 bài Phên hệ thi mà Đinh Hồng Phiên trình tấu, vua Minh Mạng cũng sửa
rất kỹ như thế, nhưng số chữ sửa ít hơn. Ví dụ, theo Đinh Văn Niêm, Bài
Phiên hệ thi 1, vua Minh Mạng thêm vào đầu bài hai chữ Anh Duệ, sửa câu
câu nhất Tế mỹ duy phiên tráng thành Mỹ Lệ Phiên Cường Tráng. Còn câu
2,3,4 vua giữ nguyên. Thành ra bài thơ như sau:
Mỹ Lệ Phiên Cường Tráng /
Liên huy vĩnh thế xương /
Lệnh nghi sùng tốn thuận /
Vỹ vọng biểu khiêm quang. Bài phiên
Hệ
thứ 2, vua thêm đầu bài là hai chữ Kiến An. Câu thứ nhất Hữu Đắc Giao
Lương Quý vua sửa lại là Lương Khiên Giai Hữu Thức. Thành bài: Lương
Khiên Giai Hữu Thức/ Du hành suất nghĩa phương/ Dung di tương thức hảo/
Bính diệu trác vi chương.v.v..Nói chung 10 bài Phiên hệ thi bài nào do
Đinh Hồng Phiên thảo tấu, bài nào cũng được vua đọc rất kỹ, thêm hai chữ
đầu bài, nhưng vua sửa chữa chỉ một câu hoặc vài ba chữ. 10 bài Phiên
hệ thi sau đó còn được anh em vua, các Hoàng tử con vua Minh Mạng (là
những nhà thơ cự phách như Miên Thẩm, Miên Trinh…) góp ý sửa chữa, chính
thức như sau :
1. Anh Duệ hệ:
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng /
Liên Huy Phát Bội Hương /
Linh Nghi Hàm Tốn Thuận /
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang
2. Kiến An hệ:
Lương Kiến Ninh Hòa Thuật /
Du Hành Suất Nghĩa Phương /
Dưỡng Di Tương Thực Hảo /
Cao Túc Thể Vi Tường
3. Định Viễn hệ:
Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái /
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha /
Nghiễm Khác Do Trung Đạt /
Liên Trung Tập Cát Đa
4. Diên Khánh hệ:
Diên Hội Phong Hanh Hiệp /
Trùng Phùng Tuấn Lãng Nghi /
Hậu Lưu Thành Tú Diệu /
Diễn Khánh Thích Phương Huy
5. Điện Bàn hệ:
Tín Diện Tư Duy Chánh /
Thành Tôn Lợi Thỏa Trinh /
Túc Cung Thừa Hữu Nghị /
Vinh Hiển Tập Khanh Danh
6. Thiệu Hóa hệ:
Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lý /
Văn Tri Tại Mẫn Du /
Ngưng Lân Tài Chí Lạc /
Địch Đạo Doãn Phu Hưu
7. Quảng Oai hệ:
Phụng Phù Trưng Khải Quảng /
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ /
Điển Học Kỳ Gia Chí /
Đôn Di Khắc Tự Trì
8. Thường Tín hệ:
Thường Cát Tuân Gia Huấn /
Lâm Trang Túy Thạnh Cung /
Thận Tu Dy Tấn Đức /
Thọ Ích Mậu Tân Công
9. An Khánh hệ:
Khâm Tùng Xưng Ý Phạm /
Nhã Chánh Thủy Hoằng Quy /
Khải Dễ Đang Cần Dự /
Quyên Ninh Cộng Tráp Hy
10. Từ Sơn hệ:
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm /
Phu Văn Ái Diệu Dương /
Bách Chi Quân Phụ Dực /
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
Đó là tên phiên hệ dùng cho thứ tự các Hoàng Tử. Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ.
Qua
tư liệu mà Nghiên Cứu Huế trình bày ở trên, ta thấy tác giả khởi thảo
Đế hệ thị và Phiên hệ thi là Đông các học sĩ Đinh Hồng Phiên. Nhưng vua
Minh Mạng cũng giống như người “đồng tác giả” vì đã góp công sữa chữ,
thay đổi câu chữ nhiều lần để đi đến hoàn chỉnh. Nhất là bài Đế hệ thi.
Theo Nghiên Cứu Huế dẫn Đại Nam thực lục, vào tháng tư năm Minh Mạng thứ
4 (1823), Vua ban sách bằng vàng ngự chế về đế hệ dành cho trực hệ của
vua và sách bạc về phiên hệ dành cho con cháu các anh em của vua. Lễ
tuyên đọc và ban sách được tổ chức ở sân điện Thái Hòa. Nhà vua nói với
các hoàng tử rằng: “Trẫm nghĩ tôn thống là quan trọng, muốn thực hiện
chí của tiên hoàng, bèn soạn 20 chữ hay, lưu để cho người nối ngôi về
sau, chia ra dòng đế, dòng phiên để phân biệt thân sơ… Trẫm chỉ giơ tay
lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn sẽ
được hưởng 500 năm, hưởng đời hơn 20 đời. Cũng không dám mong nhiều
đâu…”
Nhưng
triều Nguyên từ vua Gia Long đến Bảo Đại, 13 đời vua chỉ tồn tại 143
năm, được một câu đầu trong đế hệ thi MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VĨNH.
Cuộc
đời Đông các học sĩ Đinh Hồng Phiên thật bi hài. Ông đã cùng vua Minh
Mạng soạn Đế hệ thi và Phiên hệ thi, được vua ghi vào sách vàng, sách
bạc triều Nguyễn, nhưng chính vua Minh Mạng lại là người ra lệnh giết
Đinh Hồng Phiên, vì những năm sau đó ông đã theo Lê Văn Khôi (coi nuôi
Lê Văn Duyệt) khởi binh đánh chiếm thành Gia Định, kêu gọi khôi phục sự
nghiệp nhà Lê ở Đằng Ngoài. Nhưng đó là một vấn đề khác, không ở phạm vi
bài viết này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét