Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

NHỮNG NHẠC SĨ GỐC HUẾ

Kỳ 1

Một bài viết về Các Ca Nhạc Sĩ đất Thần Kinh trước 1975 tương đối đầy đủ. Vẫn còn một số tên tuổi không thể thiếu : Dương Thiệu Tước , Hoàng Thi Thơ… Còn … sau này ? Vẫn là một dấu hỏi để trống không biết đến bao giờ !
Đa số người VN biết Huế không chỉ vì Huế có nhiều cảnh đẹp, có nhiều di tích lịch sử như đền đài, lăng tẩm, thành quách cổ kính mà còn vì những bài thơ trữ tình của các thi nhân nổi tiếng, những câu hò êm ái đượm tình quê hương và nhất là những bản tân nhạc ca tụng xứ Huế thơ mộng đã được phổ biến đến khắp mọi miền trên đất nước. Có những người chưa bao giờ đặt chân đến Huế nhưng qua các bài hát lại thuộc lòng tên những danh lam thắng cảnh của đất cố đô như sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền, chùa Thiên Mụ, đài Nam Giao, thôn Vĩ Dạ vv… Huế là cái nôi văn hóa của miền Trung, là nguồn cảm hứng của các văn nhân, nghệ sĩ, là nơi dừng chân của các tao nhân mặc khách. Người ta biết đến Huế nhiều nhưng ít ai biết đất cố đô đã sản sinh ra bao nhiêu nhạc sĩ sáng tác tài hoa. Khi người Pháp đặt chân lên đất nước VN họ mang theo vào cả nền âm nhạc Tây phương và đem truyền bá trong dân chúng. Những nhạc sĩ của đất Thần Kinh cũng dần dần làm quen với ký âm pháp phương Tây và từ đó các nhạc sĩ sang tác tân nhạc đầu tiên ra đời .

1/- NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN THƯƠNG 

Người nhạc sĩ tiền phong của nền tân nhạc VN ở cố đô Huế là nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Ông sinh ngày 22/05/1919 và mất ngày 06/12/ 2002 tại Saigon, hưởng thọ 84 tuổi. Ông sinh ra trong một gia đình yêu thích âm nhạc. Năm lên 9 tuổi ông bắt đầu học đàn nguyệt sau đó qua sách vở của người Pháp ông tự học ký âm pháp. Năm 1936 ông tốt nghiệp bậc trung học tại trường Khải Định Huế và cũng năm này ông sáng tác bản nhạc đầu tay “Tiếng sông Hương” là bài tân nhạc đầu tiên của xứ Huế. Lúc ấy ông mới 17 tuổi nhưng tên của ông đã bắt đầu đi vào làng âm nhạc VN.

Năm 1939 ông lại cho ra đời bản “Đêm đông” là một kiệt tác của tân nhạc VN thời bấy giờ. Bài hát với nét nhạc trữ tình êm ái tiềm ẩn một nỗi buồn man mác, lời ca trau chuốt, mượt mà, đã đi vào lòng người VN qua bao thế hệ. Nữ ca sĩ Bạch Yến là người hát bài “Đêm đông” hay nhất. Bài ca này lúc đầu được viết theo thể điệu Tango nhưng khi Bạch Yến trình diễn thì chuyển qua Slow Rock nghe hay hơn.
Trong thập niên 60 cô cũng đã trình bày nhạc phẩm này trong sô Ed Sullivan của Mỹ. Năm 1942 nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác thêm ca khúc “Bướm hoa” cũng được nhiều người ưa thích nhưng không bằng “Đêm đông”.
Sau đó ông theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Ở ngoài Bắc trong thời gian chống Pháp ông viết bản “Bình Trị Thiên khói lửa”, soạn nhạc cho các điệu múa của các vở kịch “Chim gâu”, “Tấm Cám”, “Múa ô”, “Chàm rông”. Nhạc phẩm “Bài ca trên núi” ông viết cho phim “Vợ chồng A Phủ”.
Sau một thời gian tu nghiệp tại CHDC Đức ông trở về nước làm giám đốc Nhạc viện Hà Nội và tiếp tục sang tác. Ông có những tác phẩm về khí nhạc như “Lý hoài nam”, “Buôn làng vào hội”, “Quê hương”. Trong thời gian ở Đức ông có sáng tác khí nhạc như “Ngày hội non sông”, “Rhapsodie 2”, “Trở về đất mẹ”. Bản giao hưởng “Đồng khởi” của ông được trình diễn ở Leipzig (CHDC Đức) năm
1971.
Cho dù các tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương có uyên bác đến đâu đi nữa rất ít người biết đến. Đa số người VN chỉ biết đến ông qua nhạc phẩm “Đêm đông” mà thôi.
Đêm đông xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm đông bên sông ngẩn ngơ kìa ai mong chồng
Đêm đông thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư
Đêm đông ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng
Đêm đông ta lê bước chân phong trần tha hương
Có ai thấu tình cô lữ đem đông không nhà .
Hoàn cảnh đưa đẩy nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác bài ca bất hủ này đã được chính tác giã kể lại cho nhạc sĩ Trương Quang Lục như sau :
“Sau khi đỗ Thành Chung ở Huế tôi ra Hà Nội học để thi Tú Tài. Dịp Tết Nguyên đán năm 1939, không có đủ tiền để về quê ăn Tết, đêm giao thừa tôi đi lang thang khắp phố phường Hà Nội dưới trời mưa phùn lạnh buốt, không một bóng người qua lại trên đường. Qua ga Hàng Cỏ nghe tiếng còi vang lên trong đêm khuya càng thêm nhớ nhà da diết. Dọc phố Khâm Thiên một vài căn nhà vẫn còn sáng đèn. Nghe tiếng chân qua đường, một cô gái bước ra nhìn, thất vọng quay vào, ghé mình soi gương treo cạnh cửa, đưa tay vuốt mái tóc. Trời đã khuya, tôi trở về phòng trọ, gió lùa qua khe cửa rít lên từng hồi suốt đêm. Tôi trăn trở không ngủ được, nghĩ đến cuộc đời bất hạnh của những người nghèo khổ, tha hương trong đêm đông lạnh lẽo. Và bài hát “Đêm đông ” ra đời trong đêm ấy.

2/- NHẠC SĨ NGUYỄN HỮU BA 

Ông sinh năm 1914 tại làng Đạo Đầu, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị và mất năm 1997 tại Saigon, hưởng thọ 83 tuổi. Tuy sinh ra tại Quảng Trị nhưng suốt cuộc đời và sự nghiệp của ông đã gắn liền với cố đô Huế.
Với bút hiệu Đạo Tâm, ngoài tân nhạc ra ông là một nhà nghiên cứu, một nhạc sư cổ nhạc VN. Ông biết sử dụng nhiều loại nhạc khí cổ truyền khác nhau, là người có công phát triển và bảo tồn nền cổ nhạc miền Trung. Năm lên 8 tuổi ông bắt đầu học đàn. Năm 16 tuổi ông đã hòa nhạc cổ thu vào dĩa Beka của Đức.
Năm 1932 ông áp dụng ký âm pháp Tây phương vào cổ nhạc VN ở Huế. Công trình của ông rất được nhiều người tán thưởng. Năm 1938 ông đậu thủ khoa đàn nhị. Tháng 8 năm 1945 sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền ông về quê Quảng Trị. Nhưng cuộc đời của ông chỉ có duyên nợ với đất Thần Kinh nên năm 1950 ông trở lại Huế. Cũng năm này ông thành lập Viện Tỳ Bà nhằm phục hưng quốc nhạc VN, bảo tồn nhiều loại nhạc khí cổ truyền, tàng trữ sách vở về âm nhạc cũng như những tài liệu thu thanh quí giá . Chỉ cần vào cửa Thượng Tứ, rẻ trái khoảng một trăm thước ta sẽ thấy Viện Tỳ Bà của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba. Ông được triều đình Huế tặng thưởng huy chương Long Bội Tinh và vinh tặng chức Hàn lâm viện Đãi chiếu.
Sau 1954 ông vào Nam, dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, làm khoa trưởng lý thuyết các trường đại học Vạn Hạnh, Saigon, Huế. Sau đó ông trở về làm giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Sau biến cố Tết Mậu Thân (1968) Viện Tỳ Bà bị tàn phá, gia đình ông dời vào Saigon. Sau năm 1975 gia đình ông thành lập một cơ sở nhỏ chuyên sản xuất các loại đàn cổ rất tinh vi ở quận Phú Nhuận, đồng thời ông cùng người con gái lớn là nhạc sĩ Tuệ Quang mở lớp dạy đàn tranh, học sinh theo học rất đông.
Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba là người có công truyền bá cái tinh hoa của nền quốc nhạc về nhiều phương diện như trình diễn, khảo cứu , cổ động và giáo dục. Ông đã đào tạo được nhiều học trò nổi tiếng trong ngành cổ nhạc như Phạm Thúy Hoan (Saigon), Phương Oanh (Paris), Quỳnh Hạnh (Paris).
Tác phẩm ông để lại cho hậu thế cũng khá nhiều .
Về tân nhạc gồm có các nhạc phẩm như : “Quảng đường mai (1940)”, “Xuân xuân (1947)”, “Lửa rừng đêm (1947)”, “Thu khói lửa (1950)”, “Tiếng hát quân Nam (1950)”, “Ánh dương trời Nam (1951)”.
Về các tác phẩm nghiên cứu và giáo dục gồm có : “Tự học đàn nguyệt (1940)”, “Vài thiên kiến về âm nhạc (1950)”, “Bản đàn tranh (1951)”, Nhạc pháp quốc học (1960)”, “Đàn tỳ bà (1962)”, “Đàn độc huyền (1962)”, “Đàn nhị huyền (1962)”, “Bài ca Huế (1962)”, “Phương pháp học đàn tranh (1962)”, “Dân ca VN (1961)”.
Năm 1966 thu thanh tài liệu nhạc Huế (nhạc Cung đình và nhạc Phật giáo) cùng với Ca Huế cho cơ quan UNESCO vào dĩa 33 vòng đặt tên là VIETNAM 1.
Năm 1971 thu thanh VIETNAM 2 do ông cung cấp tài liệu với sự trợ giúp của nhạc sĩ Trần Văn Khê. Năm 1998 cả hai dĩa VN1 và VN2 được hãng đĩa Rounder Records ở Mỹ tái bản dưới hình thức CD.

3/- NHẠC SĨ VĂN GIẢNG

Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12/05/1924 tại Huế trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Ông nội của ông là một nhạc sĩ cổ nhạc. Lúc còn nhỏ ông học đàn mandoline. Khi lên trung học thấy người ta đàn guitare ông rất thích.
Có giai thoại kể rằng thuở đó trong khu phố của ông có một người biết đàn guitare, ông đến xin học nhưng ông thầy này ra điều kiện là phải mua tặng cho ông ta một cây đàn guitare mới. Nhà nghèo làm sao có tiền mua đàn để tặng, ông phải đành ở nhà tự học. Nhưng sau môt thời gian tài nghệ sử dụng đàn guitare cùng kiến thức về âm của ông đã vượt qua ông thầy và chính ông này lại đến nhờ ông chỉ bảo thêm.
Năm 1949 ông sáng tác bài “Thúc quân” một bản nhạc hùng rất được nhiều người ưa thích. Cùng năm này ông cho ra đời bài “Ai về sông Tương” với bút hiệu Thông Đạt. Nhạc phẩm này được thính gìả cả nước tiếp đón một cách nồng nhiệt qua các đài phát thanh, riêng đài Pháp Á chọn làm bài hát hay nhất trong năm 1949 và được tái bản 6 lần không kể những lần in tại hải ngoại sau 1975. Hiện nay nhạc phẩm này được đánh giá là một trong 10 bài hát hay nhất trong âm nhạc VN.
Có một giai thoại khác về nhạc sĩ Văn Giảng với bài Ai về sông Tương” như sau : “Trong các thập niên 40, 50 ở Huế có nhà xuất bản Tinh Hoa nổi tiếng chuyên xuất bản các nhạc phẩm của các nhạc sĩ trong nước. Một hôm ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản, nói với nhạc sĩ Văn Giảng đại khái rằng ông chỉ biết làm nhạc hùng chứ không biết làm nhạc trữ tình như các nhạc sĩ khác vì trước đó Văn Giảng chỉ sáng tác nhạc hùng mà thôi. Ông im lặng không nói gì cả. Về nhà ông lặng lẽ sang tác bài “Ai về sông Tương” và gởi đến các đài phát thanh trong nước. Ông Tăng Duyệt nghe bài hát hay quá muốn xuất bản nhưng không biết Thông Đạt là ai. Một hôm nhạc sĩ Đỗ Kim Bãng và nhà văn Lữ Hồ đến nhà Văn Giảng chơi, thấy bản thảo của bài hát này và nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này liền lái xe chạy đến nhà nhạc sĩ thương lượng ký hợp đồng xuất bản. Thời đó các thanh niên đều thuộc bài này và thường hay hát nghêu ngao :
“Ai có về bên bến sông Tương, nhắn người duyên dáng tôi thương, sao đành nỡ dứt tơ vương ….” .
Trong hai thập niên 50-60 ông là giáo sư âm nhạc tại các trường trung học ở Huế như Quốc Học, Hàm Nghi, Trường đào tạo giáo viên tiểu học và trưởng ban nhạc đài phát thanh Huế. Trong thời gian này ông cho xuất bản tập nhạc “Hát mà học” gồm 10 bài hát dành cho thiếu nhi. Ông được học bổng du học ngành nhạc tại Hawai và Bloomington.
Năm 1956 ông thành lập ban hoà tấu Việt Thanh gồm các nhạc cụ cổ truyền như tỳ , nhị, độc huyền, nguyệt ,sáo vv… và ông sáng tác cho ban này bản hòa tấu “Ai đưa con sáo sang sông” dài 60 phút. Ngoài ra ông còn cho xuất bản sách “Kỹ thuật hòa âm” dày 350 trang .
Năm 1969 ông vào Nam, dạy tại trường QGAN Saigon và soạn hòa âm cho hai hãng dĩa Asia và Sóng nhạc. Ông dược Bộ Văn Hóa cử làm Trưởng phòng học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vụ các trường âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật .
Năm 1970 ông được Huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống VNCH với bản “Ngũ tấu khúc” (Quintet for flute and strings). Ông còn được dề cử làm giám đốc nghệ thuật điều hành Đoàn văn nghệ VN gồm 100 nghệ sĩ tân, cổ nhạc và vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách cùng ban vũ cổ truyền do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba đảm trách tham dự Hội Chợ Quốc Tế ở Osaka Nhật Bản .
Ngoài tên Văn Giảng với các bài ca hùng tráng như “Thúc quân” , “Lục quân VN” (bài hát này dược các quân trường ở miền Nam chọn làm bài ca nhịp bước cho các tân binh mới nhập ngũ), “Đêm Mê Linh”, “Quân hành ca”, “Qua đèo”, “Nhảy lửa”, ông còn có bút hiệu Thông Đạt với các nhạc phẩm trữ tình như “Ai về sông Tương” , “Đôi mắt huyền”, “Hoa cài mái tóc”, “Thương tà áo bay”, “Tình em biển rộng sông dài”, “Xin đừng bỏ nhau”, “Xin đừng chờ em nữa”, “Năm nay em mấy tuổi” và bút hiệu Nguyên Thông với các ca khúc Phật giáo như “Từ Đàm quê hương tôi”, “Mừng Đản sanh” , “Ca Tỳ La Vệ”, “Vô thường”, “Hoa cài áo lam”, “Bao la vô tận”, ”Bờ mê bến giác”, “Buông xả”, ”Dòng sinh diệt ”, “Đời sống Đức Phật” , ”Giả hợp”, “Hãy tự giác”, “Mong tỉnh ngộ”, “Tâm bệnh”, “Tìm đâu xa” , “Vũ khí chơn tâm” .
Sau 1975 ông kẹt lại ở Saigon và có mở lớp dạy nhạc tại đường Phạm Văn Hai, gần chợ Ông Tạ, quận Tân Bình. Năm 1981 ông vượt biên đến đươc Natuna của Nam Dương và để cám ơn hòn đảo đã cho ông dừng chân trên đường đi tìm tự do ông sáng tác bản “Natuna người tình đầu”. Hiện giờ ông đang định cư tại Thành phố Foolscray , bang Victoria, nước Úc. Ông là một nhạc sĩ có tài, nhạc phẩm của ông phong phú đa dạng. Ông đã đóng góp nhiều cho nền âm nhạc VN nhưng không hiểu tại sao các Trung Tâm sản xuất DVD ca nhạc lại nỡ quên đi không làm DVD về sư nghiệp âm nhạc của ông .

4/ – NHẠC SĨ ƯNG LANG

Người nhạc sĩ đầu tiên của đất Thần Kinh mang dòng máu hoàng tộc là Ưng Lang. Ông tên thật là Nguyễn Phước Ưng Lang, sinh năm 1919 tại Huế. Ông chuyên về Hạ uy cầm (guitare hawaienne) một loại đàn rất thông dụng thời bấy giờ. Ông là tác giả những nhạc phẩm như “Chiều về thôn Vỹ” , “Nhạc lòng” , “Chiều tiễn biệt và nhất là ca khúc “Mưa rơi” viết chung với Châu Kỳ đã đưa tên tuổi ông đến với những người yêu nhạc VN.
Tác phẩm “Mưa rơi” là kết quả của mối tình đầu đau thương của tác giả . Sau khi tốt nghiệp Trường Công chánh Huế ông được bổ nhiệm về Sở Lục Lộ tỉnh Nghệ An đặt ngay tại thị xã Vinh. Lúc ấy ông 21 tuổi. Ông được gia đình bà chị có cửa hàng buôn bán tại Vinh cho một căn phòng để ở. Phòng ông có cửa sổ nhìn sang dãy nhà đối diện bên kia đường. Chiều chiều sau khi đi làm về ông thường mở cửa sổ cho mát và lấy đàn ra lả lướt vái bài cho đỡ buồn. Không ngờ tiếng đàn Hạ Uy cầm du dương của ông lại lọt đến tai của các nghệ sĩ của thị xã. Họ mời ông gia nhập “Ban Nhạc Mang Hưng” mà đa số nhạc sĩ là người Việt gốc Hoa. Nhưng đối với ông tiếng đàn lọt vào tai các nhạc sĩ của thị xã không quan trọng bằng lọt vào tim của một hoa khôi sống với cha mẹ trong căn nhà đối diện với nhà chị ông.
Ta hãy nghe nhạc sĩ Lê Hoàng Long nói về giai nhân, người yêu đầu tiên của nhạc sĩ Ưng Lang như sau : “Ưng Lang đưọc biết mỹ danh người đẹp là Ch.L. tuổi vừa đôi chín. Từ đó, hàng ngày khi màn đêm buông xuống, Ưng Lang lại lấy đàn ra nắn phím buông tơ. Tiếng đàn Hạ Uy cầm réo rắt , ngân nga vọng sang tận bên kia đường rồi vang trong nhà người đẹp. Ngày nào như ngày ấy, đúng giờ là tiếng đàn lại nỉ non, thánh thót khiến mỹ nhân nhẹ nhàng thướt tha, uyển chuyển, lúc ẩn, lúc hiện sau tấm màn cửa đong đưa như đang uốn lượn trong vũ khúc trước làn gió nhẹ. Tay nắn phím, tay buông tơ nhưng mắt Ưng Lang vẫn kín đáo nhìn nên thấy cảnh đẹp như Hằng Nga trong vũ khúc Nghê Thường. Tức cảnh sinh tình, tiếng đàn Ưng Lang lại càng thêm thánh thót và nghe thấy buồn man mác hơn. Nếu ai nhìn thấy được cảnh ấy, khách quan cũng nhận định giai nhân và nghệ sĩ tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Ưng Lang mừng thầm cho rằng đây là mối lương duyên tiền định nên ngày ngày chải chuốt từ y phục đến tiếng đàn”.
Sau đó hai người yêu nhau bằng một mối tình thật đằm thắm và thơ mộng. Họ cùng thề non hẹn biển sống với nhau đến hết cuộc đời. Nhưng có ai biết được chữ ngờ. Đôi tình nhân đâu biết cuộc tình nồng thắm của họ sẽ phải tan vỡ vì chiến tranh. Tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp và ra lệnh cho tất cả các công chức phải trở về nguyên quán. Ưng Lang cũng không thoát khỏi cái lệnh quái ác ấy nên phải khăn gói trở về làm việc tại Sở Công Chánh Thừa Thiên. Buổi tiễn đưa đôi tình nhân bịn rịn chia tay lòng đau như cắt. Về đến quê nhà lại gặp cảnh mưa rơi rả rich suốt ngày, bầu trời u ám, nỗi buồn càng thêm da diết. Trong hoàn cảnh đó Ưng Lang sang tác nhạc phẩm “Mưa rơi” và bài hát này đã trở thành ca khúc vượt thời gian :
Mưa rơi, chiều nay vắng người
Bên thềm gió lơi, mơ bóng ngàn khơi
Mưa rơi, màn đêm xuống rồi
Mây sầu khắp nơi, thương nhớ đầy vơi
Mưa rơi , đìu hiu giữa trời
Đêm dài vắng ai, thương nhớ nào nguôi .
Sau ngày chia tay hai người thường xuyên viết thư cho nhau và chờ ngày sum họp. Nhưng tháng 8 năm 1945 chiến tranh nổ ra, không biết gia đình của Ch.L. trôi giạt phương trời nào và từ đó đôi tình nhân mất hẳn liên lạc. Vài năm sau Ưng Lang lập gia đình, sống và làm việc tại Huế. Trước 1975 ông là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Mãi đến 20 năm sau ông mới được tin Ch.L., người yêu cũ, đã chết trong chiến tranh.

5/- NHẠC SĨ CHÂU KỲ

Nhạc sĩ Châu Kỳ sinh ngày 05/11/1923 tại làng Dưởng Mong, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình sống bằng nghề cổ ca nên ông rất am hiểu về cổ nhạc miền Trung. Học xong chương trình tiểu học tại trường Tiểu học Dưởng Mong, ông lên Huế học tại trường Pháp Việt. Ông có giọng hát rất hay nên bạn bè rất thích nghe ông hát. Thấy ông hay hát những bài do Tino Rossi ca trong các dĩa của Pháp nên ông đưọc sư huynh Pétrus Thiều dạy cho nhạc lý Tây phương.
Khởi đầu ông học đàn mandoline. Câu chuyện vui ông kể trên sân khấu Thúy Nga là mối tình đầu lãng mạn của lứa tuổi dậy thì thiếu suy nghĩ khi ông muốn dùng tiếng đàn mandoline để chinh phục trái tim người đẹp Kim Anh, con gái của vị thượng thư, để rồi bị giai nhân từ trên lầu tạt nước xuống khiến ông phải ôm đàn chạy trốn. Nhưng thế sự thăng trầm, cuộc đời dâu biển, mười mấy năm sau ông gặp lại người đẹp tại Saigon trong cảnh nghèo khổ, xác xơ trong khi ông đang là một ca,nhạc sĩ nổi tiếng. Sự gặp gỡ mang nhiều kịch tính này làm ông ngậm ngùi nghĩ đến những đổi thay của đời người và ông viết nên nhạc phẩm “Giọt lệ đài trang ” .
Lúc ông còn theo học bậc trung học thì chị của ông là Châu Thị Minh thành lập đoàn ca kịch Huế lấy tên là Hồng Thu. Đoàn rất cần ca sĩ trẻ nên bà chị tha thiết yêu cầu ông giúp. Vì gia đình nghèo ông do dự không biết nên tiếp tục học hay là đi giúp chị. Cuối cùng ông bỏ học đi theo chị, trước là để giúp chị trong lúc khó khăn, sau là có tiền giúp cha mẹ. Từ đó ông theo đoàn đi lưu diễn khắp nơi.
Thoạt đầu đoàn sang Lào trình diễn tại Savannakhet đến Thakhet rồi thủ đô Vạn Tượng. Sau khi gặt hái đưọc kết quả tốt đẹp ở Lào, doàn làm một vòng lưu diễn các tỉnh VN. Đoàn ra Bắc xong trở lại Huế rồi vào Nha Trang. Tại đây trong số khán giả thường trực có một nữ sinh tuyệt đẹp, con nhà tử tế được nhiều chàng trai trong tỉnh theo đuổi, cô vẫn dửng dưng như không. Nhưng khi thấy chàng ca sĩ Châu Kỳ đẹp trai với giọng hát trầm ấm, quyến rủ, tim cô rung động rồi si mê chàng ca sĩ. Châu Kỳ cũng ngất ngây trước vẻ đẹp của cô nữ sinh lãng mạn và hai người yêu nhau.
Nhưng thuở ấy cái thành kiến “xướng ca vô loại” vẫn bám rễ trong đa số gia đình VN nên cha mẹ của Đoàn Thị Sum, tên cô nữ sinh, cấm không cho cô gặp Châu Kỳ nữa. Thất vọng vì tình cô uống thuốc độc tự tử và chết ngày 10/12/1942. Ông quá đau khổ muốn chết theo người yêu nhưng các nghệ sĩ trong đoàn ra sức an ủi, can ngăn, nhắc cho ông biết còn bổn phận đối với cha mẹ và gia đình nên ông mới khuây khỏa phần nào. Do đó ta mới biết được chút ít tại sao những bản tình ca của ông hồi đó đều là nhạc buồn như “Khúc ly ca”, “Xin làm người tình cô đơn” vv… Nghe tin Huế bị bão lụt , ông trở về Huế thăm gia đình. Nhưng khi về đến quê mẹ Thanh Hà ông thấy quang cảnh xác xơ, ruộng đồng bị tàn phá, ngôi nhà cũ đã bị san bằng và mẹ ông bị lũ lụt cuốn trôi đi mất. Hoàn cảnh khổ đau này khiến ông viết lên bài “Trở về”, bài hát tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của Châu Kỳ :
Về đây buồn trông cánh chim bay
Về đây buồn nghe gió heo may
Về đây đâu còn phút sum vầy
Đâu còn thắm niềm say
Lạnh lung ngắm trời mây ….
Năm 1947 ông vào Saigon hát cho đài phát thanh Pháp Á trong ban “Thần Kinh” của nhạc sĩ Mạnh Phát với các ca sĩ thời đó như Minh Diệu, Minh Tần, Mộc Lan, Linh Sơn, Phan Đức… và ban “Tiếng Thùy Dương” do chính ông làm trưởng ban. Trong thời gian này ông và ca sĩ Mộc Lan yêu nhau và trở nên vợ chồng. Cặp danh ca Mộc Lan – Châu Kỳ rất nổi tiếng thưòng xuất hiện trong các chương trình đại nhạc hội và chương trình phụ diễn tân nhạc tại các rạp chiếu bóng .
Cuối năm 1949 cặp ca sĩ Châu Kỳ – Mộc Lan được ông Thái Văn Kiểm lúc ấy là Giám đốc Thông tin Huế mời về hát cho Đài phát thanh Huế. Tình nghệ sĩ thường hay mong manh, năm 1952 cặp vợ chồng Châu Kỳ – Mộc Lan chia tay nhau. Ông buồn bã một mình trở lại Saigon. Đây cũng là thời gian buồn khổ khác của Châu Kỳ và ông đã viết lên những bản nhạc buồn như “Từ giã kinh thành” , “Mưa rơi” (viết chung với Ưng Lang)… và ông định cư tại Saigon cho đến ngày nay. Ông tiếp tục hát cho các Đài phát thanh Quốc Gia, Pháp Á và đi trình diễn trong các đại nhạc hội khắp nơi trong nuớc. Sau đó ông bị động viên và phục vụ trong đoàn Văn nghệ quân đội.
Năm 1955 Châu Kỳ kết hôn với Kha Thị Đàng, một cô gái miền Nam. Hôn lễ được cử hành tại nhà hàng Trương Ký ở Chợ Lớn. Trong số khách tham dự có rất nhiều ca, nhạc sĩ như Phạm Duy, Phạm Dình Chương, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc, Dương Thiệu Tước, Trần Văn Trạch, Thu Hồ, Văn Phụng, Châu Hà, Hoàng Trọng, Thẩm Oánh… Đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc và có bốn người con, ba trai, một gái. Tất cả đều lập gia đình .
Ngoài những bản nhạc nêu trên Châu Kỳ còn có những nhạc phẩm sau : Khi ánh trăng vàng lên khơi, Chiều trên đồi thông, Cố đô yêu dấu, Đừng nói xa nhau, Em không buồn nữ chị ơi, Khuya nay anh đi rồi, Lá vàng khóc lá xanh rơi, Miền Trung thương nhớ, Giữa lòng đất mẹ, Tôi chưa có mùa xuân, Đón xuân này nhớ xuân xưa, Sao chưa thấy hồi âm, Cánh nhạn hồi âm, Con đường xưa em đi, Cuối đường kỷ niệm, Nước mắt quê hương, Em sắp về chưa, Vào mộng cùng em, Được tin em lấy chồng …
Sau 1975 ông bán căn nhà cũ và chiếc xe Vespa dọn qua Tân Qui, Nhà Bè trong căn nhà ọp ẹp với chiếc xe đạp cũ. Tại đây ông đã sáng tác bài “Bóng mát Tân Qui” lời ca của nhà thơ Kiên Giang, “Một mình với ghi-ta”, “Giọt đàn với giọt lệ”, “Bỏ phố lên rừng”, “Đôi dép ngược” …
Yên Huỳnh post

Trích lại từ http://cafevannghe.wordpress.com

Không có nhận xét nào: