Nhà văn
Nguyễn Mộng Giác - Tranh Đinh Cường
(Nguồn : tác giả Đặng Tiến)
Une saison d’homme
Entre deux marées
Quelque chose comme
Un chant égaré
Aragon
Nhà
văn Nguyễn Mộng Giác vừa qua đời tại Mỹ, ngày 02- 7- 2012 sau một
cơn bệnh dài, là tác giả hai bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa
biển động[1],
tiểu thuyết thời sự, sáng tác tại Hoa Kỳ 1982- 1989, gồm năm tập, 1
800 trang, và bộ tiểu thuyết lịch sử Sông Côn Mùa Lũ,
viết trong nước, 1978- 1981, 4 tập, 2000 trang , là hai bộ tác phẩm
đồ sộ nhất trong ngành tiểu thuyết Việt Nam, sau Cửa biển[2],
của Nguyên Hồng xuất bản trong nước đã lâu.
Tác
phẩm Mùa biển động đã được độc giả hải ngoại đón tiếp
nồng nhiệt. Tập một, Những đợt sóng ngầm, in năm 1984,
đã được tái bản nhiều lần, Bão nổi (1985) cũng vậy;
tập ba mang tên toàn bộ Mùa biển động, 1986, đã tái
bản. Bèo giạt in năm trước, 1988, thì năm sau tác giả
cho in tập cuối, dài nhất, là Tha hương.
Tiểu
thuyết Mùa biển động là một biến cố quan trọng trong
nền văn chương Việt Nam ở hải ngoại, cần được chào đón xứng đáng, và
cần được phân tích, thảo luận, phê phán cặn kẽ, bên ngoài cái vòng
khen chê tùy hứng và lẩn thẩn, hay cuồng nộ theo những định kiến
chính trị hay phe phái.
Bài này
giới thiệu từng tập một, theo giá trị ở thời điểm xuất bản, và cuối
cùng sẽ có phần tổng luận về năm tập. Để bạn đọc có thể đặt
Mùa biển động vào thể loại văn học của nó, tôi có bài khác,
về tiểu thuyết trường thiên nói chung –
đăng kèm.
Nguyễn
Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Định, đã có tác phẩm in tại Sài Gòn
trước 1975: Ba truyện dài, hai tập truyền ngắn và một tiểu luận.
Vượt biển năm 1981, ông khởi viết Mùa biển động ngay
từ trại tị nạn Kuku, và viết tiếp tại Hoa Kỳ. Nguyễn Mộng Giác có
một sức viết, một ý chí lao động nghệ thuật đặc biệt: trong tám năm
tha hương, phải làm nhiều nghề vất vả để sinh nhai, ông đã xuất bản
năm truyện dài, hai tập truyện ngắn[3]
và viết nhiều bài nghiên cứu văn học giá trị. Từ 1985, ông chủ
trương tạp chí Văn học nghệ thuật, từ 1986 đổi tên là Văn
học, hiện nay là tờ báo văn nghệ Việt Nam thuộc loại đứng đắn và
hay nhất, so với nhiều tạp chí khác cả trong lẫn ngoài nước. Khi
viết xong – nghĩa là rảnh nợ Mùa biển động - Nguyễn
Mộng Giác có tâm sự: «Từ bảy năm nay, tôi vừa viết vừa
lo đánh máy, vừa tự bỏ tiền in mấy bộ truyện dài này, trong khi vẫn
phải dành thì giờ cho việc kiếm sống… Xin bạn đọc hiểu cho rằng đây
là tim óc tôi, là mồ hôi của tôi, là máu của tôi»[4].
Một gương cần mẫn, một tình yêu văn nghệ, một cống hiến cho tiếng
nói dân tộc, ở mức ấy, ở một người Việt lưu vong, đáng cho nhiều
người suy nghĩ.
Nguyễn
Mộng Giác là người di tản, độc giả của ông, trước hết là người di
tản. Tác phẩm của ông phản ánh thế giới quan của người bỏ nước ra đi;
ông không mấy cảm tình với chế độ cộng sản, điều đó dễ hiểu và không
quan hệ gì với nghệ thuật.
Mùa
biển động
kể lại đời sống, vật chất và tinh thần, một thế hệ thanh niên đồng
lứa tuổi với Nguyễn Mộng Giác, quay chung quanh mươi nhân vật nam và
nữ, thuộc ba gia đình ở Huế. «Tôi muốn qua cuộc đời
thăng trầm của ba gia đình, phản ánh giai đoạn có nhiều thăng trầm
bể dâu nhất của người miền Nam, từ lúc chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ
đến ngày tôi vượt biên »4 – 1981.
Nhân
vật chính của Nguyễn Mộng Giác toàn là những thanh niên trí thức
thành thị, phần nhiều thuộc thành phần khá giả, bị cuốn vào những
cơn bão của lịch sử, trong non hai mươi năm. Tác giả đưa vào tiểu
thuyết những sự kiện có thật, nhân vật có khi trùng tên thật của
nhiều người thật, nhưng khẳng định rằng Mùa biển động
không phải là tiểu thuyết lịch sử mà chỉ là «biến
chuyển tâm trạng của [một] thế hệ thanh niên trưởng thành trong
chiến tranh […], cuối cùng trôi nổi theo một nhân vật chính đến chỗ
tha phương »[5]
(nhưng cuối cùng, các nhân vật chỉ «tha hương»
mà không «tha phương»).
Hai tập
đầu, Những đợt sóng ngầm (1984) và Bão nổi
(1985), gợi lại phong trào tranh đấu miền Trung khoảng 1964-67 với
những biểu tình, xô xát, tuyệt thực, hội thảo, bàn thờ Phật xuống
đường, xe tăng lựu đạn đàn áp…. Không khí tiểu thuyết sôi nổi, biến
cố dồn dập, các nhân vật thường xuyên dao động trong thời sự nóng
bỏng, được tác giả phản ánh dồi dào, trung thực. Nhưng cái hay là
tâm trạng của một lớp thanh niên: họ làm chính trị hàng ngày, hàng
giờ, với lập trường, quan điểm, vì cơn bão lịch sử đã thổi tạt họ
vào một đám cháy, chứ bản thân họ không phải là những con người
chính trị. Và sự lựa chọn của họ, chỉ tự do trong chừng mực nào đó,
trong những điều kiện xã hội nào đó mà thôi.
Khi hai
tập đầu ra mắt, đã có một số người phản ứng mãnh liệt trên vài tờ
báo chống cộng ở Bắc Mỹ. Đại khái họ chê trách Nguyễn Mộng Giác o bế
những nhân vật thân cộng, sau này theo Mặt trận giải phóng, như
Tường, bôi bác quân đội Sài Gòn qua nhân vật Lãng, và cả chế độ Sài
Gòn nữa, và tác giả đã đánh bóng cho phong trào Phật giáo, v. v. Khi
sự công kích trở thành thô bạo, đã có nhà văn lên tiếng bênh vực
Nguyễn Mộng Giác, và ông cũng có lần trả lời, đại ý rằng bộ tiểu
thuyết chưa xuất bản toàn bộ, vậy không thể đánh giá lập trường tác
giả qua hai cuốn đầu tiên.
Thật ra
thì Nguyễn Mộng Giác đã viết Những đợt sóng ngầm và
Bão nổi với tất cả tấm lòng tha thiết với kỷ niệm, với
tất cả những mất mát của bản thân; nếu ông có nâng niu sự cố này hay
nhân vật kia, thì đó cũng là tình cảm thường tình của người mẹ với
những đứa con – dù là con hư. Mà dù trong thâm tâm Nguyễn Mộng Giác
có nuôi nấng chút tình cảm nào đó với phong trào tranh đấu miền
Trung 1964-67, thì cũng chưa chắc gì ông đã tán thành quan điểm
chính trị và phương pháp hành động của phong trào đó. Nguyễn Tuân,
khi đề cao tài chém treo ngành của một đao phủ hay lòng yêu nghệ
thuật của một cai ngục, không chắc gì đã ưa nghề đao phủ hay cai
ngục. Thậm chí, viết văn, đôi khi chỉ là cách vân vê một vết thương
trong đời mình.
Nhà văn
Nhật Tiến yêu thích hai tác phẩm này là có lý do sâu sắc
[6].
Nhưng
dường như Nguyễn Mộng Giác cũng thấm đòn. Đến Mùa biển động,
tập 3 (1986, không có tên riêng), ông đã thận trọng hơn, chừng mực
hơn, «giữ võ» kỹ hơn. Động tác chỉ xảy ra mấy
ngày Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với những trận đánh, những vụ «xử
lý» chôn người mà mọi người đều biết; tác giả mô tả cảnh
thảm sát ở một chương áp chót và giải thích hiện tượng đó ở chương
cuối, như một tư liệu. Nhắc lại những tàn bạo của các đơn vị Mặt
trận giải phóng tại Huế, Nguyễn Mộng Giác chỉ nêu lên một sự thật
lịch sử, một trong nhiều sai lầm của phe giải phóng, nhưng thuộc
loại tàn bạo nhất. Nhưng cũng là một cách chứng tỏ rằng ông không
phải là người thân cộng, với những ai cần biết rõ điều đó để an tâm.
Về cuộc
tổng công kích Mậu Thân 1968 tại Huế, ngày nay ta có nhiều tác phẩm
tư liệu: từ Giải khăn sô cho Huế (1969), Tình ca
cho Huế đổ nát (1967) của Nhã Ca, đến bút ký của một số nhân
vật đã từng sống trong Mùa biển động như Hoàng Phủ
Ngọc Tường (Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, 1971), hay
Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Hà, Tô Nhuận Vỹ (Huế những ngày
nổi dậy, 1979), hoặc của tướng Lê Chưởng, chính ủy mặt trận
Huế thời đó (Đất nước vào xuân, 1979). Đây là những
chứng từ có giá trị lịch sử và văn chương. Ngoài ra còn có những hồi
ký mặt trận của các tướng Lê Tự Đồng, Trần Quý Hai. Có lẽ Nguyễn
Mộng Giác chưa đọc, chỉ dựa vào hồi ký của tướng Lê Minh và cuốn
The battle for the Tet 1968 của Keith William Nolan.
Tuy
nhiên Mùa biển động III là một cuốn sách hay, qua
thuật kể chuyện trầm tĩnh, chừng mực và hấp dẫn. Tác giả khéo gạn
lọc những chi tiết làm nổi bật tâm lý của người Huế trung bình lúc
đó. Chúng ta lại có dịp so sánh để thấy đặc tính của ba thể loại văn
chương: Hoàng Phủ Ngọc Tường viết bút ký, Lê Chưởng viết hồi ký,
Nguyễn Mộng Giác viết tiểu thuyết. Họ khác nhau không phải chỉ ở
«lập trường» hay vị trí quan sát, hay cách
nhìn, mà còn ở hành văn, ở thể loại. Điểm cuối cùng này về mặt văn
học, tôi rất thích thú.
Đến
Bèo giạt, tập 4, dường như Mùa biển động
đã đưa Nguyễn Mộng Giác đến Tiền Đường. Nợ tình đã trả xong trong
hai cuốn đầu, ân oán cũng đã phân minh với cuốn 3, tác giả phát
triển tài năng của mình thoải mái. Trước hết, ông đổi không gian: từ
Huế, động tác chuyển vào Qui Nhơn, và phần nào Sài Gòn. Thời gian
cũng im ắng hơn: kỷ niệm Mậu Thân đang kéo da non thành sẹo, người
ta lo lắng cho hòa bình. Chuyện xảy ra từ 1968 đến Hiệp định Paris
1973: Ngữ, nhân vật chính, một hạ sĩ quan đã làm việc tại tòa tỉnh
trưởng Thừa Thiên, được chuyển vào Sài Gòn, học thêm, thi tú tài,
vào trường sĩ quan Thủ Đức, rồi được về làm việc tại tiểu khu Quy
Nhơn. Không khí chính trị bớt căng thẳng: không còn những đấu tranh
sôi nổi của hai tập đầu, cũng không còn sự ngột ngạt giữa hai lằn
đạn như trong tập 3. Bèo giạt là sự chờ đợi, suốt thời
gian hòa hội Paris. Cuộc tranh chấp chính trị, giới hạn trong phạm
vi cá nhân, quyền bính và địa phương, không phản ánh được sự chuyển
mình của miền Nam lúc đó; ngược lại, các nhân vật sống nhiều hơn đời
sống riêng tư của mình: tình yêu, tình gia đình, tình bạn xen kẽ vào
những chương trình thời sự. Lời kể chuyện nhẹ nhàng, linh hoạt, hấp
dẫn hơn, «tiểu thuyết» hơn; các nhân vật thoát
ly phần nào ra khỏi từ trường của thời đại, đã xê dịch, sinh hoạt,
đối thoại tự nhiên hơn. Về phương diện kỹ thuật, Bèo giạt
có những ưu điểm nhất định.
Những
ưu điểm đó cần được trả giá: trước hết là sự chênh lệch so với ba
tập trước. Từ một không khí nặng trĩu thời cuộc đè bẹp định mệnh,
những nhân vật như Tường, Ngô, Nam, bước sang Bèo giạt
người đọc như hụt hẫng khi nghe các ông trung tá, đại tá, giữa những
canh mạt chược, đàm luận về cách làm tỉnh trưởng: tỉnh lớn phải thế
này, tỉnh nhỏ phải thế kia. Trong khi đó, những năm 1970-73 miền Nam
đang đi vào khúc quanh quyết định: hòa hội Paris, chính sách Việt
Nam hóa chiến tranh, mặt trận Trị Thiên, mùa hè đỏ lửa, cuộc đấu
tranh tại các đô thị chống tham nhũng, độc tài… Tác giả có viện lý
do không viết tiểu thuyết lịch sử đi nữa, thì người đọc vẫn mong đợi
nhiều âm vang hơn của thời sự, dù chỉ là thời sự của tỉnh Bình Định,
một địa phương quan trọng, thời đó có nhiều sự cố.
Để vớt
lại nhược điểm đó, tác giả đưa ra nhiều nhận định tổng quát về chính
trị: về chế độ Ngô Đình Diệm (tr. 1076), về tác dụng vụ tấn công Mậu
Thân (tr. 1080) – cả hai nhận định đều không mấy liên quan đến
Bèo giạt, có liên quan là những ý kiến về chương trình
bình định nông thôn (tr. 1068), tiếc rằng những trang viết này vừa
dài dòng, vừa sơ lược và nằm ở ngoại vi tiểu thuyết.
Tóm lại,
Bèo giạt dễ đọc hơn ba cuốn trước nhờ lối kể chuyện
của tác giả. Nhưng cũng như toàn bộ Mùa biển động, tác
phẩm mang nặng tâm tình của tác giả - một Nguyễn Mộng Giác bớt say
đắm và trầm tĩnh hơn.
Mà kỷ
niệm vẫn thiết tha, đằm thắm: tiếng cửa sắt mở hé ở tòa soạn Bách
Khoa; tiếng đánh máy chữ lóc cóc giữa tiếng ì ầm của máy in, ở
tòa soạn báo Văn, hai chữ «tình thân» ở
cuố thư, vẫn còn gợi nhiều âm hưởng da diết đối với nhiều người,
trong đó có Nguyễn Mộng Giác, có cả tôi: chúng tôi bắt đầu yêu, yêu
cuộc sống, yêu văn chương qua những âm hưởng đó. Và nay, đọc lại
Nguyễn Mộng Giác, sau bao nhiêu mùa biển động, bầu trời trong tôi
bỗng ánh ỏi rất nhiều tiếng chim vườn cũ.
Đặng Tiến
Orleans,
29 tháng giêng 1990, đọc lại và cập nhật 02-7- 2012,
để tưởng
niệm Nguyễn mộng Giác
[1] Mùa biển động,
năm tập đều do nhà Văn nghệ (California) xuất bản; tập cuối
Tha hương, 1989, giá 21 đôla Mỹ. Địa chỉ: P.
O. Box 2301, Westminster, CA 92683, USA.
[2] Cửa biển,
gồm có Sóng ngầm (1961), Cơn bão đã đến
(1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa
con ra đời (1976), đều do nhà Văn học xuất bản, Hà
Nội. Riêng Sóng ngầm in lại trong Tuyển
tập III Nguyên Hồng, nxb Văn học, Hà nội, 1985.
[3] Ngựa nản chân
bon, 1984, Xuôi dòng, 1987, nxb Văn
nghệ, California.
[4] Nguyễn Mộng Giác,
Tha hương, sách đã dẫn, tr. 1860 và 1853
[5] Lời giới thiệu ở trang
bìa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét