võ công liêm
ĐẠI THỪA /
MAHÀYÀNA / GREATER VEHICLE
LÒNG THƯƠNG XÓT Và SIÊU HÌNH HỌC
Bồ-đề-đạt-ma diện bích - Võ
Công Liêm
Là giáo phái
thuộc hệ thống tu tập Phật giáo
đã xuất hiện và phổ cập rộng rãi
qua kinh điển (scriptures) khởi
từ thế kỷ thứ nhất (BCE). Đó là
hành trạng đưa tới tình thương
trong triết lý siêu hình của
Phật giáo Đại-thừa –Mahàyàna:
the path of compassion and
metaphysics.
Ở đây là dấu ấn
của đổi mới tư duy và tu tập ở
cõi ngoài của kinh điển Pali để
trở thành một giáo phái được gọi
là Đại-thừa/Mahàyàna. Pali là
một cổ kinh Phạn ngữ thành hình
ở Nam-Ấn (Old Indic Prakrit
Southern Indian) còn được gọi là
’pãli-bhãsã’, một ngữ ngôn riêng
biệt của giáo phái Đại-thừa.
Điều đáng chú ý ở đây là sự khác
biệt giữa những tu viện và người
tu Phật; một kinh điển hoàn toàn
mới đưa chúng sanh tìm đến con
đường giải thoát, một kiểu thức
gần như hiển lộ gần gũi với con
người. Coi kinh điển như giáo
luật (Pali Canon) dựa trên lời
Phật dạy. Một thừa nhận cố hữu
coi trọng như kinh luật của phái
Tiểu-thừa. Những người theo phái
Đại-thừa giải thích rằng: chỉ có
giáo lý tối thượng là khai sáng
tâm như để nhập vào một ý thức
xót thương và mở ra một thân tâm
siêu thoát. Kinh Đại-thừa
(Mahàyàna sutra) nhấn mạnh một
cách quan trọng về kinh nghiệm
và đường hướng của giáo pháp.
Pháp (dharma) không những biểu
hiện cho kinh điển; phái
Đại-thừa cho đó là một sự biến
hóa vô thường, qua kinh nghiệm
tu tập thì đây thuộc trạng thái
thức tĩnh để tìm kiếm con đường
giải thoát đó chính là giá trị
lớn lao cho cuộc đời đang sống.
Ở mỗi tu viện
hay những trường học Phật giáo
từ cấp tiểu đến cấp đại thường
đưa giáo lý Đại-thừa vào giáo
trình, một phần gần như thuộc
văn học nghệ thuật dành cho phép
tu, một phần thuộc bộ môn triết
học siêu hình đạo Phật; lấy đó
làm chủ đề cho cuộc sống của tu
sĩ và tu nhân. Một phương pháp
tu học hoặc xem đây như nghĩa lý
minh triết thiện xảo (skillful
means) là một thúc đẩy từ trí
tuệ để đạt tới Như-Phật. Thức
tĩnh là giác là ngộ đi từ vô đến
hữu và ngược lại, một tri nhận
biến hóa (varied) vô thường của
lẽ đạo; trong đối kháng đó là
một quan hệ tương đồng với giáo
phái Tiểu-thừa
(Theravada=Hinàyàna)(*), nhưng
tập truyền của Đại-thừa có một
ít đặc điểm chung chung và thông
thường giữa hữu thể và tha thể
nghĩa là đạo mở ra từ tâm chớ
không còn là khuôn phép; trọng
tâm của Đại-thừa là làm sao đạt
tới tâm-như-nhiên để thành
Phật(?); Đại-thừa lấy kinh điển
để đưa tới giải thoát, nương vào
tình thương (mercy) và sám hối
(confession) là ngọn đuốc giáo
lý Đại-thừa: ’tự giác, giác tha’
là vậy. Tất thảy nằm trong vũ
trụ của Mandalas và Thang-kas
gần như đây là phép tĩnh lự là
một trợ lực cho định tâm và
chiếu sáng vào trí tuệ. Yếu tố
nầy là con đường đạo hạnh trong
Đại-thừa dẫn tới cõi tịnh độ,
cõi siêu thoát; không những sự
chết mà ngay cả sự sống đều lấy
tình thương và giáo lý siêu hình
nhà Phật làm chuẩn cho môn phái
Đại-thừa. Cái đó Đại-thừa còn
gọi là thân-tâm của hồn và xác.
Đạo sư Soen Nakagawa-roshi
nói:’Bạn không đứng đây một mình
bạn, nhưng đang đứng trong một
hiện hữu của tất cả tri nhận an
nhiên. Hãy giữ trí tuệ bạn trong
sáng và nồng nhiệt’ (You are not
just here for yourself alone,
but for the sake of all sentient
beings. Keep your mind pure and
warm.)
Bồ Tát/
Bodhisattvas: xuất hiện sớm
trong kinh điển Đại-thừa; đó là
Liên-Hoa-Kinh(Lotus Sutra) là
một thể kinh làm mới lại, dựa
vào giáo luật kinh điển bởi do
yêu cầu của giáo hội Đại-thừa
lấy căn bản từ kinh điển làm
phương tiện thiện xảo để tu tập
vì những gì trước đây chất chứa
một khả năng chưa trọn vẹn giáo
lý nhà Phật và thay thế vào đó
một sự thật trong sáng.
Pháp-Liên-Hoa/Lotus Dharma được
xem là phẩm kinh chính của
Đại-thừa. Phật giáo được truyền
thừa từ lời dạy của Phật qua các
môn đệ, một đòi hỏi cho người tu
Phật cần phải có một trí tuệ
minh mẫn và một thể xác tráng
kiện mới mong giữ được chánh
pháp Phật. Đây là những gì đã
được giải thích bởi những người
dày công tu học và được nhìn
nhận như một đạo giáo sống thực,
cung kính thờ phượng như đấng
Thế Tôn và cũng được coi là Đạo,
dẫn đường và truyền đạt chúng
sinh tu tập, dù là thần thoại
siêu hình , dù là tập quán điạ
phương đều dựa trên Pháp để hành
động, để làm sao đạt được chân
tâm nhà Phật. Đó là cốt tủy Phật
giáo Đại-thừa. Một cá tính độc
đáo của Đại-thừa là giải phóng
khỏi phiền não bằng một khả năng
của trí tuệ nhận biết qua kinh
điển cũng như qua kinh nghiệm
sống; Liên-Hoa-Kinh đòi hỏi một
dữ kiện duy nhất là đạt được mục
đích trí tuệ trong sáng Như-Phật
để đi tới Chân-Như giải thoát để
thân tâm không vướng mắc mà còn
gìn giữ những lợi ích khác. Dữ
kiện đó được khẳng định một cách
quả quyết rằng chúng ta không
những được gọi là giải thoát từ
cá thể nhưng phải có
tính-phật-tự-tâm (Buddhahood
itself) thì mới đến được bờ giải
thoát. Liên-Hoa-Kinh cho rằng
tất cả hiện hữu là một khả năng
khơi dậy từ Phật tính để quyết
định dẫn tới vô lượng chúng sanh
một cách tất nhiên và hữu hiệu .
Giáo phái tân Đại-thừa ngày nay
nhìn chân-như Như-Phật là Bồ Tát
một hiện hữu sống thực như dâng
hiến từ tâm-như siêu thoát; vì
những đấng tôn thờ Bồ Tát đã
giải thoát từ tiền kiếp cho tới
nay. Bởi cả hai: tu sĩ và thế
tục luôn khấn nguyện (vow) để
thân tâm trong sáng và tu tập để
xứng đáng như Bồ Tát ở kiếp sau
(tư duy nầy nặng phần giáo pháp
của Tây Tạng).
Ngày nay
Đại-thừa thường hành lễ và tụng
niệm vào Tứ-Đại-Bồ-Tát (Four
Great Bodhisattva) được biên tập
nhiều lần và thành phẩm kinh ở
Trung quốc vào thế kỷ thứ sáu.
Bồ Tát không
những chỉ là ý niệm lý tưởng và
phẩm hạnh dành cho thế gian. Bồ
Tát được nhìn như diện mạo bất
diệt của Phật, một thể hiện của
Bồ Tát là một trí tuệ nhiệm mầu
ban ơn, che chở hoặc được che
chở trong tình thương cứu độ
chúng sanh, cung dưỡng và cầu
khẩn để được độ trì. Hầu hết ở
Đông-Á (East Asia) xem Bồ Tát
Quan Âm (Kuan-yin/Kannon) là
đấng được cầu xin linh ứng và
hữu hiệu. Dù rằng Quan-Âm được
mô tả giới tính nam
(Avalokitesvara) ở Ấn-độ;
Liên-Hoa-Kinh nói rằng Quan-Âm
dưới bất cứ dạng thể, dù là vô
thể chăng nữa đều đem lại tình
thương và cứu rỗi hoặc độ bất cứ
gì qua lời khấn nguyện và được
sắp xếp trong những giới tính
khác nhau chừng ba mươi ba thể
cách tượng trưng. Ở Đông-Á thờ
phượng Quan Âm qua giới tính âm
thường như che chở những trẻ thơ
và nhìn Bồ Tát Quan Âm là đấng
cứu nạn, cứu khổ, ban phép mầu
cho thai nhi và những bà mẹ thai
nghén. Một đặc trưng khác của
Đại-thừa Tây tạng; Bồ tát là
hình ảnh bao che với tình thương
là đấng thương yêu, cứu chuộc
bao trùm vũ trụ-Avalokitesvara
còn được biết qua Phạn ngữ:
Amitabha là hào quang vô tận
Phật soi rọi tình thương, đấng
Vô-nhiễm (Pure-Land) cung dưỡng
như tiếp dẫn giữa con người và
đấng ‘Toàn năng’ một linh ứng
khai mở vào tiền kiếp Phật (the
Buddha of the Past)của
A-di-đà-Phật (Amida/Amitabha).
Ba Pháp-thân
Phật (The Three Bodies Of
Buddha)
Theo Phật giáo
Tiểu-thừa (Theravada) Phật là
hình ảnh có tính lịch sử muôn
đời, dù Phật không hiện hữu
nhưng Phật đã để lại Pháp
giới/dharma như mở đường tu học
và hành đạo. Phá chấp để đạt tới
Chân-Tâm-Phật. Ngược với
Đại-thừa nhìn Phật là đấng toàn
trí, toàn lực, toàn bích (bi trí
dũng) của vũ trụ. Theo tư duy
siêu hình, Phật nói lên sự hiện
diện bất diệt trong vũ trụ với
ba diện mạo, ba khiá cạnh hoặc
coi đây là pháp thân/bodies vô
nhiễm, ánh sáng trí tuệ vũ trụ
mà Phật là chứng thực với một
hiện hữu tuyệt đối, một pháp
thân chân phúc, là ánh hào quang
tỏa chiếu cực lạc; thờ phượng
Phật tức theo Phật-pháp đó là
truyền thông từ Bồ Tát.
–Metaphysically; Buddha is said to be an eternal presence in the universe with three aspects, or ‘bodies’ the pure universal consciousness in which the Buđdha is indentical with absolute reality; the body of bliss, that radiant celestial aspect of Buddhahood that communicates the ‘dharma’ to Bodhisattvas.
–Metaphysically; Buddha is said to be an eternal presence in the universe with three aspects, or ‘bodies’ the pure universal consciousness in which the Buđdha is indentical with absolute reality; the body of bliss, that radiant celestial aspect of Buddhahood that communicates the ‘dharma’ to Bodhisattvas.
Bồ Tát hóa thân
để biến thành Phật, biến hóa vô
thường để cứu nhân độ thế. Cái
đó nó nằm trong diện thức của
thân tâm, hiện hình giữa thế
gian như chứng thực lịch sử có
thật của Phật.
(Shakyamuni
Buddha) sự thật mầu nhiệm dưới
danh xưng tụng niệm qua vóc dáng
một Thích Ca Mâu Ni / Siddhartha
Gautama / Sakymuni là đấng trí
tuệ nhân từ (Shakya sage). Người
theo đạo Đại-thừa nhìn Thích ca
là Phật, là; đấng chiêm ngưỡng
và thờ phượng. Ngược lại
Tiểu-thừa không thần thành hóa
mà gần như không thừa nhận hữu
thần (nontheistic). Với Đại-thừa
hình ảnh Phật được Phật hóa qua
những tựợng thờ như chứng minh
có sự linh ứng Phật tính
(theistic status) kể các bậc Bồ
Tát đều được nhìn nhận là
Phật(Phật Di Lạc hay Phật Điạ
Tạng…) Nhưng một số khác của
Đại-thừa dẫn giải sự tu học về
Bồ Tát và Tam-thân (3 thân) nhà
Phật, là biểu hiện linh ứng hơn
là biểu hiện tính triết học (như
phái tiểu-thừa) như thể là ẩn dụ
hay hàm ý cho một diện mạo của
trí tuệ minh mẫn trong một tư
duy linh hiển cõi ngoài của vũ
trụ. Từ đó cho một viễn ảnh ;
niết bàn(nirvana) là cái điều có
thể miêu tả là ‘cõi sáng’,cõi
tuyệt đối đầy chân phúc và một
trí tuệ cực sáng –From this
point of view, nirvara can be
described as the state of pure,
blissful and radiant
consciousness.
Cõi-Không /
Emptiness
Kinh điển
Đại-thừa diễn tả Phật như một
hình thức siêu thể vượt ra khỏi
không gian và thời gian, thần
thông biến hóa vào những nơi
cùng xẩy ra sự kiện, ảo hóa vô
thường để dẫn độ chúng sanh vượt
qua bên kia bờ giác ngộ. Song
le; những vị cao tăng không
nương vào những hiện tượng đó mà
tu tập, một đôi khi Đại-thừa
quan niệm gần gũi với Tiểu-thừa;
ở đó chỉ có một hiện thực siêu
nhiên, một đỉnh cao vô hạn thế.
Trong kinh cổ ‘Udana’ giáo luât
Pali-Canon với một đòi hỏi tu
Phật phải có một: vô-sinh,
vô-tử, vô hoán đổi, vô tạo dựng.
Nếu là Không thì là
Không-tất-cả, đó là điều có thể
không còn chủ đích cho cuộc đời
hoặc một rèn luyện nào khác hơn
‘O monks; there is an unborn,
undying, unchanging, uncreated.
It it were not so, there would
be no point to life, or
training’. Có một vài cái vừa
phức tạp vừa mâu thuẩn trong
phái Đại-thừa đưa dẫn ý niệm về
cái gọi là ‘Sunyata’ nghĩa là
hoàn toàn trống, rỗng, vô hiệu
ứng hoặc coi đó là cõi-không;
một vài triết thuyết của Phật
học cho rằng tất cả những gì
trên quả đất nầy dựng lên rồi đi
tới hũy hoại nghĩa rằng không có
gì là bất tận cả. Thế giới thuộc
hiện tượng ‘Samsara’ nghĩa là
sinh, tử vẫn là trống không của
hiện hữu cố định, ngay cả cõi
niết-bàn cũng là Không trong một
cảm thức, dù là nghĩ đến một xây
dựng khác đi nữa, tư duy đó vẫn
là không dù một điều kiện độc
lập. Niết bàn không còn là hiện
thực vĩnh hằng, mà đó chỉ là
điều mong muốn, thâu nhận như
ước nguyện. Cho nên chi trong
triết lý Tánh-Không chỉ rút tiả
kinh nghiệm ở chỗ Không mà ra và
làm nền móng cơ bản trong hầu
hết kinh điển để tu tập theo
giáo phái Đại-thừa; là truyền
thừa(vehicle) những kinh điển
khác biệt vào bước đầu việc tu
tập. Trong phổ kinh Tâm-kinh
(Heart Sutra) là phép tu chính
trong các tu viện Đại-thừa ở
Đông Nam Á; trở thành tập quán
của Phật giáo là hệ thống hóa
những đổ vỡ trước đây: Bồ Tát
Quán Thế Âm đưọc nhìn qua
ngũ-thức tích lũy vốn có của con
người (thể thức, cảm thức, tri
thức, ứng thức và nhận thức) mà
mỗi thứ đều chất chứa tánh-không
một cách tuyệt đối. Với hiện
thực hoá, Bồ Tát trở nên mãn
nguyện những gì cứu rỗi. Cho đến
sinh, tử, trong, đục, tăng, giảm
đều được coi là trống-không. Sáu
cảm thức chủ thể, sáu cảm thức
hữu cơ và sáu cảm thức tri nhận
cũng được coi là trống-không
–the six sense objects, the six
sense organs and the six sense
awarenesses are seen to be
empty. Vòng quay của cuộc đời
cững được coi là trống-không. Dù
có nhận biết và đạt đến tri nhận
đều chỉ là lời nói của
trống-không. Với ‘trí tuệ tuyệt
hảo/perfection of wisdom’ vẫn
không phải là chướng ngại, tuy
nhiên không đưa tới sợ hãi và
không còn là ảo giác để đi tới
niết bàn. Tất cả là Trống-Không
chỉ còn lại Như-nhiên, Như-phật
và Như-lai.
Đối tượng của
Phật giáo Đại-thừa tập trung vào
Tánh-không được thay thế như một
giáo lý, như chỉ thị của đấng Bồ
Tát :’ Gate, Gate, paragate,
parasamgate, bodhi, svaha!’
(Buông thả, Buông thả, để tới
cõi ngoài kia, tới bờ giác khác.
Ôi siêu thoát, tất cả lời mời
gọi!)
“Gone, gone,
gone beyond, gone to other
shore. O enlightenment, all
hail!”.
Phật giáo
Đại-thừa là cung dưỡng và lấy sự
cân bằng qua mọi sanh hoạt để có
trí tuệ trong sáng dù trong một
sinh động mù quáng hay trong một
tâm như trong sáng của tình
thương là mạch nối giữa Phật
Pháp Tăng. Một tâm như nhiên ấy
là Phật tính của giáo phái
Đại-thừa.
VÕ CÔNG LIÊM
(chỉnh sửa và
phụ ghi ở TrúcLâm Bạchmã tự.
Truồi. Huế. 16/5/2013)
______________
(*)Theravada=Hinàyàna= Lesser Vehicle= Tiểu-thừa. Thường gọi là Phật giáo Tiểu-thừa; giáo phái nầy chú trọng vào nguyên thủy của khuôn phép tu tập để đạt tới chân như Niết bàn ; qua phép tu thiền định. Tiểu-thừa phát triển mạnh mẽ ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam-Pu-Chia và Việtnam.
SÁCH ĐỌC: ‘Living Religions’ by Mary Pat Fisher. Prentice-Hall River, NJ. USA 2002.
ĐỌC THÊM: 1)‘SaddharmapundarikaSutra/Lotus Sutra/Liên-Hoa-Kinh’và 2)‘Thân Tâm Nhà Phật/On the Bodies of the Buddha’. Bài của võcôngliêm đã đăng ở một số báo mạng và báo giấy hoặc l/l: lvocong@hotmail.com
để lấy thêm chi tiết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét