“… Nên thơ thay, con người cư trú trên tinh cầu này.”(c’est poétiquement pourtant, que
l’homme habite sur cette terre).
Đó là câu thơ hay của Holderlins (1770 –
1843) , một trong những thi nhân nổi tiếng ở Đức. Cũng là chủ đề trong tác phẩm
“ Thi, ngôn ngữ, ý tứ” của Heidegger bình luận về Holderlins và bản chất thi
ca. Chỗ cư trú của con người ở đây là thi ý. Thi ý kiến tạo bản tính đặc thù
của nơi cư trú; thi ý và cư trú không hề bài bác lẫn nhau; trái lại nó cùng
thuộc một vị trí hỗ tương hô hoán cho nhau. Thi ý là năng lực cơ bản nơi con
người cư trú. Ý nghĩa của thi ý cư trú là gì? Nó có ý nghĩa là tự do thẩm mỹ.
Heidegger chủ trương “ thi ngôn chí “;
phương pháp phê bình của ông là đem thi,
ngôn (ngôn ngữ) và chí (tư tưởng) phân chia ra để chúng “đối thoại” với nhau,
rồi từ sự đối thoại của ba sự kiện đó mà hiển hiện tư tưởng ý nghĩa. Ông cho
rằng “tính của nghệ thuật là thi tính”. Một trong những nhiệm vụ của thơ là bộc
lộ ý nghĩa và chân lý, mà chân lý và ý nghĩa bị ẩn giấu trong ngôn ngữ và thi ca. Phê bình là bài trừ
sự che đậy, khiến cho tư tưởng và ý nghĩa phô bày ra, từ ẩn giấu đến phô bày
triển hiện tư tưởng ý nghĩa của ngôn ngữ và thơ. Ông nói sở dĩ chọn thơ
Holderlins làm đối tượng phê bình, không phải vì thơ của ông ấy được kể là nhiều
nhất, mà chỉ là vì thơ của Holderlins là thơ kêu gọi của định mệnh, chứ không
phải do chính bản thân biểu đạt tính chất của thơ. Điều đó giúp cho việc tìm
kiếm yếu tố bản chất của bản chất tính.
Ông trích trong tập thơ củ0a Holderlins 5 câu thơ quan thiết như sau
:
“
Trong tất cả hoạt động của con người làm thơ là chân thực nhất “
“
Vì vậy con người có một thứ của cải nguy hiểm nhất là ngôn ngữ - nhưng chính
điều đó lại chứng thực sự tồn tại của nó.’
“
Từ khi con người có sự đàm thoại, có thể nghe được âm thanh người này người
khác”
“
Nhưng có được sự trường tồn ấy do thi nhân đạt được thần tứ.”
“
Con người có đầy đủ tài đức, nên thi ý được cư trú trên mảnh đất này.”
Rõ ràng là ông ta quan tâm đến thơ và lịch sử ngôn ngữ, chủ
nghĩa tồn tại, và phương thức suy luận. Cho rằng lãnh vực hoạt động của thơ là
ngôn ngữ. Do đó bản chất của thơ cần phải thông qua bản chất của ngôn ngữ để
hiểu rõ. Cơ sở “hiện thế” của con người là đối thoại, ngôn ngữ trong sự đối
thoại mới chân chính thành hiện thực. Holderlins đi thẳng vào sự suy luận bản
chất của thơ, từ chỗ tối cao của ý
nghĩa mà nhìn thì đó là lịch sử, vì nó
là thời đại chuẩn bị lịch sử, nhưng kể như là bản chất của lịch sử thì nó là
bản chất của bản chất tính.
Sao lại gọi là bản chất của bản chất
tính? Sartre cho rằng, đó là tự do, Theo quan điểm của ông “vũ khí phê phán
không thể quay lại phê phán vũ khí”; thi tính triển khai tách rời nội dung của
tự do, thì nó sẽ biến thành ngôn ngữ học, tu từ học, phù hiệu học, ngữ nghĩa
học, tự thuật học, và đối tượng tư duy, không thể nào thành bình
luận tự do của phản tỉnh. Vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20, văn đàn Tây
phương đã biểu hiện sự lầm lẫn về phê bình, quá thiên về phê bình hình thức mà
quá ít phản tỉnh tự do, văn học đánh mất bản
chân tự do, phê bình thành ra giảng giải và chính là đánh mất giá trị tồn tại. Đối với văn học Pháp cũng
như Âu Châu từ thế kỷ 17 trở lại đây, theo Sartre đó là thời đại triển khai
dạng thức phê bình thi tính tự do hóa của Hegel. Ông giống như Hégel triển khai
sự thăng trầm tiêu trưởng của lý niệm, biểu hiện một thứ cuồng nhiệt mãnh liệt phê bình tư do hóa thi tính, phác
họa gần 200 năm cái quỹ tích vận động tự do hóa văn học.
Ông cho rằng thế kỷ 17, giữa tác giả và
độc giả có sự đồng nhất tính, chức trách của tác gia rõ ràng, đối tượng tả tác
là có những sự giáo dưỡng, giới định nghiêm túc, độc giả tích cực, những độc
giả đối với tác giả cùng tiến hành coi ngó chăm sóc tác gia không có đầy đủ khả
năng diễn đạt quá tự do. Chủ nghĩa văn
học cổ điển không có sức lực biểu hiện tinh thần tự do; tác giả chủ nghĩa cổ
điển là một thứ giai cấp ký sinh, họ không vì đại chúng lao động mà thuyết thoại,
nỗ lực làm cho tác phẩm tận thiện tận mỹ, hợp với đạo đức luân lý và qui phạm
của xã hội, chỉ làm vui thích tầng lớp quí tộc và vua chúa. Tác phẩm miêu thuật
nhiều sự thể nghiệm, hòa hài mà xung đột thích ứng đối với phê phán. Ý chí tự
do không được phô bày đúng mức. Văn học
thế kỷ 18, thời kỳ cao độ của giai cấp tư sản, đó là thời đại có hương vị, tính
chính trị, tính dân chủ và tính tự do được triển khai, tác giả không chỉ được
giai cấp lãnh đạo nuôi dưỡng, mà còn được giai cấp tư sản cùng dân chúng duy
trì; sự tả tác của tác gia xuất hiện đối tượng phục vụ và đa nguyên hóa, như
Kant, J.J. Rousseau có thể biểu đạt trực tiếp sự thể nghiệm và cảm tưởng đối
với vấn đề tình dục, thống khổ, tự do v..v… Tinh thần tự do của thế kỷ 18 là
thời kỳ có thể đưa đến sự phản ứng của công chúng, nhưng cũng là thời kỳ của
lịch sử lý tính, lịch sử của quyền lực.. Sự lưu hành văn học giáo hội, sự hoằng
dương tinh thần lý tính đến một trình độ nào đó chắc chắn sẽ ức chế tinh thần
tự do văn học.
Đối diện với văn học thế kỷ 19 trở lại đây,
Sartre căn cứ theo quan điểm tự do của giai cấp tư sản tiến hành phân tích thí
tính tự do hóa. Giai cấp tư sản coi văn học như là công cụ, mà văn học tự thân
thì khát khao độc lập, văn học khát khao đập phá hàng rào của giai cấp tư sản
để hướng về tự do, sự mâu thuẫn của nó sinh ra trương lực. Một mặt khác văn học
mang tính dân chủ, tự do, nhất là văn học bình dân đạt đến sự phát triển, sụ tự
do của nhân tính đạt đến trình độ biểu đạt; văn học thương nghiệp chiếm cứ bộ
phận thị trường, nó cởi mở sự ràng buộc của tư tưởng tôn giáo, cự tuyệt hình thái ý thức phục vụ
giai cấp tư sản; nhưng sự độc lập của văn học cũng như sự tự do bị sự dẫn dụ
của kim tiền. Dòng văn học chủ lưu chậm chạp và hình thức uốn cong hướng về
trường phái văn học hiện đại. Nó lại một lần nữa bị nhóm người thiểu số
cầm nắm, không thể nào tiếp thu được với nhân dân đại chúng. Văn học chuyển vào
giai đoạn phản tỉnh, nhắm đả phá các hình thức cũ và tôi luyện một thứ kỹ xảo
tả tác nhằm nỗ lực kiến lập tiêu chuẩn thẩm mỹ của chính mình. Kết quả là văn
học độc lập tính tăng gia, tự do tính lại không được duy trì một cách rộng rãi.
Sau thế kỷ 19, và sau hai cuộc thế chiến, giai cấp vô sản được phát triển, văn
học giai cấp tư sản cùng với giai cấp vô sản, về phương diện tự do cái nầy tiêu
thì cái kia trưởng tạo cho văn đàn có hai khuynh hướng chủ yếu: phủ định tự do và
tự do phủ định tạo thành nền văn học đang biến chuyển chưa biết về đâu ?
Khổng Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét