Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

KHÍ: VAI TRÒ CHỦ YẾU TRONG VĂN NGHỆ



                                                          Khổng Đức sọan dịch

KHÍ là một phạm trù quan trọng  trong triết học cổ điển Đông  phương, có khi  còn gọi đó là vũ trụ quan. Người xưa cho rằng  vạn vật trong vũ trụ đều là do khí tạo thành, cũng có khi nói là do khi sinh ra và biến hóa, hay khí là cội nguồn sinh ra vạn vật trong vũ trụ. Khí chia ra có âm có dương, do đó khi sinh hóa mới ban cho  vạn vật những đặc trưng và phẩm chất khác nhau. Đối với con người Khí cũng không thể thiếu vắng; nên Trang Tử từng viết trong Nam Hoa Kinh: con người sinh ra là do khí tụ lại, khí tụ là sinh , khi tản là chết, việc sống chết như đã qui định, chúng ta lo lắng mà làm gì ? Hoài Nam tử trong thiên Nguyên Đạo cũng nói:” Cái tâm vốn là chủ của ngũ tạng, cho nên điều khiển cả tứ chi, khí huyết lưu hành, tung hoành trong cõi thị phi, và cai quản việc nhà cửa. Cho nên không có cái tâm mà lại có cái khí của trời đất sao;  khác nào không tai mà lại điều động chiêng trống, không có mắt mà lại thích màu sắc, tất không thể nào có chuyện ấy được. Từ quan niệm khí đó đem vận dụng vào việc sáng tác văn học nghệ thuật, người thứ nhất sử dụng “văn khí“ là Tào Phi, nhà văn học vĩ đại trong thời Tào Ngụy. Chính từ thuyết văn khí của ông ta mà văn học cổ điển Trung Quốc tiến đến một thời đại  vô cùng mới mẻ. Triết học cổ điển  cho rằng, trong cõi trời đất tồn tại  hai khí âm dương; nó là hai nguyên tố cơ bản cấu tạo thành vạn vật, Hệ từ trong Kinh dịch từng viết: “Tinh khí vi vật”( Tinh khi tạo nên vật). Vậy tinh khí là chỉ cho hai khí âm dương, nó không chỉ hóa thành vật, mà còn tạo ra tinh thần. Sự biến hóa của nó vô cùng thần dịệu. không thể nào dự đoán được. Do đó  trong Hệ từ của Chu Dịch mới nói rằng:” Âm dương bất trắc  chi vị thần” ( Âm dương không lường được nên gọi là thần), như thế khí có sắc thái huyền bí. Triết học có nhiều trường phái nên khi cũng có nhiều cách giải thích khác  nhau; nhưng tất cả đều cho đó là yếu tố sinh thành vạn vật trong vũ trụ. Riêng  khí âm dương trong Kinh Dịch thích ứng với các hiện tượng trong xã hội, mang ý nghĩa tượng  trưng phong phú; như Âm không chỉ tượng trưng cho đất, mà còn tượng trưng cho nữ tính, cho sự nhu nhược; Dương không chỉ  tượng trưng cho Trời mà còn tượng trưng cho nam tính, cứng rắn mạnh bạo. Từ đó suy diễn sự biến hóa của vạn sự vạn vật. đối với triết học các đời sau có ảnh hưởng rất lớn.
Con người cũng ở trong sự chi phối của âm dương, cùng thống nhất với thiên nhiên, từ thời Hán trở đi hay nói đến “thiên nhân hợp nhất”. Nên khi biến thành cuộc sống cá thể cũng như tinh thần nhận thức vốn là một cơ cấu thiên nhiên, Quản tử mới nói rằng: “ Cái tinh của khí đi vào Đạo là sinh, đã sinh ra thì suy tư, mà suy tư là biết, nhận thức, biết rồi bèn dừng lại. Phàm hình thể con người vượt quá sự biết là hết sống. Một vật có thể biến hóa gọi là Thần, một việc có thể đổi thay gọi là Trí, sự biến hóa không đổi khí, cũng như thay đổi không  di dịch trí. Mạnh Tử cũng nói về tình chí liên quan đến khí và người: Chí là tướng soái của khí, khí là sự sung mãn của cơ thể. Cái chí mà chuyên nhất thì động đến cái khí, cái khí mà chuyên nhất thì động đến cái chí. Ông cũng phát huy sự dưỡng khí, cái khi đó là khí hạo nhiên, nó rất lớn, rất mạnh, cứ thuận dưỡng  đừng để bị hao tổn thí nó có khả năng lấp đầy cả trời đất (Hạo nhiên chi khí chí đại chí cương, dĩ trực dưỡng  nhi vô hại, tác tắc hồ thiên địa chi gian). Đến Trang Tử thì xem khí là gốc của sự sinh tồn. Ông cho rằng con  người sinh ra là do khí tụ lại, nên khí tụ là sinh, khí tản là chết, như đã nói ở trên; đồng thời ông cũng xem khí  là một thứ hư không , sự sống con người được coi là một cảnh giới cao nhất, tức là cảnh giới “ tâm trai” ( có nghĩa là chay tịnh ở trong lòng ).Đến đời Tây Hán thì khí đã thâm nhập vào đời sống tinh thần, được Hoài Nam tử giải thích : Trong đời sống của con người có ba  yếu tố rất quan trọng  đó là Hình, Khí và Thần, Hình thì coi như là cái nhà của sự sống, Khí là tạo cho cuộc sống  sung mãn, Thần là phép tắc của sự sống. Nếu một trong ba thứ đó mất di thì cả ba đều bị thương tổn. Khí là ở giữa khoảng hình và thần, là một thứ vật chất có công dụng  làm cho cuộc sống trở nên sung thực; nó có thể khiến cho cuộc sống có trạng thái bồng bột, hưng phấn. Ông còn giải thích thêm rằng khí có ý nghĩa với đời sống con  người, như tinh thần thì tinh  là khí của con người, còn thần là sự duy trì của con người.
Nói chung , thế giới này là do hai khí âm dương tạo thành; khí âm dương  không những cung cấp cho vạn vật, mà còn ban cho con người tinh thần. Nên con người phải tuân theo phép tắc của vạn vật mới bảo trì được sức sống hưng thịnh, mới có thể có được  sự sinh tồn tốt đẹp.. Đến đời Đông Hán thì có nhà tư tưởng Vương Sung, xuất phát từ lập trường  ý hướng nguyên khí thành tôn trọng  thiên nhiên. Lập trường của ông là lập trường của nhà Nho chống lại Hoàng Lão ( Đạo học) Ông tuyên bố : “ Khí trời đất giao hợp sinh ra vạn vật, cũng như khí của vợ chồng  giao hợp thì sinh ra con cái ( Thiên địa hợp khí vạn vật tự sinh, do  phu phụ hợp khí tử tự sinh dã). Lại nói, con người sở dĩ sinh ra là do khí âm dương, khí tác dụng nơi người khác nhau, nên khiến cho tính  cách chẳng ai giống ai, tài năng con người cũng từ đó có sự phân biệt. Trời hấp thụ nguyên  khí, còn người thì hấp thụ nguyên tinh; nói khác đi, tài năng con người cao thấp là do kết quả hấp thụ nguyên khí. Từ khi Tào Phi  đưa ra  vấn đề “ văn khí” mang tính cơ sở triết học, cũng từ đó phạm trù triết học biến thành phạm trù văn học. Ông bác bỏ quan điểm “ văn nhân tương khinh” và cho rằng  thể tài văn chương vô cùng phức tạp, do khí chất kẻ cầm bút khác nhau nên trong việc trước tác mỗi người có một sở trường riêng. Trong Điển  luận Tào Phi nói rõ: Tài tính của con người là do trời sinh, sức người không sao biến đổi được; ngay đến cha anh cũng không sao truyền thụ khả năng cho con em của mình. Khí cũng có tính thanh tính trọc, tính tình con người là do hấp thụ khí nuôi dưỡng nên rất khác nhau. Do đó mà  từ Mạnh Tử đã đề ra việc “dưỡng khí”, đến đời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, Lưu Hiệp trong tác phẩm “ Văn Tâm Điêu Long”  nêu rõ mối quan hệ giữa khí chất con người và sáng tạo văn học.: “ Khi tình cảm rung động,thì ngôn từ phát sinh, lý trí phát triển nẩy nở thì văn thơ hiển hiện; Bởi vì chúng ta bắt đầu từ sự ẩn tàng  mà đi đến sự  phô diễn biểu hiện ra bên ngoài. Tuy nhiên tài năng có kẻ tầm thường , có người phi phàm, khí chất có kẻ kiên cường, có người yếu đuối; học lực  có người nông cạn, có kẻ sâu sắc, vào đời có kẻ thanh nhã, có người ô trọc, v…v… Cũng theo ông Tài và Khí đều là tiên thiên, con người sinh ra là đã có rồi, việc học hành và luyện tập là hậu thiên, tức là phải thông qua sự học tập mới có được. Làm việc sáng tạo mà chỉ nhắm vào yếu tố tiên thiên không đủ, mà phải lo hàm  dưỡng việc hậu thiên. Ngoài ra còn phải chú ý tập trung vào tính tình thì tài, khí, học, tập mới trở thành sống động; phong cách sáng tác của nghệ thuật gia mới khai triển những hình tượng  mới lạ. Lưu Hiệp cũng nhấn mạnh vào việc dưỡng khí, chủ trương thần thái phải thanh tĩnh và bào trì nuôi dưỡng cái nguyên khí. Quan niệm dùng khí để đánh giá sự sáng tạo văn học nghệ thuật, sau đời Lục triều đối với các nhà lý luận đã thành một hành vi tự giác. Đến đời Đường, các nhà lý luận vận dụng khí để tiến hành việc phê bình văn học, và trở thành như quan niệm triết học truyền thống. Bạch Cư Dị từng viết :” Trong trời đất có ba yếu tố là Túy ( tinh hoa) Linh và Khí, vạn vật đều hấp thụ được ba yếu tố ấy, mà ở con người là nhiều nhất,  và trong các giai tằng  thì hàng văn nhân lại hấp thụ nhiều hơn cả. cho nên khí ngưng là tính, phát ra là chí, tản ra là văn…” Đến các triều đại Nguyên - Minh -Thanh sự  nhận thức đối với sáng tác càng tinh tế hơn, và đối với văn học nghệ thuật càng minh xác. Văn khí trở thành thần khí tính tình của tác gia nghệ thuật gia. Dương Hùng đời Nguyên từng nói: “ Con người có diện mạo cốt cách, có thần khí tính tình, thi ca hay dở, cao thấp  cũng từ thần khí.” Đổng Kỳ Xương cũng nói:” Văn cần phải có thần khi”. Liêm Khẩn đời Tống  kế thừa Mạnh Tử đề cao việc dưỡng khí, tức dùng  luân lý đạo đức của Nho gia hun đúc bồi dưỡng  tính tình con người.  Làm văn cần phải dưỡng khí, vì khí  cùng tính chất với trời đất, nếu có nó đầy đủ thì có thể phối hợp với Tam Linh ( tức Trời, Đất, Nguời ), quản nhiếp mọi việc; nên bậc quân tử chỉ lo phần bên trong  chứ không quan tâm việc ở bên ngoài.. Đến đổi có người cho rằng: Đạo là vua của Khí, và Khí là tướng soái của văn, Đạo sáng suốt thì khí hưng thịnh, khí hưng thịnh thì ngôn từ trôi chảy (đạt) trong văn chỉ cần  từ trôi chảy thông suốt  mà thôi. Thế nhưng có nhiều nhà lý luận còn nói đến khí vận, khí cách, trong khía cạnh luận văn, luận nghệ, đó là thời kỳ đối với khí thành ra đa nguyên hóa.
Tóm lại từ Tào Phi phân tích chia khí ra làm hai  loại thanh trọc, đến Lưu Hiệp lại phăng ra là cương khí và nhu khí. Thanh trọc và cương nhu thành đối ứng không phân biệt cao thấp. Về sau người ta lại nhấn mạnh đến  coi trọng thanh khí hay cương khí; cho rằng khi dương cương mới là loại hình lý tưởng. Vận dụng khí lấy thế mạnh mới là hay, đó là thế di chuyển không thể ngừng nghỉ, không ngừng nghỉ thì trôi chảy; giống như dây đàn căng thẳng, phát ra những âm thanh dịu dàng, êm ái, hay như dòng sông chảy  mau tung tòe thành các xoay nước lượn quanh  nhìn không  chán  mắt. Tư Không Đồ đời Đường trong Thi phẩm cũng đề cao khí: “ Vận dụng thần như không, vận dụng khí như cầu vồng…” Đó là tiêu chí của một  phong trào thẩm mỹ, nó phản ánh  khuynh hướng thẩm mỹ của mọi người.
                                                                                    Khổng Đức

Không có nhận xét nào: